Những Ngày Ở Trà Vinh . . . Hồi Ký của Nguyên Nhung

Giã từ vùng thung lũng hoa vàng với những đến đâu thì có lúc cũngsẽ qua, nhưng cái tình tri kỷ núi non bao quanh như một cái lòng chảo, giữa bạn bè với nhau thì tồn tại mãi với thời gian. Lần Sacramento hiện dần ra với cảnh đồng bằng nhiều cỏ này gặp Mầu là lần thứ hai, đúng 40 năm lúc hai đứa khô, khí hậu cũng rất lạ khi ban ngày nắng chói chang, còn ở tuổi ô mai, đuổi hoa bắt bướm. Mầu đến mà trên nhưng ban đêm và buổi sáng lại vẫn là khí hậu Ðà Lạt. tay còn cầm theo một đóa hồng đỏ thắm vừa bẻ ở Hồi hộp xen lẫn với chút cảm động khi nghĩ đến lúc trong vườn, nghe bạn kể mà cảm động, hai vợ chồng gặp lại Mầu, cô bạn gái nhỏ nhắn, dễ thương củaTrà lái xe đi một quãng, chực nhớ ra nên vội quay trở lại Vinh năm nào. để hái tặng bạn bông hoa hồng thắm đỏ mừng ngày Bốn mươi năm rồi, kể từ cái buổi trưa nắng xế hội ngộ 40 năm. ở khu nhà thờ Trà Vinh, hai đứa gặp nhau để vẫn mơ Lần lượt những kỷ niệm ở Trà Vinh năm nào, hồ là có một buổi trưa như thế, có câu chuyện như thế, cùng hình ảnh dáng dấp những người bạn cũ được mà sao cứ như in trong lòng hình dáng một đôi mắt nhắc đến trong câu chuyện tâm tình của đôi bạn. đen tròn tuổi học trò, nét đẹp thùy mị đầy thánh thiện Khung trời Trà Vinh với nhưng cây sao già, tiếng và lối nói chuyện rủ rỉ tâm sự của những cô gái tỉnh chuông nhà thờ, tiếng mõ êm đềm từ ngôi chùa Miên, nhỏ thật hiền hòa, dễ thương. Trà Vinh thuở ấy vẫn như Thi vẫn hay nói là không có nơi nào có được sự còn nguyên trong trí nhớ, dòng đời đẩy đưa qua nhiều hòa hợp tuyệt diệu đến thế, giữa hai tôn giáo không hề nơi chốn mà sao vẫn nhớ lạ lùng cái buồn ngái ngủ có một lằn ranh vì cư dân ở đó, có thể nghe được tiếng của trưa Trà Vinh, êm đềm đầy ắp kỷ niệm của một chuông nhà thờ ngân nga hai buổi sáng chiều, rồi vẫn thời mới lớn. thấy lòng tịnh lại khi tiếng mõ và hồi kinh công phu sớm chiều vọng ra từ ngôi chùa cổ. Xa Trà Vinh nhiều năm, nhưng khuôn mặt bạn bè thì vẫn ở lại, vẫn còn đó, không tách rời trong tâm trí những hồi tưởng về Trà Vinh, một tỉnh lẻ cuối cùng đi từ Vĩnh Long sang rồi kéo dài xuống vùng biển mặn Long Toàn. Nhắc đến Trà Vinh là nhớ đến tiếng trống trường Trung học Thánh Gioan trong khuôn viên nhà thờ, có núi đá Ðức Mẹ đèn nến quanh năm, buổi chiều một bọn con trai như Thi Cao Kều, Chậm Bụt tha hồ rủ nhau ra làm cầu thủ đá banh. Ðặt mấy cái "nick name" này cho đám bạn cùng thời, thật đúng người sao thì tên vậy. Thi cao giò lều khều , mặt xương xương còn mắt thì hơi xếch, trông tướng rất anh chị lì lì trấn một cõi khung trời tỉnh lẻ. Chậm hiền lành như bụt trong chùa, nhưng lại là bạn chí cốt với Thi trên mọi nẻo đường đời. Sau này hai thằng "nhóc" chuyên đá banh ở xóm nhà thờ Trà Vinh đều là hai chàng SVSQ khóa 25 trường Võ Bị Ðà Lạt tuấn tú, oai hùng một thời trên các nẻo đường Ðà Lạt, dung dăng dung dẻ với bao nhiêu em gái miền cao nguyên má đỏ môi hồng. Nhắc đến thời đi học mà không nhắc đến ông thầy già dạy Anh Văn kiểu người Pháp nói tiếng Ăng Lê là một thiếu sót. Cuốn sách đầu đời để học Anh Bốn mươi năm gặp lại Mầu, kể từ một hình văn là cuốn "Anglais Vivant" màu xanh da trời do nhà ảnh mơ hồ trong dĩ vãng mà sao lại có thể có một tình xuất bản "Hachette" để trẻ con Pháp học tiếng Anh, bạn gắn bó như vậy, trong khi có bao nhiêu con người với những hình vẽ rất xinh. Ông thầy già đi đi lại lại gần gũi nhau trong gang tấc, mà tình cảm thì lại vời xa trong lớp học, tay cầm cái thước kẻ bằng gỗ gõ nhịp đến cả đại dương. Không hiểu được mầu nhiệm của trên bàn. Lũ học trò vài chục đứa cứ thế mà đọc như một tình bạn, có ai nói rằng tình yêu dù có nồng nàn vẹt: " What is Jack? Jack is a boy. What is Jane, Jane

Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 41 is a girl" rùm lên như một cái chợ quê. Sau này khi cò xong, những móng tay đen thui bám đầy đất cát, Mỹ đem quân qua Việt Nam, phong trào học tiếng đến nhà thầy tóc còn khét mồ hôi nắng. Thầy cho ly Anh theo kiểu Mỹ với cuốn "English For Today" là nước chanh rồi bảo: lúc ấy cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng leo thang, " Tay trò dơ quá, đi rửa tay rửa mặt rồi vô nhà thờ không mấy ngày là không có lễ cầu hồn cho đây, thầy cắt móng tay cho.." tử sĩ. Bàn tay trẻ con xòe ra như hứng lấy chút tình Vui nhất là mùa Giáng Sinh, lớp học được nghĩa Thầy Trò đến già cũng không quên được. Sau chọn ra dăm đứa có triển vọng là mầm non ca sĩ, để này Thầy phải đổi đi nơi khác, học trò kéo đến nhà tập hát bài gì không nhớ tên: thầy ngồi đầy một lũ mà chẳng đứa nào nói được câu " I saw three ships come sailing in, on gì hay ho để tiễn biệt, chỉ nhớ là trò nhìn thầy, sụt sịt: Christmas Day on Christmas Day!" Bài hát Giáng Sinh buồn buồn dạo nào như " Thầy cắt móng tay cho con nè! Thầy rửa hiện về khuôn mặt khắc khổ của ông thầy già, nhưng mặt cho con nè!" tấm lòng của thầy thì bao la như biển. Lâu lâu được Kể chuyện này cho Mầu nghe, cô bạn cười mà sao Thầy chở đến lớp bằng chiếc xe đạp đàn ông, trò lại mắt cứ rươm rướm lệ. . . . ngồi vắt một bên trên cái đòn vông thấy sướng hơn đi Ở nhà Mầu hai hôm, được cô bạn cho ăn Phở xe hơi bây giờ. Xe cán qua mẩu thuốc lá cháy đỏ của "dã chiến" vì nhà xa khu chợ Việt Nam, mà cũng ngon ai vứt bên lề đường, khiến cô học trò bé bỏng lo sợ chẳng thua gì tô phở gánh ở Trà Vinh năm nào. Món hỏi: phở Bắc gia nhập về Trà Vinh do người bác của Thi " Thầy ơi! Cái tàn thuốc lá có làm bể bánh xe đem về xứ "mắm bồ hóc" này, sau đó trở thành món của Thầy không?" ăn chơi của người miền Tây những tối trời se se lạnh, Thầy cười thật hiền trêu lại cô học trò nhỏ: mùi phở lẫn với hương hành ngò, hồi, quế làm bao " Trò đừng lo, xe của Thầy chỉ xẹp bánh vì trò nhiêu con tì con vị nhảy nhổm lên không chịu được. nặng quá mà thôi!" Người đàn ông gánh gánh phở cất cái giọng khàn khàn " PHỞ" dưới ngọn đèn vàng lù mù đi vào các ngõ ngách của Trà Vinh, chắc giờ này cũng đã quy tiên về với Chúa, nhưng từ đấy dân Trà Vinh nồng nhiệt đón tiếp Phở vào thực đơn của họ, không kỳ thị như lúc ban đầu, nhìn người Việt gốc Bắc Kỳ như người khác nước.

Nhà Mầu nằm trong khu nhà rất yên tĩnh, thành phố Davis, cạnh Sacramento, gọi vui là nơi tập trung của những cư dân có máu mặt. Bao quanh thành phố là một con đường dành cho người đi bộ dài đến 26 miles, mỗi nhà trong khu vực đều có đường để đi bộ thảnh thơi sau những lúc làm việc mệt mỏi. Vườn trồng nhiều hoa hồng, sân trước vườn sau là những đóa hồng đủ màu khoe sắc, khu vườn được săn sóc bao giờ cũng có một chủ nhân tốt bụng vì biết yêu hoa cỏ. Từ trên lầu nhìn ra bên ngoài, phong cảnh rất là thơ mộng với những dáng thông xanh vươn lên ở góc đường, một chút Ðà Lạt của Thi và Chậm hiện về khi xung quanh nhà hàng xóm, nắng xuyên qua bóng thông làm cho căn nhà mát rượi. Yên tĩnh và yên tĩnh, khi những con sáo non bay ra khỏi tổ, còn lại những con sáo già lặng lẽ tận hưởng êm ái chút tình già, chẳng có chỗ nào hơn chỗ này nữa. Phía sân trước ở nhà Mầu, còn trồng nhiều

cây xương rồng hoa thật đẹp, hình như bạn cũng đã Nhà thờ Trà Vinh chụp ảnh gửi cho xem nhiều lần. Cây xương rồng Ôi cái thời niên thiếu ấy sao dễ thương vô khẳng khiu, xương xẩu như một người đói ăn, nhưng cùng, chuyện đến nhà Thầy như đi chơi nhà hàng xóm khi nở hoa thì không có thứ nào rực rỡ hơn mà lại tươi là chuyện thường. Có lần vừa chơi ô quan , nhảy lò thắm lâu như hoa xương rồng. Nhìn hoa bỗng hình Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 42 dung đến một tình bạn hay một người bạn quý mà hàng, cho nên món "dưa ăn liền" dòn mà ngon của bà mình có duyên gặp gỡ, dù sao thì dù, giữa nắng cháy đơn giản chỉ mỗi thứ 1 chén bằng nhau, cứ 1 chén như sa mạc xứ Nevada thì xương rồng vẫn nở hoa, dấm, 1 chén đường, 1 chén nước lạnh, độ 1 muỗng cà hay bao nhiêu mảnh đời đã bị vùi dập vì thời cuộc, vì phê muối con con chung vào nồi mà nấu sôi trên bếp chiến tranh, vì cuộc sống mà để khi gặp nhau tình bạn lửa. Chờ sôi lên là đổ ngay vào thau rau dưa còn tươi vẫn như đóa hoa thắm giữa miền cát khô. Hai đứa hơn hớn, trộn cho đều để nguội rồi đem cất vào tủ nhắc nhau nhớ đến một loài hoa sứ trắng ở Trà Vinh, lạnh, thả vào đó vài trái ớt hiểm, ít nhánh tỏi cho thơm cành cây khẳng khiu nở đầy những bông hoa trắng ở ăn cả tháng dưa vẫn ngon, vẫn dòn, vẫn nhiều Vitamin nghĩa trang, cái thời điểm mà biết bao nhiêu người C vì không bị nấu nhừ trên bếp. lính trẻ đã nằm xuống ở tuổi còn thanh xuân. Thời thiếu nữ đi học sao toàn đi qua nhà thương, nhà xác và nghĩa địa, nơi đó có mùi hoa sứ trắng thơm lạ lùng quyện với mùi khói nhang khiến lúc nào Trà Vinh cũng mang mang nỗi buồn cô phụ. . . Ngày thứ Bảy, Mầu đưa đi Lake Tahoe, một thắng cảnh tuyệt vời của Cali. Mùa hè mà thung lũng vẫn biếc xanh rừng thông óng ánh mặt trời, những ngọn thông vươn lên như hằng nghìn cây nến thắp trong thung lũng bạt ngàn của rừng và suối, tiếng róc rách của nước chảy từ khe trên núi khi tuyết tan đổ xuống thành thác nước trắng xóa. Rừng êm ả, xa xa là núi tuyết ngời ngời óng ánh vì nắng mặt trời, một vẻ đẹp yên lặng mà ngầy ngật đến mê say. Lưng chừng núi lại có hồ nước bao la xanh biếc, ai có ngờ được ở lưng chừng trời trên 7000 feet này lại có một hồ nước Bờ sông Long Bình trong xanh ấm áp như vậy, trời chỉ mát chứ không Chao ơi! Giờ chia tay đã đến, sao cô bạn tôi lạnh, nhiều người đang bơi lội thỏa thuê giữa nắng ấm lại khóc nhè dễ dàng trước mặt bá quan văn võ thế ban trưa. Mùa này là mùa "Camping" nên cũng có nhỉ? Mấy lần đi ra đi vào, lăng xăng sợ quên món này những Hội Chợ đặc biệt cho từng sắc dân theo phong món nọ như để cố dấu đi đôi mắt đỏ hoe vì xúc động, tục của xứ họ. Hôm ấy là hội chợ của dân Aùi nhĩ bạn đưa tay quệt nước mắt mà nghe thương quá chừng Lan, lẫn trong rừng cây là bóng dáng những kiểu váy chừng, cứ ôm nhau bịn rịn rồi khi xe đóng cửa là đứng xòe màu xanh lá cây, công nương hoàng tử ngồi trên nhìn theo vẫy mãi không thôi. Hai ngày ở nhà bạn, mình ngựa, làm cho du khách có cảm tưởng đang lạc phá tan cái yên tĩnh của ngôi nhà bằng những tràng vào thời đại của thế kỷ 19. Ðiểm đặc biệt là chính phủ cười không dứt, một cuộn phim làm sống lại dĩ vãng tuy có xây dựng, nhưng họ gìn giữ vẻ đẹp thuần túy của 40 năm trước . Mầu nói còn nhớ con đường lá me của thiên nhiên, khác với ở Việt Nam khi đổi mới, bay bên hông tòa tỉnh không? Nhớ chứ! Nhớ cả tiếng cảnh cũ được phá hủy để xây dựng lại, nhưng lại trút ríu rít ồn ào của bầy cò hằng nghìn con trên những bỏ cái áo màu xanh của thiên nhiên, để khoác lên rặng sao già trong khuôn viên tòa nhà đẹp nhất tỉnh lỵ chiếc áo mới màu sắc lòe loẹt xanh đỏ chỉ thích hợp nữa, có những buổi trưa tan học đôi mắt cô học trò dễ thương dán xuống mặt đường, không phải vì e lệ gì cho những nơi giải trí. Buổi chiều cuối cùng ở nhà Mầu, vì ngày mai đâu mà là đang tìm xem có quả me nào chín rụng trên sẽ bay qua Las Vegas để thăm Chậm, sau ba mươi mặt đường không đó. mốt năm kể từ ngày hai đứa lạc nhau những ngày Sau này gần đến năm kết thúc chiến tranh, khi cuối tháng Tư năm 75. Chiều hôm đó nhà Mầu có các bạn trẻ một thời Trung Học lớn lên và xa Trà Vinh món BBQ, thêm món dưa ngâm dấm của miền Texas đã lâu, nghe nói tự nhiên một hôm bầy chim bỏ khuôn thì món BBQ được bao nhiêu ăn vèo hết bấy nhiêu. Bí viên tòa tỉnh trốn đi đâu hết, dân chúng cho là điềm gở quyết làm dưa rất dễ, rau dưa thì chung chung cũng vì tin rằng "đất lành chim đậu". Quả thật! Chim cũng chỉ là cà rốt, su hào, celery, ớt xanh, ớt đỏ, cauliflower bỏ đi như người Trà Vinh hiền hòa cũng mỗi ngày bỏ nữa cũng chẳng sao, tất cả những thứ này đều được xứ ra đi mỗi nhiều, bãi Ba Ðộng rền rền những tiếng thái mỏng vừa phải rồi rửa sạch để cho ráo nước. khóc tức tưởi cho bao nhiêu oan hồn bỏ xác ngoài Công thức làm dưa mới nghe qua thì tưởng là "bịp biển xa. . . . bợm" vì tất cả những thứ rau ấy mà nhúng nước sôi thì Thân tặng những bạn bè một thuở ở Trà Vinh chắc là dưa nhũn ra hết. Nhưng không đâu Mầu ạ, cái bà chỉ công thức làm dưa này đã từng làm chủ nhà Nguyên Nhung Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 43 CON MA CAØ TUM Võ Vĩnh Kim

