Vai trò của các đối với hoạt động thưoìig mại giữa Nhật Bản vói Thái Lan và Việt Nam trong thế kỷ XVII

Trần Thị Tâm1

Tóm tăt: Từ năm 1592-1635, thông qua chính sách Châu ân thuyên, các thuyên buôn của Nhật Bản đã thâm nhập mạnh mẽ đến các thương cảng Đông Nam Á, buôn bán và cạnh tranh quyết liệt với thương nhân Trung Quốc, cũng như thương nhân phương Tây. Do có kỹ năng buôn bán và tiềm lực kinh tế mạnh, các thương nhân Nhật Bản đã mau chóng xác lập được vị trí ở nhiêu thương cảng Đông Nam Á, đặc biệt là ở Siam (Ayutthaya), Hội An (Faifo), Tonkin (Đàng Ngoài), Phnom Penh, ... Từ các thương cảng này, người Nhật đã thiết lập nên các Nihonmachi (phố Nhật) để sinh sống, buôn bán lâu dài ở các nước sở tại. Bài viết này làm rõ quá trình hình thành, phát triển của các Nihonmachi tại hai quốc gia điển hình bao gồmViệt Nam, Thái Lan giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá về vai trò quan trọng của các Nihonmachi đối với hoạt động giao thương thời trung đại và sức ảnh hưởng, lan tỏa của giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung.

Từ khóa: Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam, Nihonmachi

ừ rât sớm, người Nhật đã hoạt động CUỘC xung đột lớn khác nhau; một sô là trên các vùng biển thuộc khu vực ronin3, * một số là lính bại trận trong chiến JĐông Nam Á trong nhiều thể kỷ thông trqaunah xâm lược Triều Tiên hoặc các cuộc thám hiểm, thương mại và các lý do xung đột lớn khác. Đặc biệt, khí Toyotomi khác. Tuy nhiên, vào thế kỷ XVI, làn sóng Hideyoshi (1537-1598) và sau đó là các di dân lớn từ Nhật Bản tởi Đông Nam Á đã tướng quân Mạc phủ Tokugawa ban hành gia tăng mạnh mẽ. Nguyên do là những cuộc lệnh cấm lặp đi lặp lại đối với Kitô giáo, chiến tranh liên miên kéo dài cả thế kỷ của nhiều tín đồ Kitô giáo đã trốn khỏi đất thời kỳ Sengoku đã khiến rất nhiều người, nước; nhiều người trong số đó đã đến Thái chủ yếu là các , thương nhân nhỏ Lan, Việt Nam. Vậy, người Nhật đã có mặt ở và những người muốn tìm kiếm vận may và Thái Lan, Việt Nam nhiều nhất từ thời điểm sự đổi đời của họ trên biển. Nhiều samurai nào? Các Nihonmachi chính thức ra đời từ chạy trốn khỏi Nhật Bản trong thời gian này khi nào? Nó là ý muốn chủ quan của chính là những người bên phía thua cuộc trong các 3 Ronin (lãng nhân, những người trôi dạt) là thuật ngữ dùng để chỉ các samurai không còn chủ tướng, xuất hiện 1 TS., Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Huế từ thời Nara, Heian đên hêt thời Edo. 31 Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1 (239) 1-2021 quyền Nhật Bản hay là sự ra đời một cách tự cư đặc biệt được chính quyền sở tại ban cấp. phát? Các Nihonmachi đóng vai trò gì đối Đó là nguồn gốc ra đời của các Nihonmachi. với thương mại giữa Nhật Bản với Thái Lan, Nihonmachi có nghĩa là phố Nhật, khu định Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế cư mà cộng đồng người Nhật Bản từng sinh kỷ XVII? sổng và buôn bán tại một số quốc gia ở khu 1. Khái quát về các Nihonmachi ờ Thái vực