PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY (Phan Thượng Hải)
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY (Phan Thượng Hải) Phật Giáo Nguyên Thủy là Phật Giáo từ lúc Phật Thích Ca tạo nên Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật Pháp dựa trên Tam Tạng (Kinh, Luật và Luận) của kỳ Kết Tập lần thứ nhất và của các Bộ Phái với những Giáo lý căn bản của Phật Giáo. Tăng là Tăng Già từ lúc Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ tôn kính Phật Thích Ca. Từ thế kỷ 1, Phật Pháp phát triển thêm 1 đường lối mới từ căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy gọi là Đại Thừa. Đại Thừa gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là Tiểu Thừa và bắt đầu tôn thờ Phật Thích Ca cùng với nhiều Phật khác và Bồ Tát. Từ thế kỷ thứ 7 lại có thêm Mật Giáo ở Ấn Độ với những đường lối tu hành bí mật tuy vẫn giữ căn bản từ Đại Thừa. Về sau Mật Giáo ở Tây Tạng tự gọi là Kim Cang Thừa. Phật Giáo Nguyên Thủy rồi Đại Thừa tàn phai ở Ấn Độ dưới sức mạnh của Mật Giáo nhưng lần lần qua vài thế kỷ toàn thể Phật Giáo bị tín đồ Hồi Giáo tiêu diệt ở Ấn Độ vào thế kỷ 13. Phật Giáo Nguyên Thủy được truyền qua Tích Lan vào thế kỷ thứ 3 rồi từ đó truyền khắp Đông Nam Á và tồn tại tới ngày nay ở những nước nầy. Giáo Lý của Phật Giáo Nguyên Thủy vẫn là căn bản của Giáo Lý Phật Giáo nói chung. Từ nó, Hành giả hiểu rõ hơn Giáo Lý của Đại Thừa vả Mật Giáo Kim Cang Thừa (vì Kim Cang Thừa vẫn giữ căn bản Giáo Lý dựa trên Đại Thừa). Đây là một công trình khảo cứu (168 trang) với mục đích trình bày những chi tiết thiết yếu: về Lịch sử Phật Thích Ca và chư Phật, Lịch sử Phật Giáo, và Lịch sử Tăng Già và các Đại Đệ tử của Phật Thích Ca. về Giáo Pháp của Phật Giáo Nguyên Thủy; áp dụng phương pháp chính thống, căn bản và có hệ thống. Từ ngữ về Phật Pháp có dùng thêm Anh Ngữ và Phạn Ngữ để bổ túc cho Từ ngữ Hán Việt (rất thông dụng trong Phật Pháp). Tác giả dùng Từ ngữ Pàli cho những Địa danh trong thời của Phật Thích Ca và Danh tánh những Đệ tử của ngài Dưới đây là Dàn bài của những Đề mục (Topics) sắp đặt theo thứ tự (với trang sách tương ứng) để độc giả có thể tham khảo từng Đề mục riêng rẽ. (Bố Cục) PHẬT Thích Ca Mâu Ni Phật (trang 3) Ấn Độ dưới thời Phật Thích Ca (trang 12) Thế giới của Phật Giáo (trang 14) Vũ trụ của Phật Giáo (trang 20) Chư Phật của Phật Giáo Nguyên Thủy (25) PHÁP Lịch Sử Phật Giáo (trang 27) Tam Tạng (trang 41) Tứ Diệu Đế (trang 47) Ngũ Uẩn (trang 53) 12 Xứ (trang 55) 18 Giới (trang 58) Vạn Hữu và Vạn Pháp (trang 62) Tứ Pháp Ấn (trang 69) Nhân Duyên và Duyên Khởi (74) 12 Nhân Duyên và Nghiệp Cảm Duyên Khởi (trang 80) Phiền Não và Ảo Giác (trang 89) 37 Đạo Phẩm (trang 91) La Hán Đạo (trang 94) Tam Học (trang 100) TĂNG Tăng Già (trang 128) 10 Đại Đệ Tử (trang 132) 18 La Hán (trang 153) Tài Liệu Tham Khảo (trang 167-168) THÍCH CA MÂU NI PHẬT 1) Tiểu Sử Ngày nay mọi người đều công nhận Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni Buddha) là vị Phật (Buddha) độc nhất có thật trong lịch sử và là người sáng lập ra Phật Giáo. * Thích Ca Mâu Ni Phật tên là Siddharta Gautama (Tất Đạt Ta Cồ Đàm) sinh ở Lumbibi (Lâm Tỳ Ni) của xứ Kapilvastu (Ca Tì La Vệ), thuộc Nepal ngày nay. Thời điểm của năm sanh của ngài có thể là trong khoảng năm 566 (hay 563) tr CN. Cha cùa ngài là Vua Suddhodana (Tịnh Phạm), làm đầu của dòng Sàkya (Thích Ca), một trong những bộ lạc ở Đông Bắc bán đảo Ấn Độ vào thời đó. Mẹ của ngài là Hoàng Hậu Maha Devi (Ma Da) chết 7 ngày sau khi sinh Siddharta. Siddharta được em gái của Hoàng Hậu là bà Maha Prajpati (Ma ha ba xà ba đề) dưỡng nuôi. Năm 16 tuổi, Thái Tử Siddharta kết hôn với Yasodhara (Da Du Đà La), một Công Chúa của dòng Koliya. Hai người có một con trai là Ràhula (La Hầu La). * Sau 29 năm là Thái Tử ở Kapilvastu (Ca Tì La Vệ), Siddharta (Tất Đạt Ta), 29 tuổi, trốn ra khỏi hoàng cung quyết chí tu hành. Siddharta khởi đầu đi Rajagrha (Vương Xá) và bắt đầu sống khổ hạnh (ascetic life) bằng cách xin bố thí ở ngoài đường. Thủ hạ của Vua Bimbisara nhận ra ngài ở ngoài đường phố và biết chí hướng