Không biết bây giờ là mấy giờ rồi mà ánh một nhúm tép nữa bỏ lên trên mặt là đúng y chang trăng rằm đã nghiêng hẳn về hướng tây rất nhiều, ánh một lít. Bạn hàng nào cũng ngán bà. Những lần đong trăng sáng choang, thỉnh thoảng bị che khuất bởi vài tép đầu tiên Liễu còn bở ngở, cho đến nay thì nàng áng mây từ hướng đông kéo đến. Hai Dựng cắm sào đong cũng thạo lắm. Nhưng dù đong có khéo đến đâu xong thì vội nâng rổ tép trên xuồng bưng vào nhà. đi nữa thì người bạn hàng đong bán lại vẫn có dư như Nghe tiếng lộp cộp ngoài cửa, vợ Hai Dựng - Liễu - thường, vì người bạn hàng nào cũng có hai cái lon lít đoán biết chồng đem tép về sau một đêm đi đóng đáy. khác nhau : một cái để mua và một cái để bán, dĩ Nàng vừa mở cửa vừa hỏi chồng : nhiên là cái lon mua thì lớn hơn cái lon đong khi bán - Hôm nay tép chạy nhiều lắm phải hôn anh ? lại, đó chỉ là mẹo vặt trong nghề mua đi bán lại mà - Để rổ tép xuống trong nhà dưới ánh đèn dầu lờ mờ, thôi. Hai Dựng đáp lời vợ: - Không nhiều hơn đêm hôm qua. Nhìn rổ tép, Liễu ngạc nhiên : - Có bao nhiêu thôi à ? - Không biết tại sao nước rằm mà tép chạy kém hơn mấy ngày trước ? Như thường lệ, mỗi khi chồng đem tép về thì hai vợ chồng Liễu cùng chong đèn dầu lựa tép, phân ra loại tép bạc đất và tép bạc trắng để riêng biệt vì nếu để chung thì những con tép bạc trắng , võ mềm, sẽ bị những con tép bạc đất, võ cứng, đè và đăm làm cho tép bạc trắng dễ chết và sẽ bán mất giá đi. Ngoài ra, nàng còn lựa để riêng ra mấy con cá kèo và cá bóng cát cùng lòng tong v.v. Tay vừa bốc con cá kèo để qua Chợ Quê rổ bên cạnh, tay kia vùn lắc cái rổ tép , nói : - Hay là có người đổ đụt trộm ? Trên con đường đất khô ráo gồ ghề dẫn về - Làm gì có người đổ trộm ở giữa đồng vắng giữa thôn ấp, qua nhiều chiếc cầu khỉ bắt qua những con đêm khuya. kinh đào để dẫn nước phèn từ ruộng ra sông khi nước - Hay là anh cuốn đáy sớm quá, còn nước thì còn tép ròng và dẫn phù sa vào khi nước lớn, mỗi sáng khi mà. mặt rời lên cao, từng nhóm đàn bà đầu đội nón lá hay - Em lầm rồi, tép chỉ chạy đáy khi nước mới vực ròng chít khăn bàng , từng bước kéo nhau về khi tan chợ vì con tép chỉ lôị lơ lững theo dòng nước chảy chớ làng. Cười cười, nói nói vui tuơi, một người nói : không đi sát đất như con cá lóc đâu.. - Mấy bà có biết hôn, không biết đóng đáy hay đặt sà Rồi Hai Dựng như chợt nhớ ra điều gì, tiếp : ngôn ở đâu mà con nước rong nào vợ Tư Hôt cũng có - À ! mà kỳ thật ha. Hồi trải đáy, anh treo dây ngàm tép bán nhiều lắm đó. trên ngang mặt nước lớn mà không biết tại sao khi - À mà nhiều lắm đó, còn nhiều hơn mấy người có nuớc vực xuống dây ngàm trên cũng ngang mặt nước miệng đáy nữa . thôi, lạ thật. Tới đây thì Liễu xen vào : - Chắc nước ròng chảy mạnh nên kéo miệng đáy - Như nhà em đây, miệng đáy nhà em có chạy bao xuống thấp đó thôi. nhiêu đâu. - Cũng có thể. Một người khác thêm: Sau khi lựa tép xong thì Liễu đem ra chợ Chà - Tui nói cái nầy, bà con đừng nói cho ai nghe nhen. Và đong cho những bạn hàng buôn bán cá tép. Lúc - Thì cứ nói đi, có ba người mình thì ai học lại đâu đầu theo Má chồng học cách đong tép. Bà rất chuyên mà bà sợ. nghiệp , đong rất khéo tay, mười lít tép bà có thể - Cái gì mà bí mật quá vậy? đong lại được mười một lít là thường. Bà tận dụng đủ - Chính mắt tôi thấy Vợ Tư Hôt đếm hột cho bà Tám mười ngón tay hốt một lượng tép, từ từ đặt nhẹ lượng Tàng mấy trăm trứng vậy. tép cùng mười ngón tay vào trong cái lít một lượt, rồi - À hén, mà Tư Hôt đâu có đất mà nuôi vịt đẻ nhiều nhẹ nhàng kéo mười ngón ra khỏi cái lít, tức khắc bốc đâu mà sao có trứng bán nhiều quá hén. Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 44 Một người đàn bà lớn nhứt trong nhóm nói: chuyện của ba người tạm chấm dứt tại đây. Và vô tình - Tui ở gần nhà Tư Hôt đây, cứ nói tiếp đi, tui mà những bước chân của họ cũng đã thu ngắn con đường không nói thì ai biết mà chửi bà đâu mà sợ. dài gần hai cây số trong ánh nắng chói chan.. Liễu xen vào : - Nhà em ở xa , em không biết gì hết nhá. Liễu đem chuyện Tư Hôt kể cho chồng nghe. - Thím may mắn ở xa nó, chứ thím ở gần thì mới Thực ra thì chồng nàng, Hai Dựng, cũng biết qúa bực, có muốn nhịn cũng không đươc. Hai bà coi đây nhiều chuyện về Tư Hôt rồi. Nó chính là thằng Tư em nè, mỗi lần bầy vịt Xiêm nhà nó thả ra thì thật là tội bà con với Hai Dựng chớ có ai xa lạ đâu. Hai Dựng nghiêp cho đám lúa sau hè nhà tui. Mấy bà biết mà, đã biết nó hồi còn học chung nhau lớp vở lòng do mười mấy con vịt Xiêm nó ăn nào là hột chín, hột non Thầy giáo Nở dạy ngày xưa. Lúc ấy nó hay ăn cắp vặt gì nó cũng ăn đầy bụng mới thôi. Bông lúa sơ sát hết. cây viết chì, cục gôm. Thầy giáo Nở khẻ tay nó sưng - Sao bà không bảo Tư Hột coi chừng vịt. lên nhưng vẫn chứng nào tật nấy. Trong lớp học, nó - Coi chừng gì, mỗi lần nói thì vợ nó chửi đỏng lên không bao giờ mua mực, chuyên chấm mực cọp của rồi nói vịt Xiêm chỉ nằm nước chớ đâu có ăn bông lúa. trò nầy rồi đến trò kia. Vở tập đồ của nó lúc nào chữ Như vậy bà nghe có được hôn ? cũng có hai màu mực khác nhau. Thằng Tư là tay - Vậy bà cứ để vậy chịu à. ? lượm hột vịt đẻ đồng rất hay. Cùng bọn trẻ ra đồng - Vậy chớ làm gì bây giờ. Họ là người không biết kiếm hột đồng thì thằng Tư lúc nào cũng lượm đươc điều, mình có nói gì đi nữa thì cũng thế thôi. Hơn nữa, nhiều nhứt. Có lần mới hừng sáng thì nó mang về nhà mấy bà biết mà Tư Hôt là tay anh chị trong ấp nầy mà, hơn mười hột vịt bọc trong áo thun của nó, má nó nói động tới nó thì nó xách cây xách dao thì ai cũng nghi, đánh nó thì nó vẫn nói là hột đồng chứ không ăn xếp de hết. cắp của ai. Ban sáng khi vịt mới ra khỏi chuồng thì - À mà Thím Hai à ! Coi chừng miệng đáy của thím chưa đẻ trứng ngoài đồng, vịt thích lội ăn mồi, rồi đến đó. khi vịt nằm nghỉ trên bờ thì vài con vịt chưa đẻ trứng Bà kia thêm vào : kịp lúc rạng đông bấy giờ mới đẻ đồng. Má nó hiểu - Còn bầy vịt của thím nữa. Coi chừng đó..... Hôm điều đó. Từ dạo đó bọn trẻ trong xóm gọi chế dễu nó, mấy bửa trước đây nè, Tư Hôt lùa bầy vịt của Bảy và tên nó trở thành Tư Hột, và nó mang hổn danh đó Quặn, khi Bảy Quặn nhìn ra vịt trong bầy của nó, nó đến ngày hôm nay và có thể nó mang tên Tư Hột cho chửi Bảy Quặn một trận lại còn nói vịt nhâp tự nhiên đến ngày cuối của cuộc đời.Tưởng rằng lớn lên, trí mà. thông minh phát triển, nó sửa đổi bản năng, nhưng - Vậy Bảy Quặn có mất con vịt nào không ? không. Đến khi có gia đình, sống trong một môi - Làm sao mà không, sau khi tẻ vịt ra, Bảy Quặn mất trường khác, tưởng nó thay đổi tánh tình, nhưng vì hết ba con vịt mái đẻ đó. nhu cầu vật chất, càng lúc nó càng giở nhiều trò gian Một người nói riễu cợt : manh hơn. Trong xóm, mỗi khi có đám tiệc, thì người - Chắc mấy con vịt mái kia khi gặp cồ mới nên không hàng xóm nói nhiều về nó. Tư Hôt trở thành tiêu đề muốn về thôi. nóng bỏng của xóm. Nó thích dùng lời hằn hộc để trấn Cả ba người cùng phá lên cười . áp người khác khi nói chuyện, nó không bao giờ biết bàn cải nhẹ nhàng, êm thắm . Nó thích sống cô độc, lầm lì, nó thấy cái gì có lợi cho nó thì nó làm ngay, chẳng bao giờ nghĩ câu “ phải người phải ta “. Ban ngày ít thấy nó ở nhà, hình như ngày cũng như đêm, nó thường ở trong ruộng với bầy vịt của nó, mặc dầu chỉ có vài chục con mà thôi. Hai Dựng cũng bắt đầu để ý bầy vịt và miệng đáy của mình.