Đông Nam Á7 vào thế kỷ XVII. Tại Lan và Việt Nam Nihonmachi, người Nhật được hưởng quyền Xuất phát từ động cơ và mưu cầu khác tự trị dưới sự lãnh đạo của một người đứng nhau, từ thể kỷ XII-XIII, nhiều người Nhật đầu do họ cử ra. Và người đứng đầu này Bản đã bắt đầu đi sâu xuống vùng biển phía phải có mối quan hệ tốt đẹp với chính quyền Nam và đặt chân đến vùng biển Đông Nam và người dân bản địa. Thành phần của Á, trong đó chủ yếu là wako4. Sau đó, trong Nihonmachi chủ yếu là thương nhân, võ sĩ bối cảnh ngột ngạt bởi binh đao của thời kỳ (nhiều nhất ở Ayutthaya), người làm công và Sengoku (Chiến quốc)5 ở Nhật Bản, nhiều phần đông trong số đó là những người theo ronin, những võ sĩ bại trận, bất mãn, muốn Kitô giáo. Theo Ishiwara Yoshiaki, khôi phục danh dự đã tìm cách dong thuyền Nhihonmachi được lập ra trước hết là để có đến những vùng đất mới để tìm kiếm cơ hội. sự giúp đỡ, cố kết toàn thể cộng đồng di dân Đặc biệt, từ năm 1592, bằng những nỗ lực Nhật ở nơi định cư, thứ hai là nhu cầu tất không ngừng của và yếu của một nền ngoại thương lúc bấy giờ Tokugawa leyasu (1543-1616) với mong cần phải có những cơ sở cố định từ các muốn mở rộng hoạt động ngoại thương đã thương cảng chính ở hải ngoại, thứ ba là do cho xây dựng một đội thuyền buôn hùng chính quyền sở tại càn phải tập trung người mạnh thông qua chính sách Shuinsen (Châu nước ngoài đến buôn bán để có thể kiểm soát ấn thuyền 1592-1637), các thương gia và họ một cách hiệu quả hơn8. Cho đến nay, các những người nhập cư Nhật Bản đã đến và nguồn sử liệu phổ biến đều cho ràng có hai định cư lâu dài tại các thương cảng phồn Nihonmachi được xây dựng ở Philippines, thịnh của Philippines (Dilao và San Miguel), một ở Thái Lan, hai ở Campuchia và một ở Việt Nam (Hội An), Thái Lan (Ayutthaya) Việt Nam9. Mặc dù chỉ tồn tại trong một đến và Campuchia (Phnom Penh và Pignalhu). Tại các thương cảng này, những cư dân Nhật 7 Ngoài các Nihonmachi ở Đông Nam Á, mô hình này còn Bản luôn sống cùng nhau tại những khu định có ở một số khu vực thuộc Đông Bắc Á. 8 Madalena Riberco (2001), The Japamese Diaspora in 4 Còn được gọi là Oa khấu, thuật ngữ để chi những cướp the Seventeenth Century (According to Jesuit Sources), biển (hải tặc) có nguồn gốc Nhật Bản hoạt động ờ vùng New University of Libon, p.53-83. biển Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam Á... Ngoài ra, 9 Một quan điểm khác của Thomas Jansen và nhiều sử gia thuật ngữ này còn để chi đối tượng cướp biển khác, chù phưcmg Tây cho ràng ở Việt Nam có hai Nihonmachi (Hội yếu từ Trung Quốc, được gọi là Nụy khấu, Uy khấu cũng An và Đà Năng). Một nhà nghiên cứu khác là Geoffrey c. hoạt động ở vùng biển Đông A từ thê kỳ XII trở đi. Gunn cũng cho rằng ngoài Nihonmachi ở Philippines, 5 Là thời kỳ kéo dài từ giữa thê kỳ XV đên nửa cuôi thê kỷ Thái Lan, Campuchia, Việt Nam thì tại Macau (Trung XVI với những xung đột quân sự diễn ra liên tục giữa các Quốc) và Batavia (Indonesia) cũng có sự tồn tại cùa phố lãnh chúa ở Nhật Bản. Nhật.