của ngài nên về báo lại với nhà vua. Vua Bimbisara (Tần Bà Sa La) cảm phục muốn nhường ngai vàng cho ngài tuy nhiên Siddharta (Tất Đạt Ta) từ chối nhưng hứa là sẽ thăm vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) của nhà vua trước tiên sau khi thành đạo. Siddharta (Tất Đạt Ta) rời kinh đô Ràjagrha (Vương Xá) của Magadha và tu hành theo 2 vị thầy. Sau khi đắc đạo từ Tu sĩ Alara Kalama (A La La Ca Lam), Siddharta không bằng lòng nên bỏ đi mặc dầu được Kalama chọn làm người thừa kế của mình. Sau đó Siddharta làm học trò của Tu sĩ Udaka Ramaputta (Ưu Đà La La Ma Tử), tuy nhiên rồi ngài cũng bỏ đi mặc dầu Siddharta đã đạt được bậc Thiền quán tối cao và được Ramaputta chọn làm người thay thế. Siddharta và 5 người khác, do Kondanna (Kiều Trần Như) cầm đầu, bắt đầu tu kiểu đầu đà (austerities, self-mortification). Họ tìm giác ngộ bằng cách gần như nhịn đói, hoàn toàn chỉ ăn lá cây hay hạt dẻ. Hậu quả là Siddharta (Tất Đạt Ta) gần chết chìm khi ngài bất tỉnh trong lúc đang tắm ở một con sông. Từ đó Siddharta tìm đường lối tu khác. * Sau khi tu theo 2 đường (thiền hay khổ hạnh), Siddharta (Tất Đạt Ta) không vừa ý, Ngài khám phá ra Trung Đạo (The Middle Way). Siddharta ngồi dưới một cây Pipal, ngày nay được biết là cây Bồ Đề ở Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), tự nguyện là không đứng dậy cho đến khi tìm ra Chân Lý. Sau 49 ngày Thiền Quán, Siddharta đạt được Giác Ngộ (Enlightenment). Trí tuệ của Siddharta quán triệt được Nhân Quả của sự đau khổ của nhân loại và đường giải thoát. Đó là Tứ Diệu Đế (The Four Noble Truths). Từ đó Siddharta (Tất Đạt Ta) được biết là Phật (Buddha). Phật là gọi tắt của Phật Đà và Phật Đà là dịch âm của tiếng Phạn Buddha. Buddha dịch nghĩa là Giác Giả (Awakened One), có nghĩa là “Người đã đạt Giác Ngộ” (One who has attained Enlightenment). Lúc đầu ngài có tên là Gautama Buddha (Cồ Đàm Phật) theo danh tánh của ngài (là Siddharta Gautama). Cồ Đàm là dịch âm của Gautama (hay Gotama). Về sau ngài có tên khác là Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni Buddha). Thích Ca là dịch âm từ dòng Sàkya của ngài, Mâu Ni có nghĩa là “Trí giả thầm lặng”. Do đó Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là “Trí giả thầm lặng của dòng Thích Ca”. Danh hiệu Cồ Đàm Phật ngày nay chỉ còn dùng trong Phật Giáo Nguyên Thủy mà thôi. * Sau khi giác ngộ, 2 thương gia gặp Đức Phật tên là Tapussa và Bhallika là 2 người thế tục trở thành đệ tử đầu tiên. Đức Phật sau đó đi đến Lộc Uyển (Deer Park = Sarnath hay Mrigadava) ở VaraGasi (hay Varanasi) gần Benares (ở Bắc Ấn Độ). Ngài chuyển Pháp Luân bằng cách giảng Tứ Diệu Đế cho nhóm 5 người của Kondanna (Kiều Trần Như) mà khi xưa đã từng tu kiểu đầu đà với mình và kết nạp họ để lập thành ra Tăng Già (Sangha). Tăng Già là dịch âm của Sangha (tiếng Phạn) và dịch nghĩa là Tăng Đoàn nghĩa là đoàn thể của những tăng sĩ hay tu sĩ (monks). Về sau Tăng Già có đến hàng ngàn người. Khi nghe Đức Phật đã giác ngộ, vua Suddhodana (Tịnh Phạm) cho phái đoàn sứ giả của hoàng gia đến thỉnh mời Đức Phật về Kapilavastu (Ca Tì La Vệ). Chín phái đoàn đi mà không trở về vì mọi người (trong phái đoàn) đều ở lại và gia nhập Tăng Già và tu thành La Hán. Phái đoàn thứ 10 do Kaludayi, một người bạn lúc thiếu thời của Đức Phật, dẫn đầu cũng ở lại với Tăng Già và tu thành La Hán. Về sau Vua Suddhodana phải mời Tăng Già đến hoàng cung ăn tiệc. Sau khi được Đức Phật thuyết pháp, Vua qui y và trở thành Dự Lưu (Sotàpanna). Cũng nhờ chuyến thăm nầy, từ đó trong hoàng tộc có một số gia nhập Tăng Già: 2 người em bà con (cousin) của Đức Phật là Ànanda (A Nan Đà) và Anuruddha (A Na Luật) trở thành 2 trong 5 đại đệ tử hàng đầu; con của Đức Phật là Ràhula (La Hầu La) nhập Tăng Già lúc 7 tuổi (hay 9 tuổi) và sau nầy ở trong hàng 10 đại đệ tử; người em cùng cha khác mẹ là Nanda cũng gia nhập Tăng Già và sau nầy chứng quả La Hán và một người em bà con khác là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), anh của Ànanda, cũng nhập Tăng Già nhưng sau đó Devadatta lại có nhiều lần âm mưu sát hại Đức Phật.