Thật là lạ thật. Trong con nước rong khi nào Hai Dựng ngủ canh miệng đáy thì tép chạy đáy nhiều hơn, còn khi nào anh ngủ bên chòi vịt thì tép lại chay ít hơn. Còn trong mấy ngày nước kém, anh không đóng đáy, anh ngủ ở chòi vịt thì vịt đẻ nhiều hơn là những khi anh bận không canh giữ chòi vịt trong đêm. Có vài lần, anh ngủ nhà, sáng mới lên chòi thả vịt thì trứng ít lắm. Đành rằng ,những ngày nước rong, mực Ba người vừa nói chuyện vừa đi chậm lại nên nước dâng cao lênh láng , vịt không thể mò bắt mồi toán người phía sau tiến kịp tới nhập bọn, nên câu được, chúng thường nằm nghỉ trên các gò đất cao nên Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 45 vịt thiếu mồi, đẻ ít, nhưng có khi qúa ít không thể hiểu trăm mét, trong màng đêm, môt làn gió man mát lướt nổi. Hai Dựng không thể canh chừng chòi vịt và qua mặt, anh ta ngẩn lên thì thấy loáng thoáng bóng miệng đáy cùng một lúc trong đêm vì nơi cầm vịt và người như nhảy múa trên nóc chòi. Dừng chân lại, Hai nơi đóng đáy cách nhau hơn trăm mét và cách rặng Dựng chắp tay khấn vái. Mắt không dám nhìn thêm. trăm bầu rất rậm rạp. Người ta đồn rằng rặng trăm Nhắm mắt lại anh ta vẫn còn thấy bóng ngưòi có lúc bầu nầy có rất nhiều ma, khi nói đến rặng trăm bầu nhảy lên cây gừa, có lúc biến ra vài người chung đìa gừa thì hầu như người nào cũng đưa ra một câu quanh gốc gừa ; tai nghe tiếng xào xạt từ rặng trăm chuyện ma tương tợ như nhau, và gần như ai cũng bầu tạo ra một cảnh rất ma quái lạ kỳ đầy sợ hãi trong thán phục Hai Dựng thường có mặt nơi ấy. Trong đêm hoang vắng. Hai Dựng ớn lạnh người, chân muốn những ngày nước kém mực nước trong ruộng xuống bỏ chạy quay về nhà, anh ta cố bước lui nhưng hai thấp chỉ những nơi ruộng sâu mới có nước đọng lại chân dường như cứng lại, co dủi thật khó khăn. Qua cũng là nơi cá tép sinh sản làm mồi cho bầy vịt. Khi ánh sáng lờ mờ, rõ ràng có người mặc bộ đồ trắng vịt có đủ mồi thì đẻ nhiều trứng hơn, và mỗi trứng đang nhảy múa tung tăng trên nóc chòi vịt. Tiếng xào cũng chứa tròng đỏ nhiều hơn. Khi mới cầm gần một xạt vọng đến khiến anh rùng mình, mặt như giá lạnh. trăm con vịt đẻ ở trên bờ đìa gừa nầy, Năm Đen đã Ánh đèn dầu vụt tắc. Bổng nhiên trời trở nên tối om. mấy lần nhắc lại hàng đêm đều bị ma đè khi ngủ giữ Hai Dựng không còn nhìn thấy gì phiá trước mặt nữa. vịt tại chòi nầy. Năm Đen còn nói đang đêm khuya Rồi một cơn mưa ào tới, anh vôi lấy áo mưa khoát thường nghe như có người rẻ nước lội vào chòi, và lên người nhưng quá trể vì quần áo đã ướt rồi, anh ta nghe tiếng rên rỉ từ gốc gừa vọng ra. Những ngày ngồi xuống trên bờ đê mặc cho mưa xối xả trên nguời. nước kém, sau khi nhốt vịt xong, Hai Dựng lội ruộng Trùm kín trong chiếc áo mưa, một mình nơi đồng về nhà ăn cơm tối và ở nhà cùng vợ con cho đến quá vắng, thân thể ướt lạnh, anh ta cố ngồi thu mình nhỏ nữa khuya thì lội lên chòi vịt ngủ tiếp. Nhưng anh ta lại để tự sưởi ấm bằng thân nhiệt của chính mình, lòng cố không ngủ để quan sát coi có ma thật hay không mong cho cơn mưa qua mau và mong trời mau sáng. như tin Năm Đen nói. Mọi việc vẫn bình thường, không gì xảy ra. Hàng đêm, mỗi khi trời gần sáng thì bầy vịt bươi ổ và kêu ổ đẻ. Sáng ra, anh ta thả vịt cho ăn xung quanh đìa và lượm trứng vác về nhà, rồi trưa lội lên làm lúa việm cho bầy vịt ăn bửa trưa. rồi lội về nhà, chiều lội lên chòi nhốt vịt vô chuồng. Và cứ tiếp diễn như thế cho đến khi nước rong. Hai Dựng là nông dân nên kinh nghiệm về thủy triều vùng đất nầy nhiều, cứ ngày rằm trăng tròn, nước rong. Ba mươi không trăng cũng nước rong. Mùng mười và hai mươi lăm thì nước kém. Anh ta căn cứ vào đó mà đóng đáy và nuôi vịt, anh cũng không cần hiểu mặt trăng có ánh hưởng gì với nước rong hay nước kém.

Đêm nay, như thường lệ, Hai Dựng tay cầm cái đèn lòng rời nhà, từng bước nhanh nhẹn trên bờ Mưa mây không lâu lắm và đã tạnh hẳn, Hai mẫu rồi lội băng qua các thửa ruộng gò rồi từ từ tiến Dựng nhìn về hướng nhà cũng là hướng Đông, thấy vào ruộng sâu dẫn đến chòi vịt. Cảnh vật thật im lìm chân trời rạng sáng dần. Từng bước khó nhọc trên bờ trong màng đêm dưới ánh sáng của những vì sao trên đê trơn trợt vì cơn mưa mây vừa qua, anh lần mò đi nền trời chiếu xuống mặt đất mờ nhạt, trên bờ đê bất đến chòi vịt nhưng trong lòng thấy không yên. Tim chợt nghe con chuột chạy vào hang, bỗng một con anh ta đâp mạnh hơn. Trời sáng dần, cây gừa nhô cao vạc đi ăn đêm vụt bay lên cũng làm cho Hai Dựng lên oai nghiêm, ma quái kinh hồn khi nhớ lại hình ảnh giựt mình. Một vì sao băng lóe sáng trên bầu trời mà vừa rồi, anh còn lạnh tóc gáy. Bên cạnh là nóc chòi. người nông dân gọi là bà xẹt. Xa xa lờ mờ hiện ra đìa Càng lúc cây gừa và cái chòi hiện ra rõ hơn trong tầm gừa với rặng trăm bầu. Bồng một chòm lửa bắn tung nhìn của anh. Bầy vịt kêu hoảng hốt hình như chúng lên từ hướng chòm mả bay tỏa lên không trung rồi bay khỏi chuồng. Hai Dựng bước lọng cọng trong biến mất, một thoáng giựt mình rồi Hai Dựng lấy lại lòng vừa hồi hợp vừa lo âu. Bất chợt , một bóng trắng bình tĩnh, chấp tay đưa lên ngực như khấn lạy, miệng đập vào mắt anh ta. Hai Dựng giựt nẩy người, thân thể khấn vài câu nho nhỏ, những hình ảnh nầy không còn anh tự nhiên run lên, một dòng máu lạnh chạy nhanh xa lạ mấy đối với anh ta. Khi còn cách chòi vịt hơn dọc theo xương sống lên mặt, những sợi tóc gáy dựng Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 46 lên. Anh nhìn kỹ, rồi chớp đôi mắt, thì bóng trắng Hai vợ chồng vô tình cùng một lúc nhìn vào đang nhảy múa bên cạnh cái bóng đen. Hai Dựng thúng trứng bể, lắc đầu tiếc rẻ. nhìn quanh, cảnh vật vẫn đều vắng lặng, hai hàm răng cắn cứng lại rồi đột nhiên miệng anh mở to và hét lớn Võ Vĩnh Kim trong khi hai bàn tay nắm chặc vào nhau. Tiếng gào to (để nhớ năm xưa: một đêm vịt bị lùa, một ngày miệng “ai đó “ nghe rất khác thường, đượm vẻ sợ hãi. Tức đáy bị trộm) khắc hai cái bóng nhảy ầm xuống nước. Bầy vịt cũng rộ rần lên và có tiếng kêu cạp cạp, rất hoảng hốt. Hai * * *

Dựng đứng như trời trồng. Tiếp theo đó có tiếng chân Thơ Trần Thế Phong người lội dưới nước đi nhanh về hướng chòi Tư Hột Thời gian như ngừng lại nơi đây. Hai tay vẫn còn nắm chặc nhau, Hai Dựng áp hai tay sát vào ngực để lấy Tiếng gọi hồn quê bình tĩnh...Mặt trời ló dạng. Hai Dựng hoàn hồn và bước từng bước nặng nhọc rụt rè đến chòi trong ánh bình minh. Im lặng, quan sát... Anh thấy cửa chuồng Xuân đến cho người thêm một năm đã mở toan ra, bầy vịt còn đang xôn xao dưới nước Riêng ta thức trắng xuân âm thầm cách chuồng không xa. Một thúng hột vịt vứt nghiêng Tâm tư lạc lõng trong màu tối ngửa, hột vịt văng bể tung toé còn nằm trên cạnh bờ Tiếng gọi mơ hồ, năm hết năm đìa. Đứng im một lúc, Hai Dựng lội xuống đìa vớt lên chiếc áo thun trắng còn cột vào cây sào dài. Trong Anh có khi nào thấy vấn vương? giận dữ, Hai Dựng kêu thẳng tên Tư Hột mà chửi, Nàng xuân rực rỡ khắp quê hương tiếng chửi xé tan sự im lặng trong đồng vắng.. .Hai Ngoài hiên chậu cúc cành mai nở Dựng còn lẩm bẩm thêm : Trong xóm áo màu, thương quá thương - Mẹ kiếp thằng Tư Hột !