32 Trần Thị Tâm

hai thế hệ tại các thương cảng sầm uất nhất Từ sau trận Sekigahara (1600), cùng với của Đông Nam Á, nhưng Nihonmachi không công cuộc thống nhất đất nước, chính sách chỉ đóng vai trò tối quan trọng, vào đầu thế cấm đạo càng trở nên quyết liệt hơn; vì vậy kỷ XVII, mà còn gắn kết mạng lưới thương nhiều tín đồ Kitô đã rời bỏ đất mẹ đến các mại suốt những thập niên cuối của thế ky nước Đông Nam Á, trong đó có Ayutthaya. này và lan tỏa văn hóa Nhật Bản một cách Vào khoảng năm 1616, con số người nhập sâu rộng. Cho đến nay , nhiều giá trị vật thể, cư Nhật Bản đã tăng lên 300 đến 400 người phi vật thể vẫn tiếp tục được gìn giữ và bảo tập trung trong một khu định cư riêng tại tồn. Ayutthaya. Những nhân vật có ảnh hưởng Nihontnachi ở Ayutthaya (Thái Lan) nhất trong cộng đồng Nhật Bản ở đây là Do những biến động của tình hình trong Kiya Kyuzaemon, Tsuda Matazaemon và nước, nhiều cư dân Nhật Bản đã đến và trở đặc biệt là (1590-1630), thành những chiến binh chiến đấu để bảo vệ người nhận được nhiều đặc ân của vua Thái Ayutthaya. Khi chính sách Châu ấn thuyền và trở thành Tư lệnh cấm vệ quân cai quản được thực hiện, người Nhật ở Ayutthaya một đội quân lên đến 600 người. Họ hầu hểt được bổ sung thêm bởi số lượng lớn các là những thương gia trong thời bình và tuyển thương nhân. Khởi đầu từ cuổi thế kỷ XVI mộ tham chiến khi cần thiết trong các cuộc đầu thế kỷ XVII, Shogun Tokugawa leyasu chiến chống lại Miến Điện. Năm 1629, đội đã thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế; từ quân của Yamada được chuyển đến Ligor đây các thương gia Nhật Bản đã bắt đầu (miền Nam Thái Lan), không lâu sau đó, ông buôn bán với Ayutthaya một cách thường bị ám sát trong nội chiến, cả 2 khu định cư xuyên thông qua các kênh chính thức. Một của người Nhật bị phá hủy, cộng đồng người số thành viên trong các gia đình thương nhân Nhật phải dời sang Campuchia vào năm giàu có đã quyết định cư trú tại Ayutthaya để 1632. Một thời gian sau, họ được phép trở mở rộng phạm vi kinh doanh của gia đình lại Ayutthaya nhưng cho đến năm 1688, khi họ. Một số người khác là những nhà thám làn sóng chống đạo Kitô ở đây ngày càng lên hiểm đã nắm bắt cơ hội và tìm cách kiếm cao thì cùng với việc tàn sát các tín đồ, cộng tiền. Họ có vai trò rất quan trọng đối với sự đồng người Nhật cũng dần biến mất khỏi thành công của mạng lưới buôn bán giữa Thái Lan. Bên cạnh các chiến binh samurai Nhật Bản và Đông Nam Á lúc bấy giờ. và thương nhân, người Nhật ở Ayutthaya Những thương nhân này không chỉ được hỗ còn có một nhóm thứ ba gồm những người trợ bởi Mạc phủ Tokugawa, mà còn được làm công. Đó là những người làm việc cho người Ayutthaya tạo điều kiện trong sinh các thương nhân Châu ấn thuyền được cấp sống và buôn bán. Do đó, nhiều thương nhân phép, một số người Nhật khác được thuê bởi Nhật Bản cư trú tại Ayutthaya cũng tham gia các thương nhân châu Âu và Ayutthaya để vào các vấn đề chính trị và quân sự của địa làm phiên dịch viên và ở các vị trí khác nhau phương. liên quan đển thương mại. Một thương nhân

33 Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1 (239) 1-2021 người Hà Lan sẵn sàng thuê nhân công là kinh doanh, bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau khi người Nhật làm việc cho voc10 *để đóng gói gặp khó khăn; (ii) việc tổ chức Nihonmachi và chuẩn bị hàng hóa. Người phương Tây giúp Nhật kiều thuận tiện trong buôn bán với cho rằng, họ rất thông minh, chăm chỉ mặc nước ngoài (phố Nhật Bản ở Hội An là cảng dù chỉ được trả một mức lương khiêm tốn'1. mậu dịch “cận thị, cận giang” và Ayutthaya Nihonmachì ở Hội An (Việt Nant) (Thái Lan) cũng được xây dựng gần sông Trong quá trình mở rộng giao lưu và buôn lớn); và (iii) lý do thứ ba là để chính quyền bán ở Đông Nam Á và Việt Nam, để mở của chúa Nguyễn ở Đàng Trong dễ dàng rộng việc trao đổi hàng hóa, xây dựng cơ sở quản lý người Nhật cũng như người nước hậu cần, những thương nhân Nhật Bản đã ngoài nói chung. Do khác biệt về phong tục xây dựng cho những khu phố riêng của họ. tập quán, nên chính quyền của chúa Nguyễn Phố Nhật ở Việt Nam có tên laFaifo được cũng muốn tập trung người Nhật vào một nhắc tới trong sách Hàng hải ký của Adams khu vực để quản lý họ dễ dàng. Khu phổ vào năm 1617 và trong Tường trĩnh xứ Đàng Nhật ở Hội An là thương cảng mậu dịch lớn Trong của Ch. Borri vào năm 1618-1622. nhất Đàng Trong và Đông Nam Á, cách xa Các phố Nhật được bắt đầu xây dựng vào Thuận Hóa (Huế) hơn 100 km và phủ chúa khoảng giữa thời Keicho (Khánh Trường)12 dinh Chiêm khoảng 9-13 km14. và muộn nhất vào năm đầu thời Genna Trong quá trình tồn tại của cộng đồng (Nguyên Hòa)13 và phát triển rất nhanh người Nhật tại Hội An, đã xảy ra hỏa hoạn chóng vào những năm tiếp theo của mậu vào các năm 1633, 1634, rồi những biến dịch Châu ấn thuyền. Như vậy, phố Nhật ở động của tình hình chính trị, xã hội, đặc biệt Hội An được xây dựng sau phố Nhật ở là chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã làm cho Dilao, San Miguel (Philippines) và phố Nhật thay đổi. Năm 1642 số người Nhật Ayutthaya (Thái Lan). Theo nhà nghiên cứu sinh sống ở Hội An được ghi nhận là 40-50 Trịnh Tiến Thuận, phố Nhật Bản được xây người, 10 năm sau có khoảng 60-90 người dựng ở Hội An xuất phát từ 3 lý do: (i) tạo Nhật ở Hội An và họ thường xuyên qua lại nên tâm lý yên tâm, sự thuận tiện trong sinh Manila và Ayutthaya buôn bán, đến năm hoạt và hợp tác với nhau trong hoạt động 1695, chỉ còn lại 4-5 gia đình người Nhật ở Faifo, phố Nhật được thay thế bởi phố người Hoa tại đây15. Cuối thế kỷ XVII có thể là 10 Vereenigde Oost-Indische Compagnie (Công ty Đông thời điểm đánh dấu sự tồn tại của Án Hà Lan). " Merchants and Workers in the Nihonmachi, the Nihonmachi ở Đàng Trong. Japanese settlement in Ayutthaya (2012), http://www.simandan.com/merchants-and-workers-in-the- nihonmachi-the-japanese-settlement-in-ayutthaya/, 14 Trịnh Tiến Thuận, Hội An - Một trung tâm ngoại Resources: “Samurai of Ayutthaya - The Historical Land thương Việt - Nhạt thế kỷ XVII, http://www. scapeof Early 17lh Century and Siam: Yamada dinhtranthanhchiem.quangnam.vn/2013/08/hoi-mot-trung- Nagamasa and the Way to Ayutthaya” by Cesare tam-ngoai-thuong-viet.html. Polenghi (p. 26-35). 15 Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với 12 Niên hiệu Nhật Bàn giai đoạn 1596-1615. Đông Nam Ả thể kỳ XV - AL/ẠNxb Đại học Quốc gia, Hà 13 Niên hiệu Nhật Bản giai đoạn 1615-1624. Nội, tr. 149.