Trên đường đê về nhà dưới ánh nắng trưa hè Chị có khi nào nhớ thiết tha? nóng bức, Hai Dựng một tay bưng thúng trứng mà Mẹ ngồi nấu bánh trước hiên nhà trong đó hơn phân nửa là trứng móp và trứng bể bên Cha nâng niu chuốt đôi câu đối trên phủ cái áo thun trắng phai màu, tay kia chóng cây Tiếng giã bánh phồng, xa vẵng xa sào trăm bầu, chân bước đi nặng nhọc vừa tiếc trứng vừa bực tức. Sau khi kể cho vợ nghe về những hình Em nhớ hôm nào thức trắng đêm? bóng ma quái hải hùng trong đêm qua, cái bóng đen Ôi! xuân tuổi nhỏ quá êm đềm và chiếc áo thun trắng cột vào cây sào... Mân mê áo mới em không ngủ Liễu lựa trứng trong thúng, phân loại ra trứng bể, trứng móp và trứng còn nguyên, vừa lựa vừa hỏi Sợ sáng xuân về, quên nhỡ quên chồng : - Nhưng anh có chắc đó là Tư Hột không ? Bạn có khi nào hồi tưởng chưa? Hai Dựng quả quyết : Những mùa xuân cũ thật xa xưa - Thì còn ai trồng khoai đất nầy. Cũng may nhờ trời Rừng đêm gối súng chong chong mắt mưa, không thì nó đã lùa bầy vịt đi xa rồi. Chờ đón giao thừa, mưa gió mưa Liễu vừa hỏi chồng vừa chỉ vào cây sào trăm bầu : Ta nhớ âm thầm nhớ xót xa - Còn cái áo thun trắng với cây sào nầy để làm gì Ngày xuân tươi đẹp ở quê nhà vậy ? Ngoài kia mờ mịt giăng mây xám Hai Dựng giải thích thêm : …………………………………… - Nó dùng cái áo trắng cột vào cây sào phất qua phất lại để lùa bầy vịt ban đêm chớ làm gì nữa. Liễu nói như đồng ý với chồng : Xuân đến nơi nầy có nhớ mong - Không ngờ mình và Tư Hột là bà con mà nó còn Sầu đeo lạnh giá buổi chiều đông làm như vậy, thật động trời. ! Cành mai chậu cúc vô tình nở - Thì anh đã bảo mà, kẻ gian manh lúc nào cũng Tiếng gọi hồn quê dậy sóng lòng thích làm điều gian manh, nếu nó chưa làm vì chưa phải lúc đó thôi, còn tình bà con dòng họ có nghĩa lý Trần Thế Phong gì. Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 47 Vương Quốc Kampuchea Vĩnh Trường Lịch sử của Kampuchea bắt đầu khoảng 2000 Đến thế kỷ 6 dưới triều vua Strutavarman họ đã xâm năm trước từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên với chiếm được miền Bắc của Phù Nam và đến đầu thế kỷ việc ra đời của Vương quốc Phù Nam (), được 7 dưới triều vua Bhavarman thì họ hoàn toàn tiêu diệt cho là quốc gia đầu tiên ảnh hưởng bởi văn hóa Ấn Phù Nam và sát nhập vào lãnh thổ của mình. Độ tại vùng Đông Nam Á. Theo truyền thuyết, từ một địa danh xa xôi phía Bắc Ấn Độ Kamboja, có một Chàng trai Bà La Môn tên là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền đi về hướng Đông. Sau chuyến hải hành nhiều sóng gió, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông Cửu Long. Tại nơi đây, Kaundinya đã chinh phục được trái tim của nàng Công Chúa Liểu Diệp (Sao Ma) con của Vua Rắn Nagas. Rồi hai người lấy nhau và dựng nên đất nước Phù Nam. Con trai đầu lòng của họ tên Kampus là vị vua đầu tiên của Phù Nam vào khoảng năm 68 sau Tây Lịch, vương hiệu là . Vương quốc nầy tồn tại cho đến năm 630 (Tên gọi quốc gia Kambuja, xuất hiện vào khoảng thế kỷ 10, gắn với tên của Vị Vua đầu tiên này). Vương quốc Phù Nam khi đó nằm trên một A 13th century relief at the Bayon temple in vùng lảnh thổ bao la trải dài từ Miến Điện, Thái Lan, depicts the Khmer army going to war against Cham. Campuchia đến Nam Việt Nam, tồn tại trên 600 năm. Thủ đô của Phù Nam là Vyadhapura ("City of the Chân Lạp là quốc gia nguyên là thuộc quốc Hunters" in ) trong thị trấn Phumi Banam của Phù Nam tọa lạc tại phía Bắc Kampuchea, Nam thuộc tỉnh Prey Veng Kampuchea ngày nay, về sau có Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan ngày nay. Thủ đô là lẻ thiên đô về Oc Eo (Kattigara: theo tài liệu của vùng Champasak (thuộc Lào quốc). Các vương quốc geographer Claudius Ptolemy vào thế kỷ thứ 2 ). láng giềng xung quanh vào thời kỳ đó là Lâm Ấp Nhiều chứng tích tại Việt Nam ngày nay đã tìm thấy (Champa) ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Pyu được nằm rải rác từ Cát Tiên (Lâm Đồng) tới Tây (thuộc Myanma Miến Điện ngày nay) ở về phía Tây Ninh, Sài Gòn, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang và Bắc. Cà Mau. Triều đại này dần dần suy sụp vào thế kỷ thứ Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong 7 và bị Vương quốc Chân Lạp () xâm chiếm một số sách tài liệu đã xuất hiện tên gọi "Thủy Chân toàn bộ lãnh thổ. Lạp'' để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đồng Ngày nay, phong tục truyền thống, văn hóa và bằng sông Cữu Long để phân biệt với vùng đất “Lục cả ngôn ngữ của người Khmer hầu hết đều bắt nguồn Chân Lạp”, tức là vùng đất gốc của Chân Lạp. Nhưng từ giai đoạn này. Chữ Phạn, một nhánh của ngữ hệ trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối Môn-Khmer là ngôn ngữ được sử dụng để giao tiếp và với Chân Lạp gặp nhiều khó khăn. viết trong thời kỳ đó. Tôn giáo trong giai đoạn đầu là Trước hết, với truyền thống quen sinh sống ở Đạo Hindu ngự trị một thời gian rất dài trước khi Đạo các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi Phật được phổ biến tại đây. Các chứng tích về sự giao đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn thoa văn hóa và tôn giáo này ngày nay vẫn còn tồn tại một vùng đồng bằng còn ngập nước và sình lầy. Hơn rất nhiều tại Kampuchea, thể hiện qua các công trình nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân kiến trúc cổ, cách thức làm nông nghiệp của người Lạp cũng đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc dân và luôn cả các trang phục truyền thống. cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho Khi Phù Nam tan rã nhiều vương quốc nhỏ những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam. Theo vốn là thuộc quốc hoặc chư hầu cũ nổi lên thành những tài liệu bia ký còn lưu (tài liệu Jaque 1990) vào những nước mạnh. Trong số đó Chân Lạp lớn mạnh thế kỷ thứ VIII tại vùng trung tâm của Phù Nam trước dần và lấn lướt Phù Nam (vương quốc ở phía Nam). đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Anindita Pura Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 48 (thủ phủ tại Battambang gần khu vực Angkor), do một Nam Dương ngày nay). Các vua Sailendra rất hâm mộ người dòng dõi Vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Phật giáo. Từ khoảng năm 770 đến 825, ba vị vua Sau năm 707, Chân Lạp bị chia rẽ nội bộ rồi Sailendra nối nhau xây một ngôi chùa Phật với bảo tách thành hai quốc gia Lục Chân Lạp còn gọi là tháp Borobudur, nay vẫn là ngôi chùa Phật lớn nhất Thượng Chân Lạp (chiếm cứ vùng rừng núi phía Bắc) thế giới. Vào nửa sau thế kỷ VIII, quân đội nước này và Thủy Chân Lạp (chiếm cứ vùng đồng bằng sông đã liên tục tấn công các quốc gia trên bán đảo Đông Cữu Long bao gồm các tỉnh phía Nam Kampuchea và Dương. Kết cục là Thủy Chân Lạp bị quân Java Nam Việt Nam ngày nay). Đến năm 715, nhiều phần chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc lảnh thổ tiếp tục bị tách ra thành một số nước nhỏ hơn vào Sailendra. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết làm cho Chân Lạp càng suy yếu. thúc. Trong vòng gần một thế kỷ, vùng đất thuộc đồng Một quốc gia phiên thuộc khác của Phù Nam, bằng sông Cữu Long lại nằm dưới quyền kiểm soát về sau cũng trở nên hùng mạnh không kém gì Chân của người Sailendra, Java. Lạp là Vương Quốc Sailendra của đảo Java (thuộc

Đế quốc Kambuja vào thế kỷ 11 Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 49 Vương quốc Kambuja- khởi sự nền văn vì từ 889 - 915), là người thiết lập một kinh đô mới tại minh và đế quốc Angkor - thành phố đầu tiên của Angkor. Đầu thế kỷ 9, năm 802 sau Công nguyên, Ngôi đền trung tâm của thành phố được xây ở Trong năm này, vua Jayavarman II đã tự xưng là Phnom Bakheng, một ngọn đồi cao 60 m giữa đồng "Chakravartin" (Hoàng đế của thiên hạ). Jayavarman bằng trong khu vực Angkor. Dưới triều II là một hoàng tử của Vua Chân Lạp sang du học tại công trình Đông Baray cũng được tạo dựng, đây là vương triều Sailendran ở Java như là con tin hoàng gia công trình hồ chứa nước có kích thước 7,5km x 1,8 thuộc vương quốc chư hầu của Java. Sau thời gian ở km. Java, ông đã mang nghệ thuật và văn hóa của triều Vào đầu thế kỷ 10 thì đế quốc này bị chia rẽ. đình Sailendran ở Java về cho triều đình Khmer. Khi Jayavarman IV thiết lập một kinh đô mới ở , trở về nhà ở vương quốc Chân Lạp, ông đã nhanh cách Angkor 100 km. Cho đến dưới triều đại của chóng xây dựng thế lực của mình, đánh bại nhiều vị Rajendravarman II (trị vì 944 - 968) thì hoàng cung vua khác thống nhất Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp mới được quay trở lại Yasodharapura. Ông ta bắt đầu và năm 790 lên ngôi vua, đổi quốc hiệu là Vương các dự án xây dựng lớn mà các vua đầu tiên đã dự tính quốc Kambuja (khởi nguồn cho cái tên Kampuchea và đã cho thiết lập một loạt các đền ở khu vực hay Campuchia hoặc hiện nay). Trong Angkor, trong đó có Đông Mebon, trên một cù lao của những năm tiếp theo, ông đã mở rộng lãnh thổ của Đông Baray, và nhiều đền thờ Phật và chùa. Năm 950, mình và cuối cùng đã thành lập kinh đô mới chiến tranh lần đầu nổ ra giữa đế quốc Khmer và Hariharalaya gần thị xã Roluos của Kampuchea ngày Vương quốc Chămpa ở phía Đông (ngày nay là miền nay. Như vậy, ông đã đặt nền móng cho kinh đô Trung Việt Nam). Angkor trải dài đến 15 km về phía Tây Bắc. Năm 802, ông tự xưng Chakravartin (Hoàng đế của thiên hạ) bằng một lễ đăng quang theo phong cách Ấn Độ giáo. Bởi thế, ông không những trở thành một vị vua được thần thánh sắc phong và vô địch mà còn đồng thời tuyên bố sự độc lập của vương quốc mình khỏi vương quốc Java. Jayavarman II mất năm 834. Trong thời kỳ đó, việc cai quản và phát triển vùng Thủy Chân Lạp gặp nhiều trở ngại vì chiến tranh diễn ra thường xuyên giữa Kambuja với Chămpa. Do đó, chính quyền Chân Lạp chỉ dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của mình ở khu vực Biển Hồ, trung lưu vực sông Mê Kông và hướng nỗ lực mở rộng ảnh hưởng sang phía Tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Kambuja trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực Từ năm 968 đến 1001 là thời kỳ trị vì của con rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trai của vua Rajendravarman II, . Ông trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Căn cứ vào đã đăng quang ngôi vua sau khi đã vượt qua các hoàng những kết quả nghiên cứu gần đây nhất những di tích thân khác, giai đoạn trị vì của ông phần lớn là thời kỳ khảo cổ học mang dấu ấn Chân Lạp trên phần đất thanh bình, đánh dấu bởi sự phát triển thịnh vượng và Nam Việt Nam trước thế kỷ XVI không nhiều và ảnh phát triển rực rỡ nền văn hóa. Ông cho thiết lập một hưởng văn minh Angkor ở vùng này cũng không đậm kinh đô mới gần Yashodharapura, Jayenanagari. Dưới nét. triều của vua Jayavarman V có các nhà triết học, các học giả và các nghệ sỹ. Các ngôi đền mới cũng được Yasodharapura - thành phố đầu tiên của Angkor xây dựng, trong đó, quan trọng nhất là Banteay Srei, Các vị vua kế nhiệm Jayavarman II đã liên tục được xem như công trình có tính nghệ thuật và thẩm mở rộng lãnh thổ vương quốc Khmer. mỹ bậc nhất của Angkor và Ta Keo là ngôi đền đầu (trị vì từ 877 - 889) đã thành công trong việc mở rộng tiên của Angkor xây hoàn toàn bằng sa thạch. vương quốc của mình mà không cần chiến tranh và Sau cái chết của Jayavarman V là một thập kỷ ông đã triển khai các dự án xây dựng lớn nhờ vào của xung đột. Các vị vua chỉ trị vì vài năm và bị thay thế cải giành được thông qua mậu dịch và nông nghiệp. thông qua bạo lực của các vị kế nhiệm cho mãi đến Công trình đầu tiên là đền Preah Ko và các công trình thời vua (trị vì 1010 - 1050) cuối cùng thủy lợi. Con của Indravarman I là Yasovarman I (trị giành được ngôi báu. Thời kỳ trị vì của ông được đánh Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 50 dấu bằng các nỗ lực đảo chính liên tục của các đối thủ phu trên các phiến tường đá; miêu tả lại những lịch sử, bằng quân sự. Về phía Tây, ông đã mở rộng vương những chiến công của dân tộc Khmer, những điểm quốc của mình đến tỉnh Lopburi của Thái Lan ngày văn hóa, những huyền sử của tôn giáo Hindu. Có lẽ nay, về phía Nam đến eo đất Kra. Tại Angkor, việc đây chính là Đế Thiên mà chúng ta thường gọi, vì xây dựng Tây Baray bắt đầu dưới triều Suryavarman đấng Phạm Thiên là đấng tối cao trong tín ngưỡng I, một hồ chứa nước thứ 2 và rộng hơn hồ Đông Baray Hindu. Về sau, khi ảnh hưởng Phật Giáo bắt đầu lan với kích thước 8 km x 2,2 km. rộng hơn trong dân tộc Khmer, tới khoảng thế kỷ 14 hay 15, đền thờ trở thành một ngôi chùa Phật Giáo. Suryavarman II - Angkor Wat Từ thế kỷ 16 trở đi, đền Angkor Wat ít được Thế kỷ 11 là thời kỳ của các cuộc xung đột và sử dụng và dần dần hoang tàn. Người Tây Phương đầu tranh giành quyền lực tàn bạo để mở rộng lãnh thổ của tiên mục kiến đền Angkor là thương gia Bồ Ðào Nha Vương Quốc Khmer. Phải đến đầu Thế Kỷ 12, vua Diego do Couto. Tuy nhiên, Âu Châu không để ý đến Suryavarman II mới thành công trong cuộc chiến di tích này cho tới khi nhà thám hiểm người Pháp giành độc lập chống lại xứ Champạ cũng như các vị Henri Mouhot xuất bản cuốn du ký của mình vào cuối vua khác vào thời đại đó. Năm 1113 sau khi dẹp tan thế kỷ 19. loạn lạc trong nước và củng cố binh quyền, vua Sự kết thúc của hoàng đế Suryavarman II Suryavarman II bắt đầu lấn chiếm các nước lân bang. không được rõ ràng lắm. Văn bia cuối cùng ghi nhận Trước nhất ông đã xua quân xâm chiếm vương quốc tên ông có liên quan đến dự tính xâm lược Đại Việt là Haripunjaya của dân tộc Môn ở vế phía Tây (ngày nay từ năm 1145. Có lẽ ông qua đời trong cuộc hành quân là miền Trung Thái Lan) và một khu vực xa hơn về tấn công Đại Việt trong khoảng thời gian từ năm 1145 phía Tây của vương quốc Pagan (Myanmar ngày nay). đến 1150. Phía Nam lấn về khu vực bán đảo Malay đến vương Thời kỳ tiếp theo các vua trị vì trong thời gian quốc Grahi (nay là tỉnh Nakhon Si Thammarat của ngắn và bị vị vua sau lật đổ bằng vũ lực. Cuối cùng, Thái Lan), về phía Đông lấy nhiều tỉnh của Champa, năm 1177, Khmer đã bị quân Chămpa đánh bại trong về phía bắc đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay. một trận thủy chiến trên hồ Tonlé Sap và bị sáp nhập Vào thời kỳ cực thịnh, vua Suryavarman II trị vì phần thành một tỉnh của Chămpa. đất bao gồm phần lớn đất Thái Lan hiện nay, phần đất Lào lên tới khu Champassak, và phần đất Chiêm Thành (Việt Nam hiện nay) lên tới đèo Hải Vân. Tuy nhiên, tham vọng thôn tính Ðại Việt, khi đó là thời vua Lý Thần Tông, của Suryavarman II đã không thành công. Quân của Angkor liên kết với quân của Chiêm Thành lên tới trên 20,000 quân cùng 700 chiến thuyền tấn công vào Nghệ An đã bị quan quân Thanh Hóa và Nghệ An hợp nhau đánh bại… Suryavarman II được coi là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Ðế Quốc Khmer. Dưới thời cai trị của ông, Ông đã cho xây ngôi đền lớn nhất của Angkor gọi là Ðế Thiên Ðế Thích như là một lăng tẩm cho mình yên nghỉ sau này. Cho tới nay, các nhà Mô hình thành phố cổ Angkor khảo cổ chưa tìm ra năm nào chính xác bắt đầu công trình xây dựng đền Angkor Wat. Tuy nhiên, tới năm Jayavarman VII - Angkor Thom 1150 khi Vua Suryavarman II băng hà, có dấu hiệu Vua Jayavarman VII (trị vì từ 1181-1219) đã công trình phải ngưng lại; một số công trình điêu khắc là một nhà lãnh đạo quân sự với tước vị hoàng thân bỏ dở: Đây là một quần thể rộng lớn với một thiết kế dưới thời các vua trước. Sau khi người Chăm đã xâm mang cấu trúc nghệ thuật và mỹ thuật của đạo Hindu chiếm kinh thành Angkor, ông đã tập hợp một đội vào đầu thế kỷ 12. Con đường chính từ ngoài cửa quân và giành lại kinh đô Yasodharapura. Năm 1181, thành dẫn vào đến thành dài khoảng 400m, bề ngang ông đã lên ngôi và tiếp tục gây chiến chống lại vương khoảng 12m và bên dưới là một hào lớn vây quanh. quốc phía Đông trong 22 năm cho đến khi Đế quốc Ban đầu, Angkor Wat là một đền thờ Ấn Ðộ Khmer đánh bại Chăm Pa năm 1203 và xâm chiếm Giáo (chữ “wat” có nghĩa là đền, chùa), được vua phần lớn lãnh thổ của Chăm Pa. Suryavarman II dâng hiến cho Thần Vishnu. Bên Jayavarman VII được coi là vị hoàng đế vĩ đại trong ngôi đền hàng ngàn những bức tranh họa điêu cuối cùng của Angkor không chỉ vì những chiến công khắc chung quanh tường với những chạm trổ công của ông chống lại quân Chăm Pa mà còn là một người Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 51 cai trị không phải là bạo chúa như cách các hoàng đế 600 năm trên một lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ Miến trước đó đã cai trị vì ông là người thống nhất đế quốc Điện (Myanmar) ở phía Tây ra tới Biển Đông của Việt này và trên cả là do các công trình xây dựng được tiến Nam và phần Nam Lào ngày nay. Chính các vua của hành dưới thời kỳ cai trị của ông. Kinh đô mới có tên Đế chế Angkor đã xây dựng vô số các đền tháp, cung gọi là Angkor Thom (có nghĩa là: "Thành phố vĩ đại") điện mà ngày nay được xem là kỳ quan nhân tạo của được xây dựng. Sau Angkor Wat thì phải nói đến loài người. Các công trình này được xây dựng trên Angkor Thom, được xây dựng vào cuối thế kỷ 12 là khắp lãnh thổ của Đế chế, Angkor Wat là thành tựu thời kỳ cực thịnh của đế quốc Angkor. Nhưng Angkor rực rỡ nhất. Thom không còn là kiến trúc của tôn giáo Hindu nữa, Sau cái chết của vua Jayavarman VII, con trai mà nó lại mang nét kiến trúc vĩ đại và mỹ thuật của ông Indravarman II (trị vì 1219-1243) lên ngôi. Giống nền văn hóa Phật giáo Đại Thừa. Ở khu trung tâm, nhà như cha mình, ông là một Phật tử và ông đã cho xây vua (một phật tử Phật giáo Đại thừa) đã cho xây dựng xong một loạt chùa chiền được khởi công từ thời cha một tòa bảo tháp quốc gia - Bayon với những tháp mình. Ông không thành công về mặt chiến tranh. Năm tượng Phật bốn mặt cao lớn với những điêu khắc diễn 1220, người Khmer rút khỏi nhiều tỉnh mà trước đó đã tả các nét mặt Phật Quán Thế Âm Bồ Tát trong các chiếm được của Chăm-pa. Về phía tây, các thần dân trạng thái khác nhau. Có thể đó là những nét diễn đạt người Thái của ông đã nổi lên chống lại và thành lập về “Tứ Diệu Đế Sinh Lão Bệnh Tử”, hay mang 4 nét: nên vương quốc Xiêm (Siam) đầu tiên là Vương quốc Từ, Bi, Hỉ, Xả của nhà Phật. Tùy theo cái Tâm của Sukhothai và đẩy lùi người Khmer. Trong 200 năm người thưởng ngoạn mà người ta cho tượng một ý tiếp theo, người Thái đã trở thành đối thủ chính của nghĩa theo cái tâm của mình, mỗi tháp cao vài thước Kambuja. được chạm khắc bằng đá. Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295) kế nhiệm Các đền chùa khác được xây dựng dưới thời Indravarman II. Trái với các vua trước đó, Jayavarman Jayavarman VII là Ta Prohm, Banteay Kdei và Neak VIII theo Ấn Độ giáo và là một người chống Phật giáo Pean, cũng như hồ chứa nước Srah Srang. Cùng với một cách kịch liệt. Ông đã cho phá hủy phần lớn các những công trình đó, một hệ thống các đường phố đã tượng Phật ở Đế quốc này (các nhà khảo cổ ước đoán được xây dựng kết nối các thị trấn của đế quốc. Bên có khoảng hơn 10.000, trong đó còn rất ít phế tích còn các phố này, 121 nhà nghỉ được xây cho các nhà buôn, sót lại đến ngày nay) và cho chuyển các chùa Phật quan chức và lữ khách. Ông cũng cho thiết lập 102 giáo thành đền thờ Ấn Độ giáo. Từ bên ngoài, Đế bệnh xá. quốc Khmer đang bị quân Nguyên Mông của tướng Sagatu của Hốt Tất Liệt đe dọa. Ông ta đã tránh đụng độ với quân Mông Cổ (khi đó đã chiếm hết Trung Hoa) bằng cách cống nạp hàng năm cho nhà Nguyên. Triều đại của Jayavarman VIII kết thúc năm 1295 khi ông bị con rể là Srindravarman (trị vì 1295-1309) lật đổ. Vua mới là người theo Phật giáo Nam truyền (Theravada), một trường phái của Phật giáo du nhập vào Đông Nam Á từ Sri Lanka và sau đó lan ra khắp khu vực. Tháng 8/1296, một sứ thần Trung Hoa là Chu Đạt Quan đến Angkor và ở lại triều đình của vua Srindravarman cho đến 1297. Chu Đạt Quan không phải là người đầu tiên hay người cuối cùng viếng thăm vương quốc Khmer, nhưng cuộc viếng thăm của ông