34 Trần Thị Tâm

2. Vai trò của các Nihonmachi đối vói đã có quan hệ với 18 quốc gia và khu vực, hoạt động giao thương giữa Nhật Bản với lãnh thổ nhưng chủ yểu là các quốc gia Thái Lan và Việt Nam cuối thế kỷ XVI Đông Nam Á, trong đó địa bàn quan trọng đầu thế kỷ XVII nhất là Việt Nam, Thái Lan, Philippines và Có thể nói, trong khuynh hướng quan hệ Campuchia. Đây cũng chính là địa bàn ra quốc tế ngày càng trở nên rộng mở, ở các đời nhiều Nihonmachi nhất. Mạc phủ không thương cảng Đông Nam Á xuất hiện ngày chỉ cấp dấu Châu ấn cho các thương nhân càng nhiều nhóm cư dân ngoại quốc đến sinh Nhật Bản mà còn lưu hành cho cả một số sống và buôn bán. Những người Nhật đã đến thương gia ngoại quốc, trong đó có cả người đây từ các thế kỷ trước đã đặt nền tảng cho phương Tây. Thông qua mối giao lưu kinh các thương nhân Châu ấn thuyền xây dựng tế, văn hóa suốt nửa thế kỷ này, Nhật Bản đã mối liên hệ với các quốc gia sở tại. Tuy để lại dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều nhiên, điều này chưa thể dẫn đến việc hình dân tộc Đông Nam Á. Chính sách Châu ấn thành các Nihonmachi. Đến cuối thế kỷ XVI thuyền từ năm 1592 là điều kiện trực tiếp đầu thế kỷ XVII, cùng với việc hoàn tất công cho việc hình thành các Nihonmachi. Khi cuộc thống nhất đất nước, chính quyền các thuyền buôn Nhật Bản đến các thương Toyotomi Hideyoshi đã nhận thức rất rõ vai cảng ở Việt Nam và Thái Lan để buôn bán, trò của hoạt động ngoại thương đối với sự nhiều gia đình đã ở lại định cư, kểt nối với phát triển kinh tế, đồng thời nhằm giải quyết những người Nhật đã ở đây từ trước, lưu trú những trở ngại trong buôn bán với Trung lâu dài để thu gom hàng hóa giữa hai mùa Hoa và phá vỡ thế độc quyền trong giao mậu dịch. Do quy mô buôn bán ngày càng thương với Tây phương; cùng với các hành lớn, nhu cầu về lượng hàng trao đổi nhiều động kiên quyết loại trừ hải tặc, từ năm nhưng một số nông, lâm, thổ sản địa phương 1580, chính quyền Toyotomi đã duy trì chủ ngày càng khan hiếm nên việc lưu trú trương phái các đoàn thương thuyền chở thường xuyên của nhiều thương nhân ở theo một lượng bạc lớn đến buôn bán trực Nihonmachi là để thuận lợi cho công việc tiếp ở nhiều nước Đông Nam Á. Đến năm buôn bán, thu gom hàng hóa, sản vật từ các 1592, chính sách Châu ấn thuyền đã chính nước trong khu vực, tập họp các mặt hàng thức ra đời với sự kiện Tướng quân mua được từ Hoa kiều và phân phối hàng Toyotomi Hydeyoshi cấp 9 giấy phép cho Nhật đến các chủ tiệm nhỏ16. Ở phương diện các thuyền buôn Nhật Bản đi giao dịch ở này, Nihonmachi giữ vai trò là các cơ sở Đông Nam Á. buôn bán, trạm trung chuyển của các thương Ke từ năm 1600-1637, sau khi Mạc phủ nhân Nhật Bản tại Đông Nam Á. Đây chính Edo được thiết lập, chính quyền Tokugawa là lý do hầu hết tất cả các Nihonmachi đều vẫn tiếp tục thi hành chính sách đối ngoại được thiết lập tại trung tâm các thương cảng, tích cực, duy trì và mở rộng che độ cấp giấy giao lộ của các tuyến đường thủy theo tiêu phép cho các thương nhân ra nước ngoài buôn bán. Trong suốt thời kỳ này, Nhật Bản 16 Nguyễn Văn Kim (2003), Tlđd, tr.125.

35 Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1 (239) 1-2021 chí “nhất cận thị, nhị cận giang”... Ayutthaya trong việc thắt chặt quan hệ với chính quyền và Hội An đều là các khu vực gần cửa sông, ở Thái Lan và Việt Nam lúc bấy giờ để việc rất thuận tiện để thu gom và tập hợp hàng buôn bán, thông thương, trao đổi hàng hóa hóa. Chẳng hạn, với trường hợp Hội An, giữa hai bên được diễn ra thuận lợi. chức năng quan trọng nhất của Nihonmachi Trong quá trình buôn bán tại Đông Nam ở đây là khai thác nguồn hàng hóa từ Trung Á, cộng đồng người Nhật luôn phải giao Quốc (chủ yếu là các loại tơ lụa có giá trị) thiệp và cạnh tranh quyết liệt với các thương nhằm chống lại lệnh cấm của nhà Minh về nhân phương Tây như Tây Ban Nha, Hà thương mại của Trung Quốc với Nhật Bản. Lan, đặc biệt là cộng đồng người Hoa tại Hội An là một thương cảng năng động giữ khu vực. Mặc dù không tránh khỏi những vai trò thương mại trung chuyển giúp Nhật căng thẳng về thương mại, thậm chí là Bản có thể giải quyết nhu cầu khan hiểm những xung đột bằng quân sự nhưng với đặc hàng hóa từ Trung Quốc, lại là một trong tính nhẫn nại, kiên trì và khéo léo, những cư những điểm đến gần nhất mà không chịu sự dân Nhật Bản tại Ayutthaya, Faifo... luôn đặt kiểm soát của người châu Ầu, không giống hiệu quả kinh tế lên trên hết để hành xử cho như Macao và Manila17. phù họp. Nhắc đến cộng đồng người Nhật ở Để đảm bảo hoạt động của các thương Thái không thể không nhấc đến Yamada nhân, Mạc phủ Tokugawa cũng như giới Nagamasa (1590-1630). Ông không chỉ có lãnh đạo trong cộng đồng người Nhật ở Thái tài năng quân sự mà còn là người điều hành Lan luôn chủ trương phải thắt chặt hơn nữa toàn bộ mạng lưới kinh tế thương mại của quan hệ với chính quyền nước sở tại. Cụ thê, Nhật Bản ở Ayuttaya. Yamada là cổ đông năm 1609, Sumihiro là một thương gia Nhật của nhiều gia tộc có quan hệ thương mại với Bản ở Ayutthaya đã gửi thư về nước cho vương quốc này. Năm 1624, chính ông đã Kanai Korinori, lãnh chúa vùng Inaba, Nhật trực tiếp cử nhiều thuyền chở da hươu về Bản và thông báo rằng ông đã đem theo một Nhật Bản. Bằng những hành động đó thương số tặng phẩm của Inaba như sắt và súng tặng nhân Nhật bắt đầu thâm nhập vào phạm vi cho một quý tộc người Thái nhằm tranh thủ quyền lợi của Hà Lan và một số nước khác thiện cảm của họ trong quan hệ thương mại nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh nào giới và để có thể mua về thuyền buôn của nước doanh thương Nhật Bản vẫn cố gắng duy trì này. Chính Sumihiro sau này được coi là thủ sự hòa hiếu, không để cho những mâu thuẫn lĩnh của cộng đồng người Nhật trên đất về lợi ích kinh tế trở nên đến mức đổi lập. Thái18. Trường họp điển hình này cho thấy Do vậy, mặc dù có những bất đồng nhưng cộng đồng người Nhật ở nói chung và các cộng đồng người Nhật vẫn có khả năng giao Nihonmachi nói riêng đã giữ vai trò cầu nối thiệp và họp tác với thương gia các nước. Trên thực tế, trong quan hệ thương mại với 17 Travis Seifman (2007), Seals of Red and Letters of Thái Lan, có những năm thuyền buôn của Gold. Japanese Relations with in the 17th Century, https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/ Nhật thương xuất phát từ Ayutthaya đã bán 10125/18229. hết hàng hóa ở Nhật Bản nhưng vẫn chưa thể 18 Nguyễn Văn Kim (2003), Tldd, tr. 132.