Đây chính là thời điểm phát triển của nền Văn trở nên nổi tiếng vì ông đã ghi chép lại cuộc sống ở minh Angkor cực thịnh. Dưới triều đại Jayavarman Angkor một cách chi tiết. Miêu tả của ông ngày nay là VII (1181- khoảng 1218), Kambuja đạt đến tột đỉnh nguồn tham khảo quan trọng nhất để tìm hiểu về quyền lực chính trị và sáng tạo văn hoá. Jayavarman Angkor. Ngoài các miêu tả về các đền lớn như VII có được quyền lực và đất đai sau nhiều trận chiến (Bayon, Baphuon và Angkor Wat), mà nhờ Chu Đạt thắng trước kẻ thù ở xung quanh: Champa và thiết lập Quan chúng ta được biết rằng các tháp của Bayon đã nên một Đế quốc của người Khmer. từng được dát vàng, các ghi chép của ông còn đem lại Các thế hệ vua của Đế chế Angkor được cho nhiều thông tin có giá trị về cuộc sống thường nhật và là có nguồn gốc từ Ấn Độ và quần đảo Java thuộc các tập quán của cư dân Angkor. Indonesia ngày nay, thay nhau cai trị trong khoảng Cho đến thế kỷ XIII, cư dân ở vùng đất Nam Việt ngày nay còn thưa thớt. Chu Đạt Quan, đã mô tả Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 52 vùng đất như sau: “Từ chỗ vào Chân Bồ trở đi, hầu đẩy lùi quân Thái đã quay lại đóng đô ở Angkor trong hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài một thời gian ngắn.. Về sau, sự sụp đổ cuối cùng của mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng Angkor vào thời ấy là sự chuyển đổi tầm quan trọng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó. Đến nửa cảng về kinh tế và chính trị khi Phnôm Pênh trở thành một mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc trung tâm mậu dịch bên bờ sông Cữu Long. Các công cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa rờn rợn mà thôi. Trâu trình xây dựng tốn kém và các xung đột quyền lực rừng họp nhau thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập trong nội bộ hoàng gia cũng đánh dấu sự suy thoái của ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm đế quốc Khmer. dặm. Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng”. Lại nửa, sự hủy hoại sinh thái và hư hỏng hạ tầng cơ sở cũng là một cách lý giải mới khác cho sự chấm dứt của đế quốc này. Do nơi dự án Đại Angkor, các nhà nghiên cứu lịch sử tin rằng người Khmer đã có một hệ thống kênh rạch và hồ chứa nước phức tạp phục vụ cho mậu dịch, giao thông và thủy lợi. Các kênh được sử dụng để thu hoạch mùa màng và khi dân số tăng lên thì hệ thống kênh rạch bị cản trở dẫn đến thiếu nước và bị lũ lụt hoành hành. Để đáp ứng cho số dân tăng thêm, người ta đã chặt cây trên các ngọn đồi ở Kulen để lấy đất canh tác lúa. Đồi trọc làm cho kênh bị bồi lấp khi mưa to. Sự phá hủy hệ thống thủy lợi đã dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng khác. Sang thế kỷ XVI, và nhất là từ thế kỷ XVII, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bì chia rẽ sâu sắc. Vương quốc này dần bước vào thời kỳ suy vong. Trong bối cảnh như vậy, Chân Lạp hầu như không có khả năng kiểm soát đối với vùng đất còn Angkor Wat, Cambodia ngập nước ở phía Nam, vốn là địa phận cũ của Vương Sự suy tàn của Angkor quốc Phù Nam. Trên thực tế khả năng kiểm soát và Có rất ít tư liệu lịch sử về thời kỳ sau triều quản lý vùng đất này của vương triều Chân Lạp giảm vua Srindravarman. Văn bản cuối cùng người ta biết sút dần. được là một bia khắc từ năm 1327. Không có một Sau khi Angkor bị lãng quên, kinh đô của công trình xây dựng hay phát triển nào được ghi nhận Kampuchea dời về phía Nam tại Long Vek, rồi Ou trong thời kỳ nầy. Hệ thống thủy lợi cũng bị thoái hóa Đông, và cuối cùng là Phnom Penh. Sự tàn phá kinh dẫn đến mùa màng thất bát do lũ lụt và hạn hán. Trong đô Angkor hùng mạnh cũng gây ra một sự suy sụp, khi trước đó mỗi năm có 3 vụ lúa - điều này đã góp thay đổi trong tôn giáo, Đạo Phật Tiểu thừa (còn gọi là phần cốt yếu cho sự thịnh vượng và quyền lực của đế Nam Tông) đã chiếm vị trí độc tôn của Đạo Hindu và quốc Khmer - sự giảm sút mùa màng đã làm cho đế trở thành quốc giáo. quốc này suy yếu thêm. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV, Chân Lạp phải NHỮNG THỜI KỲ ĐEN TỐI CAMPUCHIA đối phó với sự bành trướng thế lực của các vương Từ thế kỷ thứ mười lăm đến thế kỷ thứ mười triều Xiêm quốc từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Bảy là giai đoạn suy tàn liên tục và thu hẹp đất đai. Vương triều Ayuthaya hình thành vào giữa thế kỷ Kampuchea chỉ có được một giai đoạn thịnh vượng XIV. Trong suốt 78 năm (từ 1353 đến 1431), ngắn trong thế kỷ mười sáu nhờ các vị vua Ayuthaya và Chân Lạp liên tiếp có chiến tranh trong Borommaracha III, IV, V và Chey Chettha I, những đó phần lớn là những cuộc tấn công từ phía người người đã xây dựng thủ đô Lovek ở vùng Đông Nam Thái, nhưng đều bị quân của Chân Lạp đánh bại. Cuối Biển Hồ dọc theo sông Cữu Long, mở rộng buôn bán cùng, kinh thành Angkor đã bị quân Ayuthaya chiếm với các vùng khác ở Châu Á. Đây là giai đoạn khi đóng vào năm 1431. những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha và Bồ Đào Trung tâm của vương quốc Khmer còn sót lại Nha cùng các nhà truyền giáo lần đầu tiên tới nước nằm ở phía Nam, khu vực mà ngày nay là Phnôm này. Nhưng một biến cố xảy ra tai thủ đô mới của họ Pênh. Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy Angkor ở Lovek bị quân đội Ayuthaya của người Thái xâm không bị bỏ hoang. Một chi của các vua Khmer vẫn lăng năm 1594 đã đánh dấu sự suy sụp nguyên khí còn ở lại Angkor. Dưới thời vua Barom Reachea I (trị quốc gia và Kampuchea trở thành một con tốt trong vì 1566 - 1576), là vị vua đã tạm thời kế vị sau khi đã những cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa hai nước láng Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 53 giềng hùng mạnh hơn của nó là Xiêm La và Việt trưởng, nhưng thực tế là để giam lỏng ông ngay trong Nam. Hoàng cung. Khmer Đỏ bắt đầu thi hành chính sách Sự định cư của người dân Việt Nam ở châu cai trị khủng bố trên khắp Kampuchea. Người dân bị thổ sông Cửu Long dẫn tới việc họ sáp nhập vùng đó ép buộc một cách tàn bạo để lao động trên những cánh vào Việt Nam ở cuối thế kỷ XVII. Và Kampuchea đồng như những nô lệ, họ phải chịu cảnh lao động hoàn toàn mất một trong những vùng lãnh thổ trù phú nặng nhọc, bị đánh đập và bỏ đói. Trong xã hội dưới nhất của họ và bị ngăn đường tiến ra biển Đông khi thời Khmer Đỏ không tồn tại khái niệm bệnh viện và nhà vua Nặc Ang Tôn cắt phần đất Tầm Phong Long trường học, giáo viên và bác sĩ bị đưa đi hành quyết (gồm các Tỉnh Châu-Đốc, Sa-Đéc, Vỉnh Long và Trà một cách thô bạo và dã man, không cần bất cứ một lý Vinh) nhượng cho Chúa Nguyển và được sát nhập vào do nào. Tiền tệ bị xóa bỏ, không kinh doanh, không Long Hồ Dinh năm 1759 để nhờ Chúa Nguyễn bảo-hộ thương mại. Mọi thứ đều trở thành bất hợp pháp và có khỏi bị Xiêm La dòm ngó. thể là nguyên nhân để dẫn đến một cái chết bất cứ lúc Cuối cùng, Kampuchea cùng với Nam Kỳ lục nào. Tất cả người dân bị buộc sống tập trung trong các tỉnh của Việt Nam lại rơi vào ách thực dân của người trại lao động trong suốt thời gian Khmer Đỏ cai trị, Pháp. Năm 1863, vua Norodom ký thỏa ước chấp tổng số người chết vì bị tra tấn, bị bỏ đói, bị bệnh nhận bảo hộ với nước Pháp, đặt Kampuchea dưới sự không được điều trị y tế hoặc bị hành quyết trong thời cai trị của thực dân Pháp trong 90 năm sau đó. Sau khi kỳ đó xấp xỉ 2 triệu người, bao gồm cả phụ nữ và trẻ vua Norodom chết năm 1904, một người trong hoàng em vô tội bị giết một cách man rợ. tộc là Sisowath trở thành vị vua mới của Vương quốc Kampuchea, vẫn dưới sự cai trị của người Pháp. Tuy nhiên, ngai vàng sau đó lại quay trở lại với dòng chính thức của vua Norodom khi vua lên ngôi vào năm 1941, khi đó ông mới 18 tuổi. Không lâu sau đó, chiến tranh Thế giới lần thứ II lan đến Kampuchea khi quân Nhật đánh bại lực lượng Pháp tại Đông Dương. Vua Sihanouk tận dụng thời cơ đưa đất nước thoát khỏi sự cai trị của ngoại bang. Nhiều năm sau đó, ông vẫn luôn kiên trì với mục tiêu đó và thật sự đạt được thành công khi Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Kampuchea vào ngày 9/11/1953, chấm dứt 90 năm thực dân Pháp đô hộ. Trong giai đoạn từ 1953 đến 1970, Vương quốc Kampuchea tự chủ và phát triển thịnh vượng, đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt. Kampuchea thời Royal Palace at Phnom Penh điểm đó còn được coi là viên ngọc Phương Đông. Không may là giai đoạn này lại chấm dứt qúa nhanh. Ngày 7 tháng 1 năm 1979, Chính phủ Công Chiến tranh leo thang tại Việt Nam đã biến vùng biên hòa nhân dân Kampuchea, được sự trợ giúp của Hà giới Kampuchea trở thành mục tiên oanh tạc của Mỹ. Nội giải phóng thủ đô Phnom Penh, lật đổ chế độ diệt Các diễn biến tiếp theo đã dẫn tới sự kiện ngày 18 chủng Pol Pot – Ieng Sari. Suốt thập kỷ 80 thế kỷ 20, tháng 3 năm 1970, Tướng Lon Nol được sự hậu thuẫn cùng với sự giúp đỡ từ Việt Nam, người dân của người Mỹ đã đảo chính lật đổ Quốc trưởng Kampuchea từng bước xây dựng lại đất nước. Năm Sihanouk thành lập chế độ Cộng hòa Khmer. 1989, Việt Nam rút quân khỏi Kampuchea. Năm Kampuchea rơi vào tình trạng chiến tranh 1991, Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, 22,000 ngay sau đó, cuộc chiến khai diễn giữa lực lượng quân gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc được gửi tới Cộng Hòa của Lon Nol và lực lượng Khmer Đỏ theo Kampuchea. Tháng 5 năm 1993, Ủy ban chuyển giao Cộng Sản đứng đầu bởi Pol Pot. Lực lượng của Lon quyền lực Liên hiệp quốc tại Kampuchia (UNTAC – Nol kiểm soát Campuchia trong hơn 5 năm, cuối cùng United Nations Transitional Authority of Cambodia) sụp đổ bởi Khmer Đỏ vào ngày 17 tháng 4 năm 1975. tổ chức cuộc tổng bầu cử tự do đầu tiên tại Lịch sử hủy diệt lập lại một lần nữa: chỉ 3 giờ Kampuchea. Người dân Kampuchea đã chọn chính thể sau khi quân của Pol Pot tràn vào Phnom Penh, toàn quân chủ lập hiến cho đất nước mình với Hoàng thân bộ cư dân bị ép buộc di tản khỏi thành phố một thời Sihanouk lại trở thành vị vua của Vương quốc thịnh vượng để biến nơi đây trở thành đổ nát hoang Kampuchea. tàn. Sau cuộc di tản, Khmer Đỏ ép Hoàng thân Hệ thống quyền lực Quốc gia được phân định Sihanouk trở về Phnom Penh để tiếp tục vị trí Quốc rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 54 đồng Hoàng Gia, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, tượng bằng đá, Bà Daun Penh bèn cho người xây một Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành ngôi chùa để tôn trí năm tượng Phật này. Chùa được chính các cấp. mang tên Wat Phnom Daun Penh. Từ đó về sau này có Hành pháp: Đứng đầu nhà nước là Quốc tên Phnom Penh. Ngôi chùa nay vẫn còn, mang tên vương . Đứng đầu Chính phủ là Wat Phnom. Thủ tướng Samdech Hun Sen và hai Phó Thủ tướng. Nội các là các thành viên trong Hội đồng Bộ trưởng do Vua bổ nhiệm. Lập pháp: Lưỡng viện gồm Quốc hội (Chủ tịch: Heng Samrin, có 123 ghế, bầu đại biểu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm) và Thượng viện (Chủ tịch: Chea Sim, có 61 ghế: 2 do Quốc vương chỉ định, 2 do Quốc hội chỉ định, 57 do bầu cử, nhiệm kỳ 5 năm). Tư pháp: Hội đồng Thẩm phán tối cao (được Hiến pháp quy định, thành lập 12-1997); Tòa án Tối cao và các tòa án địa phương. Các đảng chính trị: Hiện nay ở Campuchia có