36 Trần Thị Tâm

trở về đúng hạn mà phải chờ lấy hàng. Trong Nihonmachi luôn giữ vai trò quan trọng những trường hợp đó, Yamada và một số trong hoạt động ngoại giao giữa Nhật Bản thương nhân Nhật Bản trong cộng đồng với các nước Đông Nam Á. Mối quan hệ thường nhờ tàu buôn của Hà Lan kết hợp giữa cộng đồng với hoạt động ngoại giao và chở hàng về Nhật Bản. Ngoài việc tổ chức buôn bán tỏ ra tương hỗ mật thiết, nếu hoạt các đoàn thuyền buôn đưa hàng về Nhật động ngoại giao có vấn đề tất yếu sẽ dẫn đến Bản, Yamada cũng cử nhiều thương thuyền việc giao thương gặp cản trở. Tháng đến các nước Đông Nam Á để buôn bán, thu 10/1630, vua (1600-1656) đã gom hàng hóa. Tàu của ông được tự do đến cho đốt cháy Nihonmachi ở Ayutthaya và ra buôn bán ở và Batavia năm 1628. lệnh giết và xua đuổi người Nhật ra khỏi đất Các tàu trở về với thư và quà cho Nagamasa Thái vì nghi ngờ Yamada và cộng đồng do đích thân toàn quyền voc Jan người Nhật có liên quan đến sự bất ổn chính Pieterszoon Coen (1587-1629) gửi19. Một trị của nước này. Trước những diễn biển trường họp khác là nhân vật Chu Thuấn chính trị ở Ayutthaya, năm 1632, Nhật kiều Thủy (1600-1682), vào năm 1657, trước khi ở đây đã bị tàn sát và trục xuất ra khỏi bị triệu kiến đi gặp chúa Nguyễn Phúc vương quốc. Tiếp đó, năm 1633, Nguyên (1563-1635), ông đã úy thác toàn bộ Nihonmachi tại Ayutthaya bị cháy. Ngoài gia sản cho những người thân tín, ngạc nhiên những thiệt hại về nhà cửa, vụ cháy đã thiêu là, tất cả những người đó đều là người Nhật. trụi 7.000 tấn da hươu, 2.000 tấm da cá sấu Điều này cho thấy, trong quá trình làm ăn, và nhiều tài sản có giá trị khác. Đây là một sinh sống ở Đại Việt, cộng đồng người Nhật tổn thất lớn trong hoạt động thương mại của đã giành được sự tin cậy không chỉ của cộng đồng người Nhật trên đất Thái, đồng chính quyền và thương nhân bản địa mà cả thời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt nhiều thương gia, giáo sĩ và nhân sĩ ngoại động kinh tế đối ngoại của vương quốc này. kiều20. Cộng đồng người Nhật ở Ayutthaya, Khi những tin tức từ Ligor và Ayutthaya đến Đại Việt nói riêng và ở Đông Nam Á nói Edo, Tokugawa lemisu (1604-1651) ngay chung không chỉ giữ vai trò cầu nối với lập tức đã ra lệnh cắt đứt mối quan hệ ngoại chính quyền sở tại như đã đề cập trên đây, giao và thương mại với Ayutthaya21. Theo J. mà còn thực hiện việc buôn bán và giao hảo Schouten thì: “Nền kinh tế của Siam đã bị với thương nhân phương Tây và Hoa thương suy sụp cùng với sự tàn lụi của khu định cư trong quá trình vận chuyển, thu gom hàng của người Nhật vào năm 1633”22. Như vậy, hóa. các Nihonmachi trở thành nhân tố gắn kết Trong quá trình tồn tại của mình, từ đầu mối quan hệ giao thương giữa Nhật Bản với thế kỷ XVII cho đến những năm 1640, các Thái Lan, Việt Nam, là cơ sở để đẩy mạnh hoạt động buôn bán, đảm bảo cho ngoại giao