3 Đảng lớn là Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Wat Phnom ( chùa bà Pênh) Đảng Funcinpec (hai đảng chính đang cầm quyền ở ngôi chùa linh thiêng nhất Phnom Penh Campuchia) và Đảng Sam Rainsy (đảng đối lập chính) và một số đảng khác. Phnom Penh là địa điểm giao lưu ba dòng Về vị trí địa lý:, Kampuchea nằm ở Tây Nam sông lớn của Kampuchea là sông Mekong, sông Tonle bán đảo Đông Dương. Biên giới phía Tây và Tây Bắc Sab và sông Tonle Bassac. Chỗ ba dòng sông giao giáp Thái Lan (2.100 km), phía Đông giáp Việt Nam nhau hình chữ X, nên Phnom Penh còn có tên là (1.137km), phía Đông Bắc giáp Lào (492km), phía Krong Chaktomuk, có nghĩa là Thành Bốn Mặt. Nam giáp biển Thái Bình Dương (400 km). Diện tích Phnom Penh trở thành thủ đô của Kambuja Kampuchea rộng 181.035 km2 (đồng bằng chiếm ½ vào năm 1431, khi quân Siam tấn công đế quốc diện tích, còn lại là núi đồi). Dân số hiện tai Khmer và chiếm lấy kinh thành Angkor Thom. Vua 13.125.000 triệu người (thống kê năm 2003). Người chạy loạn đến Wat Phnom. Ngày nay, còn Khmer chiếm 90% gồm ba hành phần Khmer Giữa lăng tẩm vua Ponhea Yat và hoàng gia ở phía sau chùa (Khmer Kandal), Khmer Thượng (Khmer Leu) và Wat Phnom. Khmer Duới (Khmer Krom). Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 10% gồm người Mã Lai, người Chăm, Tài liệu tham khảo : người Lào, người Myanmar, người Việt Nam, người - Cambodia - Historical Setting Source: U.S. Thái Lan và người Hoa. Library of Congress Trên 80% người Khmer theo Phật giáo Tiểu - Kambuja From Wikipedia, the free encyclopedia. Thừa và được coi là quốc giáo, còn lại là đạo Hồi và - Lược sử vùng đất Nam Việt Nam- NXB Thế Giới một số ít đạo Thiên Chúa, Tin lành. Tiếng nói và chữ - Vương Quốc Chân Lạp trong Bách khoa toàn thư viết của Người Khmer theo nhóm ngôn ngữ Môn- - Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Khmer. Khmer là danh từ được viết theo phiên âm - “Băng qua Cambodia” Phóng sự của Trần Tiến tiếng Anh, thường thấy trong từ điển tiếng Anh. Tiếng Dũng / Người Việt Việt phiên âm chữ này thành Khờ Me hay Khơ Me. - Những khám phá mới về nền văn minh Angkor Danh từ Khmer khi phiên qua tiếng Hán thành Cao của VTH theo BBC. Miên, gọi tắt là Miên. Do đó một số người Việt vẫn - Đế quốc Kambuja by George Coedes còn gọi là dân tộc này là Người Miên.Tiền tệ dùng Đồng Riel (1 đô la Mỹ = 4000 Riels) Vĩnh Trường Võ Trung Tín

Thủ đô Phnom Penh: Thủ đô Phnom Penh được sáng lập năm 1372. Hứa đa cảnh giới hà lai khứ Năm đó, vào mùa nước lũ, nhiều khúc cây trôi dạt tới vùng này. Trên một mô đất do một góa phụ giàu có là Vạn lý thiên biên nhất nhạn phi. Daun Penh đắp lên, một khúc cây dạt tới, bên trong Phật Quốc Thiền Sư khoang cây có bốn tượng Phật bằng đồng và một Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 55 BÙA HỘ MẠNG Lâm Thành Hổ BBC: Đang bài nầy để tưởng niệm một năm ngày đồng hương Lâm Thành Hổ đã vĩnh viễn ra đi, một người bạn đã đóng góp nhiều tâm huyết cho Đặc San Trà Vinh trong những năm qua)

Sáng nay mấy đứa trẻ đầu xóm xôn xao báo chỉ còn anh, và vẫn lết, vẫn lăn, vẫn sống mõi mòn một cái tin mà ai cũng không cảm thấy ngạc nhiên và qua ngày qua tháng. Nhiều lần đau bệnh, thập tử nhất xúc động: “Ông Tư Thàn chết rồi tụi bây ơi”. Ổng sinh, rồi cũng qua khỏi. Lần sau cũng tưởng rằng được chết cũng phải. Tưởng ổng chết từ mấy năm trước rồi dĩa bay rước về cõi tiên nhưng vẫn bị lọt sổ Thiên chớ. Không ngờ có một người nào đó tới chở anh lên Đình. Bất thần Tư Thàn nhận được lá bùa hộ mạng núi Bà xin bùa về đeo nên mới sống sót thêm mấy của một người tự xưng là Người Cõi Trên gởi tặng. Lá năm. Giờ chết cũng vừa. Việc còn hay mất của Tư bùa được vấn tròn trong dây vải và trịnh trọng đeo vào Thàn giống như chuyện mất chó thôi. cổ. Tư Thàn sống vui như vừa đầu thai kiếp khác, như Tư Thàn làm nghề bán vé số kiêm nghề ăn đồng khô gặp lụt. Anh tuyên bố từ nay trái tim anh mày. Bị cụt cả hai chân, trước đây chỉ có cách ngồi thôi rỉ máu, cõi lòng sẽ ấm mải trong tình thương bao trên cái miếng lốp xe cũ rồi lết. Lết khắp khu xóm. la của một nữ ân nhân vô danh còn biết và nhớ đến tên Đường đá, đường đất, hay lộ cao su anh đều có kinh anh. Anh tuyên bố sẽ sống thọ trăm tuổi để xem cuộc qua, chỉ có lết hay đi bằng hai tay. Anh phải làm kiêm đời thay đổi ra sao. Nhưng chỉ có vài năm…Bây giờ hai nghề như vậy mới đủ sống, khỏi chết đói. Không Tư Thàn đã chết. Người thiện nguyện lo việc tẩn liệm, biết lúc còn đủ chân tay anh cao bao nhiêu, nhưng bây mai táng anh, thấy sợi bùa, tò mò lấy dao rọc ra coi giờ ngồi lết như vậy, toàn thân anh chỉ cao bằng đầu thử, thì bị tối mặt tối mày vì thấy nó không phải là lá gối người đi bộ, mặt anh khô héo như xác ướp người bùa mà là tờ giấy bạc 100 đô la. À thì ra ! Giống như thượng cổ. Cho nên anh có mặt ở đây mà không ai lưu mẹ anh ngày xưa đau nặng, từ chiến trường về thăm, ý, đến khi bước qua đầu anh ta thì mới giựt mình, như anh có mang theo vài trái bôm (pomme = táo) Nhựt sắp đạp phải con chó đói nằm cản đường. Tiếng van thơm phức biếu mẹ, mẹ anh ôm và hửi trái bôm mà xin của anh khan khan và gần tắt. Anh chỉ xin bằng lành bệnh. đôi mắt, đôi mắt sáng như mắt chim mèo.Tối anh lết Còn nhớ vào một buổi chiêù nắng nóng như về nhà nằm vật ra ngủ. Nhà anh khá gọn và tươm tất. hâm, khi Tư Thàn về tới nhà chòi thì có thằng bạn Đó là cái chái bằng tôle cũ, chiều dài chiều ngang đều đường dẫn một người đàn ông đi xe Honda ôm tới khoảng hai thước, đâu đầu vô bức tường phía sau nhà tìm. Người đàn ông tuổi trung niên khuôn mặt hiền ông Sáu Ninh. Ông Sáu tốt bụng, không đòi tiền mướn hậu, đề nghị vô nhà Tư Thàn nói chuyện. Đúng là “mặt bằng” cho nên Tư Thàn bám trụ xóm nhỏ nầy chuyện riêng. Tin vui. cho tới bây giờ. Ban đầu thì ngủ đất. Rồi nhờ làm ăn Tư Thàn mừng thầm. khá, anh kiếm mua gỗ cũ ghép lại thành cái giường Thằng Trần Phong nói rộng chừng một mét, ép trên vách tường và kê trên thiệt. Nó nói có bà tiên mấy cục gạch bể. Trên giường có cái mùng treo lên. vô danh bên Úc âm Anh còn làm được cái kệ để vật dụng, nồi niêu chén thầm bỏ công ra xin tiền bát và cả cái bàn cao ba tấc đặt luôn trên giường ngủ và thuốc men gởi về để ngồi viết. Người ta nói anh biết đặt thơ, nhưng giúp những kẻ xấu số, chưa có ai được thưởng thức. Thơ anh chắc cũng thum những Thương Binh bị thủm như chỗ nằm của anh thôi. bỏ quên hơn 30 năm Sau cùng anh có thêm một vật dụng giúp nền nay. Không biết bằng kinh tế của anh cất cánh: Chiếc Xe Lăn. Không biết cách nào mà anh chàng nhờ ai chỉ chọt mà một Hôi Từ Thiện nước ngoài cho Trần Phong được bà người mang tới tặng anh chiếc xe đó, và cái người tiên bên Úc tin cậy và mang xe tới cũng giấu tên luôn. Anh bỏ nghề ăn xin giao cho nhiệm vụ phân phối tình thương của những và chọn “ nhất nghệ” cho thật tinh là bán vé số. Tưởng ân nhân vô danh. Tư Thàn không dám tiếp sứ gỉa tình sẽ được “thân vinh” nhưng chẳng may, nội công tiền thương tại nhà, sợ bị dòm ngó, bèn đề nghị giả bộ đi lực của anh đã cạn kiệt qua chuỗi dài năm tháng khổ xa. Tới nhà một người quen của chàng Trần Phong, đau. Anh lại bị đau cột sống, rất khó ngồi và di sau khi được khiêng lên giường ngồi, Tư Thàn được chuyển. Vừa lên xe, giờ lại xuống chó nữa. Anh từng khách lạ trao quà và nhờ ký tên nhận. Thuốc đau là Lính Mũ Xanh, mấy xếp lớn đã đi lâu rồi, bây giờ nhức: Panadol, Panadeine, Multi Vitamine. . .Trời ! Ai

Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 56 mà thấu hiểu tim đen của mình đây. Con mắt thần nào THUYỀN SẦU từ xa nghìn trùng bốn biển mà soi thấu được cảnh nầy. Nước mắt Tư Thàn chảy dài trên má. Rồi anh run run Ra đi thêm nhớ quê nhà mở bao thơ nhỏ ra. Thánh thần thiên địa ông bà ơi ! Trăm năm nghi hoặc thương xa nhớ gần Một trăm, số 100. Một trăm gì đây, màu xanh, dai dai Người buồn hoa héo khô xuân dẽo dẽo như miếng ny long ? Hoa buồn người héo hồng trần khô hương Một trăm đô la đó mầy, quỉ dịch - Trần Phong Ngày xưa sống với ruộng vườn xía vô. Ngày nay lạc lõng phố phường nhỏ nhoi Miệng Tư Thàn bắt đầu mếu máo, hai tay run Hiền nhân xưa cũng nổi trôi lập cập banh tờ giấy bạc ra, úp vô mặt vô mũi và hôn Thi nhân xưa cũng rã rời hồn thơ lấy hôn để, vừa hôn vừa khóc giòn như con nít ba tuổi. Trăng sầu tóc bạc xác xơ Rồi anh ôm vào ngực, rồi đưa lên trán, toàn thân gật Gian nhà quen thuộc còn ngờ chưa quen? gù, như tín đồ của một tôn giáo nào đó đang hành lễ. Mặc ai chia rẻ sang hèn Anh nói trong dòng lệ, giọng như đứt khoảng : Mặc ai quên nghĩa trắng đen thay lòng -Cho tôi xin, cho tôi. . .gởi tới ân nhân vô Ta như sóng nước Cửu Long danh, tôi. . .không biết nói gì, tôi xin gởi tới người bên Lang thang bốn biển mà lòng một phương kia đại dương đó một lạy. . . để tạ ơn. . . để thay cho Đất lành thêm một quê hương lời nói của tôi. Xin chúc người đó bình an. Nợ duyên mấy kiếp đọan trường gian nan Thế là tờ giấy bạc 100 đô biến thành lá bùa. Tuổi thơ sao lắm cơ hàn Tư Thàn nhất định không xài. Cứ đeo trước ngưc là Đội trời đạp đất thênh thang sông hồ thấy vui, là hết bịnh, rồi có sức đi kiếm ăn. Vả lại Lối nào hoa úa cỏ khô trong đời tàn tật ăn xin, anh chưa bao giờ mơ ước có Nhân gian mờ mịt nhấp nhô thuyền sầu được số tiền lớn hơn một triệu đồng Việt Nam như Chạy ăn chạy mặc bạc đầu vầy. Anh không còn lo lắng bị chết bịnh hay chết đói Đắng cay lủi thủi về đâu đêm dài nữa. Anh đang được bà thánh theo bên mình hộ mạng. Sao chưa nguyện ước đã bay Lòng anh no nê cái nhân tình gần như thiêng liêng của Áo chưa kịp mặc đã phai hết màu những con người Việt Nam luôn thương nhớ quê Tối đen đường trước ngõ sau hương, thương đồng bào dân tộc, mà chỉ tìm cách Bầy đom đóm nhỏ bay vào mộng du riêng để giúp đở cho nhau, không dám qua trung gian Bốn phương khói lửa mịt mù của nhà nước hay hội đoàn mọc đầy như nấm ở hải Bao nhiêu oan ức tội tù nát thây ? ngoại. Còn đâu chiều cũ sum vầy Sau khi xác Tư Thàn được an táng, vài người Ly trà xanh chén rượu say nghĩa tình về nhà anh tiếp tục quét dọn, làm vệ sinh thì phát giác Mười năm gối mộng thư sinh dưới gầm giường một sấp giấy học trò rời rạc, mỗi tờ Mười năm dâu bể thuyền tình dở dang đều có nét chữ tuyệt đẹp của anh. Nhìn kỹ, thấy đây là Ai về phố cũ hoang tàn sấp thơ, tới gần trăm bài, dưới mỗi bài có ghi Chiến Ta tha hương cũng xốn xang nửa đời Binh Vô Danh NPTL. Anh chàng Trần Phong biết Ao bèo ca nhỏ còn bơi chuyện, giật lấy, biểu để cho anh giữ làm kỷ niệm, rồi Ruộng hoang rau đắng cải trời nhớ ai ? đọc cho mọi người nghe thử một bài thơ. Ai nấy đều Nhà không vườn trống mưa bay cảm động vì những bài tuyệt hay. Đọc xong, Trần Nhện giăng rêu phủ dấu giày bể dâu Phong ngậm ngùi, trầm ngâm một hồi như kẻ mất Mồ cha mả mẹ còn đâu hồn, rồi thốt ra mấy câu như để phúng điếu cho người Nghìn thu cũng chẳng thể nào yên thân bạn đồng tình : Đã đành nhân thế phù vân Anh gom từng hạt chữ Mà sao gian ác chẳng cần đắn đo ? Để vo lại thành thơ Thì thôi ! Câm điéc giả đò Như dã tràng se cát Cũng như cát bụi nhỏ to làm gì Trên bãi vắng hững hờ Một đời chỉ một chuyến đi Nay anh về miên viễn Trước sau rồi cũng xanh rì mốc meo Thơ anh biến hư vô Lang thang nắng sớm mưa chiều Bãi vàng rồi dâu biển Đục trong hờn giận thương yêu còn gì ? Sóng vẫn vỗ vào bờ. Rừng thiền núi mộng vô vi Lâm Thành Hổ Áo bay sương khói đường đi bụi mờ.... Sydney 7/2007 Luân Tâm Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 57 Ba xuyên đi dễ khó về, Trai đi để vợ, gái về mang con! (Rút ra từ ‘’Những chuyện gia đình Website: hohuynhtravinh.net)

Ông hai Huỳnh kim Long của tôi (ông nội tôi mà ở đó người ta, là những chủ điền, những nhà giàu thứ năm), có ba người vợ, theo luật Gia long đều là vợ miền Nam trọng chữ nghĩa hơn tiền tài. Họ xem nhẹ chánh thức (Femme de 1er rang, Femme de 2e rang nguyên tắc gả chồng cưới vợ cho con là phải môn etc..). Với bà cả ông có 7 người con, với bà thứ hai là đăng hộ đối, họ trọng ngừơi có kiến thức, có chữ Nguyễn thị Huyên theo sự sưu tầm của người viết thì nghĩa hơn là ‘’ruộng cả ao liền ’’. Trường hợp lập không con, nhưng mới đây (2007) lại có tin bà có con thân lập gia đình của bác ba tôi là một trường hợp điển cháu với ông tôi, song tôi chưa tìm ra ra tông tích. hình của thứ văn hóa đó, mà không phải chỉ trong thế Bà thứ ba là Nguyễn thị Do, người ấp Trại hệ của bác tôi thôi, mà còn tiếp diển qua nhiều thế hệ luận, làng Đại phước, quận Càng long, tỉnh Trà vinh. kế tiếp, cả thế hệ của tôi và trong gia đình họ Huỳnh Khi ông cưới bà nầy (năm 1890) thì bà là một phụ nữ chúng tôi, trong đó có gia đình của bác ba Huỳnh bà góa chồng rất đẹp, đã có một con gái hai ba tuổi. Một Phước. năm sau bà hạ sanh ra một nguời con trai, đó là bác ba Huỳnh kim Phát, sau đổi tên là Huỳnh bá Phước. Không may là ba năm sau (1894), ông hai tôi bị cướp vào nhà đâm chết. Tang chế xong, vì không còn thuận thảo với mẹ con bà lớn nữa, mẹ con bác ba tôi phải cuốn gói về nương náo bên ngoại. Hai lần góa chồng, bà Do về Đại phước ở với mẹ già, nuôi heo nuôi gà nuôi vịt, đi cấy đi gặt…nuôi con cho đi ăn học thành tài. Vốn Đại phước chỉ cách Trà vinh một con đò ngang và mươi cây số ngàn, ở tỉnh lỵ lúc bấy giờ đã có trường tiểu học bổ túc và trung học. Một bài học nhân sinh quan quí báu: trong cái bất hạnh do con người ghen ghét gây ra, lại có cái phúc do tạo hóa dành cho. Vốn nếu không bị xua đuổi về bên ngoại, cứ tiếp tục sinh trưởng ở Nhị long bên Một ngôi chùa Khmer ở Sóc Trăng nội, thì giỏi lắm lập thân và lập nghiệp chỉ thành một tiểu điền chủ, lặn lôi trong vài trăm mẫu ruộng là Ba xuyên là tên cũ của tỉnh Sóc trăng, có từ củng, vì lúc bấy giờ ở Nhị long chưa có trường học, thời Mạc cửu, theo nghĩa rộng là tất cả các tỉnh miền không có môi trường để tiến thân, ngoài nghề chăn Tây, Rạch giá, Long xuyên, Sóc trăng, Bạc liêu…là trâu làm ruộng. những tỉnh đồng lúa bạt ngàn, chuyên trồng lúa sạ hơn Có người thân ở tỉnh lỵ Tràvinh, bà Do gửi là lúa cấy và đất quá rộng, mà người lại quá thưa (thời bác tôi đi học tiểu học, rồi trung học. Nhờ học giỏi đó 1890-1945). Lúa sạ là một giống lúa nước, không bác được học bổng đi học ba năm ở trường Normale cần phải qua giai đoạn gieo mạ và nhổ mạ đề cấy, nhà (Sư phạm) Saigon và năm 1918, bác đổ bằng Brevet nông chỉ cày và bừa xong là cứ gieo vãi (gọi là sạ) lúa d’enseignement, để rồi trở về Tràvinh làm giáo chức giống xuống ruộng, chờ ngày lúa chín để gặt. Lúa sạ cấp trung học. Chưa đầy một năm sau, bác đi lập thân, luôn luôn chín sớm hơn lúa cấy cả một hai tháng, là cưới vợ và ở rể tận Phước long, Rạch giá. Đó là câu nghĩa là trước Tết Nguyên đán, vào khoàng tháng 11 chuyện gián tiếp có liên quan với: âl. Đang khi đó thì các tỉnh miền Đông, nhứt là Tân Ba xuyên đi dễ khó về, an, Mỹ tho, Bền tre và Trà vinh Vĩnh long Sa đec lại Trai đi để vợ (bỏ vợ ở nhà) gái về mang con! trồng lúa cấy, thường khi lúa cấy chín cuối năm hay (có mang)! qua Tết Nguyên đán, cho nên trong các tỉnh nầy, sau Tuy nhiên chuyện lập thân của bác ba Huỳnh khi cày cấy xong xuôi rồi là cuối tháng 10, người bá Phước chỉ là một phó sản của một trào lưu di nông dân không còn có việc làm gì đáng làm nữa. Nói chuyển theo mùa nhân công hay lao động từ miền một cách khác họ thất nghiệp, một thứ thất nghiệp Đông qua miền Tây của Nam kỳ lục tỉnh chuyên nông theo mùa và kinh niên, đang khi các tỉnh miền Tây lại nghiệp. Nhưng nếu đứng về mặt văn hóa mà nói thì hoàn tòan thiếu nhân công để kết thúc giai đoạn chót cuộc nhân duyên của bác đúng là hệ quả của nếp sống của quá trình sản xuất ra lúa ra gạo, là gặt là xỗm, là

Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 58 đập, là đạp. là phơi là giê là bỏ vào vựa chờ ngày đem thường cuốn tròn đeo vắt ngang trên vai, đàn bà kẹp bán ra thị trường tiêu thụ trong nuớc hay xuất cảng ra dưới nách và một bộ quần áo bà ba, thêm một cái nón ngoại quốc. lá và một cái khăn rằn. Tất nhiên phải có cái vòng hái Để giải quyết cái nạn chỗ thiếu chỗ thừa nhân hay cái lưỡi hái nhỏ, nếu chưa có thì cũng có thề mua công nói trên, gần như tự động hay đúng hơn là luật sấm khi tới nơi. cung cầu đã đến như sau. Trong các làng xã miền Khi đến nơi, có khi họ còn phải dắt nhau đi Đông, trong đó nên kể Trà vinh Vĩnh long Sadec, vì một vài cây số tìm nhà chủ điền nào đang cần thợ gặt ba tỉnh nầy còn ở bên nây sông Hậu, đàn ông trai thợ xổm . Có khi chính nhửng chủ điền cho nguời tráng và một số thiếu nữ 17, 18, 20 quê mùa, khỏe nhà đi đón đi tìm các đoàn nguời từ các tỉnh miên mạnh…hợp nhau thành một đoàn người hàng xóm, Đông đến, ở bến xe đò hay bến tàu lục tỉnh. Đến nhà quen biết nhau, nhiều khi bà con nhau để đi ‘’Ba chủ điền, chủ điền sẽ tiếp họ và thảo luận với họ ngay, xuyên’’ gặt lúa mướn cho các chủ điền đang có những để hai bên thỏa thuận về việc làm, tiền công, tiền công đồng lúa chín bạt ngàn. Ở đó ngừời ta không nói gặt thường trả từng ngày một hay hai ba ngày và luôn mà nói là ‘’xổm’’. Thật ra thì gặt là động từ dành cho luôn theo số công (1000m2) hay mẫu (10,000m2) lúa lúa cấy, còn xổm là dành cho lúa sạ. Gặt là cắt lúa đứng hay lúa nằm, có gôm lại để đạp hay để đập chín với một cái vòng hái, cán lớn và dài 4, 5 tấc, có không v.v…Chổ ăn ở nấu nướng thì luôn luôn điền hình tam giác nhọn, có gắn một cái lưỡi liềm nhỏ, chủ phải cung cấp cho, nhưng không bao giờ bao cơm đang khi đó thì xồm là cắt với một cái luỡi hái nhỏ có nước. cán nhỏ và ngắn như cán dao. Gặt còn bao hàm thêm Phần lớn chủ điền đều phải dùng nhiều nhóm động tác bó lúa làm thành từng bó, đang khi xổm là người từ nhiều nơi khác nhau, làm cho xong cho mau cắt đâu bỏ đó. Cho nên công tác xổm nhẹ nhàng hơn lẹ để tranh thủ thời gian và nhứt là để tránh việc mưa công tác gặt, các người con gái 17, 18 có thể làm đươc nắng nhiều khi bất thường. Cho nên trong hai tháng dễ dàng…(Trong miền Tây, có những từ là tàn dư của cuối năm nhiều nhà điền chủ ngày một ngày hai đã trở văn hóa Khmer để lại, người ta không gọi thợ xổm nên đông dúc như một cái chợ nhỏ, người ra người như miền Đông người ta gọi thợ gặt, mà con trai con vào năm ba chục, ai ai cũng bận rộn. gái đàn ông đàn bà mà đi xổm lúa đều được gọi bằng Đó là những cơ hội để gặp nhau, để biết nhau, một danh tư chung là Con xổm, cũng như các danh từ làm quen với nhau, nhứt là sau khi làm việc mệt nhọc dành cho các giống lúa đều mang chữ Nàng, như họ có một ngày nghỉ. Có làm là phải có nghỉ ngơi, mà Nàng phượt Nàng huơng, Nàng trít…) nghỉ ngơi là có vui chơi giải trí, mà cho giới lao động nầy là bài bạc. Chủ điền không ngăn can mà nhiều khi khuyết khích, tổ chức cho họ ăn thua nhau, nếu không nói là sát phạt nhau, chủ điền muốn cho người làm vui chơi mà mình còn thêm lợi là lấy xâu, một thứ hoa hồng như ở các Casino của Mỹ. Thời đó trong miền Tây mùa gặt hái môn bài bạc thạnh hành nhứt là ‘’hốt me’’. Gọi là hốt me, vì từ lúc đầu người chơi là tay cái và tay con dùng hột me để ăn thua nhau, nhưng về sau người ta dùng hột gì khác như hột đậu trắng, cả đồng tiền điếu cũng đuợc. Hốt me có 4 cửa để đánh hay để cá là Nhứt Nhị Tam Tứ hay là một hai ba bốn. Muốn biết số nào hay cửa nào, thì cứ đếm từng 4 hột một, còn dư lại 1,2, 3 hay 4 là con số phải đoán cho ra để cá hay đặt tiền, trúng thì Lúa chín vàng đồng miền Tây nhà cái chung một ăn một. Như vậy dụng cụ môn hốt Đến mùa là đầu tháng 11 âl, họ kéo nhau đi me nầy là một đống khoảng 300 hột me hay hột đậu từng đoàn 5, 7 người, ít khi mươi người. Phương tiện trắng. một cái chun nhỏ như chun uống trà và một chuyên chở phấn lớn là xe đò, nhưng cũng có khi chiếc đũa cong đầu. Khởi sự một ván là khi tay cái lấy bằng tàu. Họ ra đi là họ biết phải đi đâu, tỉnh nào, cái chun úp xuống đống hột đậu hay hột me, đẩy ra quận huyện nào, không nhờ báo chí quảng cáo thông một số ba bồn chục hột gì đó trước mặt mọi người để tin, họ chỉ biết được qua kinh nghiệm của hai ba năm cho các tay con đoán xem kết số trừ là bao nhiêu và trước hay do hàng xóm láng giềng nói lại. Hành trang đặt tiền trên 4 cửa một hai ba hay bốn để ăn thua với của họ rất nhẹ nhàng và đơn giản, đàn bà cũng như tay cái. Để biết kết số trừ là mấy thì nhà cái mở chun đàn ông chỉ cần có một cái nốp làm bằng đệm lát (tiền ra hai ba lần để đếm, khi đếm thì dùng chiêc đũa có thân của cái sleeping bag của Âu Tây), đàn ông đầu cong khìu ra từ 4 hột một cho đến khi hết, kết số Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 59 là số hột me còn lại. Cái lợi lớn nhứt của tay cái là có thác ruộng đất của chúng tôi ở trong đó và cũng quyền giữ lại cho mình một cửa, các tay con chỉ được là mùa gặt. Một ngày nọ về chiều tôi có chứng kiến quyền đánh 3 cửa thôi. Khi ván nào ra kết số là số của môn ‘’hốt me’’ được tổ chức ngay tại lẫm lúa của anh tay cái thì tay cái ăn hết, kỳ dư các ván khác thì tay cái tôi. Các con xổm đã tề tụ về đây từ khi nào (?) để gầy có ăn có thua. Chung qui chơi càng lâu tay cái và chủ sòng, có hai tay cái từ chợ vào. Có khoảng 20 chục tay điền thu hết tiền của tay con, chủ điền có một sô tiền chơi, một phần ba là đàn bà con gái, họ chia làm hai lấy xâu quan trọng. Lấy xâu lá lấy trên số thu của nhà sòng, một sòng ăn thua nhau bằng xu và bạc cắt, một cái, thường không phải là trên tiền ăn của tay con. sòng ăn thua nhau bạc đồng. Nếu giá lúa lúc bấy giờ 70 xu một giạ 40 lít 21-22 kílo, một ngày xổm được một công thì tiền công là 70 xu hay một giạ lúa, nên ăn thua như vậy không phải là nhỏ. Nếu tôi còn nhớ rõ thì lúc đó chúng tôi còn dùng xu và nửa xu, một gói xôi trứng gà chỉ nửa xu…Tôi đi học Saigon, mỗi tam cá nguyệt má tôi chỉ cho có 5 đồng bạc, xài không hết còn dư tiền để đi nhà sách Portail mua sách tha hồ. Thửa ruông lúa của anh tôi đang lo gặt lo xổm trong mùa khô đó chỉ là một trong nhiều thửa ruộng khác có khi to lớn hơn nhiều và đâu đâu cũng có những sòng hốt me, sòng bài cào hay sòng phé. Nói như trên để thấy rằng trong mùa gặt mùa xổm lúa ở các tỉnh miền Tây đời sống xã hội trong mấy tháng Thợ gặt trên những cánh đồng lúa vàng ươm trước Tết Nguyên đán cũng như sau Tết đã trở nên hết Tuy nhiên cũng có nhiều chủ điền rất tốt, lấy sức náo nhiệt, phức tạp và rất hấp dẫn, cùng một lúc xâu rất ít và biết săn sóc sức khỏe của những con xổm rất nguy hiểm cho đàn ông và nhứt là con gái từ các nhiều khi đau ốm, như chị dâu của tôi, thời đó trong tỉnh miền Đông qua lao động để kiếm tiền trở về làng các tỉnh miền Tây muỗi vẫn còn như “sáo thổi’’ khi ăn Tết với gia đình, nhưng không phải luôn luôn đều mặt trời vừa lặn, nhưng vì là mùa khô nên không có tốt đẹp may mắn cho mọi người. Hai câu ca dao ngộ đĩa “lội như bánh canh’’. nghĩnh nói trên muốn mô tả những hậu quả tiêu cực, Ngoài ra có nhiều tay cái thật điêu luyện để không tốt đẹp có thể xảy ra, khi những người chồng gian lận, tay con phải cảnh giác hết sức, khi nhà cái và nhứt là những người con gái mới lớn lên phải đi cầm lấy cái chun úp xuống đống hột me hay hột đậu vào đó để lao động, dù chỉ một hai tháng, trong một có thể biết được trong đó có bao nhêu hột, nhứt là khi môi trường mới lạ xô bồ, nhiều cám dổ cũng như tháo ra hai ba lần để đếm, số hột còn dưới chun càng nhiều cạm bẩy. Ở đó không thiếu những tay đầu trâu lúc càng ít đi, nghĩa là khi cầm cái chun đưa ra mở ra mặt ngựa, không thiếu những tên sở khanh. Những tay cái biết còn bao nhiêu hột ở dưới chun để thêm hậu quả tiêu cực phải đề phòng trong hai câu ca dao là vào một hai hột mà các tay con vì mãi mê chơi, theo người chồng để vợ ở lại nhà và người con gái chưa dõi mọi biến chuyển của cuộc chơi nên không thấy. chồng mang bầu về làng, không phải đơn giản, xấu xí Tay cái có thể giấu một hai hột trong kẹt mấy ngón mà có lắm phần phức tạp, ly kỳ là khác. Vì sau những tay và buông nhẹ theo cái chun xuống chiếu, để đếm hiện tượng xã hội xấu cũng như tốt đều có một hậu với các hột đậu khác. Đã có những trường hợp tay cái trường văn hóa của một dân tộc, ở đây là người miền không điêu luyên đủ để tay con bắt tại trận. Và cái gì Nam, một phần dân tộc Đại việt. Người viết nghĩ đến đã xảy ra? Nếu có tay con biết nổi máu anh hùng hay một người mẹ phải để người con gái cưng –mẹ nào lại có chút võ nghệ có thể ra tay cho một bài học đẫm không cưng con gái- của mình ra đi, chắc chắn cũng máu, để các tay con nhảy vào “ăn ké’’, lợi dụng cơ hội phải có người cùng đi để gửi gắm mới dám cho con cướp lấy tiền của tay cái bỏ vào túi. ngang nhiên bỏ mình đi, tình tự hàng xóm phải đẹp thế nào? (Con gái sòng ‘me’ ra đi. Kết quả: chủ điền phải can thiệp, xử tôi còn khờ khạo, anh nó, chú nó hay bác nó, làm ơn sự thế nào để lấy lại uy tính chủ điền của mình và hòa trông chừng nó giùm…)Tuy nhiên cũng có câu: Ở nhà bình cho mọi người, vì còn hy vọng gặp lại, nếu với mẹ biết bao giờ khôn! Hay là ‘’một bước ra đàng không trong mùa gặt nầy, thì it ra là trong mùa gặt là một sàng khôn’’(.Hai câu nầy không chỉ cho con năm sau.. gái mà cho cả con trai.) Nhưng nếu một người con gái Năm 1937 tôi có vào Tân Hiệp nghỉ hè, ở đã lỡ dại, mang bụng về làng, có khi về làng mới biết, nhà anh Hai tôi, anh đang thay mặt cha tôi để khai chắc chắn người hàng xóm chưa thể biết ngay đuợc. Vậy người mẹ hay người cha sẽ đối xử với con gái Đặc San Trà Vinh - Xuân Canh Dần 2010 60