19 Cesare Polenghi (2004), “The Japanese in Ayutthayah in the First half of the 17th Century”, https://www. 21 Cesare Polenghi (2004), Tlđd, https://www.samurai- samurai-archives.com/jia.html. archives.com/jia.html. 20 Nguyễn Văn Kim (2003), Tlđd, tr. 148. 22 Dan theo Nguyễn Văn Kim (2003), Tlđd, tr. 139.

37 Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1 (239) 1-2021 và thương mại. Trường hợp dị biệt ở Thái Bản còn lại vốn am hiểu thị trường trở thành Lan là ngoại giao - thương mại và quân sự. thông dịch viên, đầu mối đổi tiền hoặc cố Đến năm 1632, Prasat Thong vì muốn vấn thương mại cho thương nhân ngoại thiết lập lại nền thương mại có lợi với Nhật quốc. Họ giám sát những người lao động, Bản, đã mời những người Nhật đã chạy thoát phân loại, trông coi và đóng gói hàng hóa. sang Campuchia trở lại Ayutthaya. Theo đó, Nhiều người Nhật còn tham gia môi giới vào năm 1637, có ít nhất 300 người Nhật đã kinh doanh và bán các mặt hàng như thiếc, quay trở lại Thái Lan. Mặc dù vậy, cộng chì, gạo... Một số thương nhân khác làm đại lý cho Hà Lan và Trung Quốc với chính đồng người Nhật ở Ayutthaya không bao giờ có thể quay lại quy mô, sự giàu có và quyền quyền địa phương. Ví dụ, ở Hội An những năm cuối thập niên 1630, người đứng đầu lực như những năm 1620. Prasat Thong còn phố Nhật là Hirayona Rokubee, nắm quyền gửi ít nhất 6 viên công sứ đến Nhật Bản điều hành cảng và làm đại lý cho Hà Lan. nhưng tất cả đều bị Mạc phủ từ chối tiếp Cư dân phố Nhật còn tham gia vào việc đầu kiến. Có thể nói rằng, nếu không có sự thái tư và ký gửi hàng hóa xuất khấu cho các tàu quá của Prasat Thong, Ayutthaya rất có thể của Hà Lan và Trung Quốc cũng như tham đã trở thành chủ thể duy nhất ở Đông Nam gia vận chuyển hàng hóa trong khu vực Á được quyền buôn bán trực tiếp với Nhật Đông Á. Vào năm 1633 và năm 1663, số Bản trong thời kỳ (1639-1654) như lượng chuyến đi được thực hiện bởi tàu của trường họp của Hà Lan và Trung Quốc23... người Nhật từ Ayutthaya đến các cảng khác Thời điểm Mạc phủ Tokugawa chính thức của Đông Nam Á được báo cáo khoảng 20 ban hành chính sách Tỏa quốc chiếc. Những con tàu này đến Luzon, Đài (Sakoku/1633-1639), cấm thuyền buôn xuất Loan, Manila và Campuchia24. Nhờ những ngoại đồng thời không cho phép người Nhật hoạt động này mà tiềm lực kinh tể của khối ở nước ngoài trở về, chấm dứt chính sách Nhật kiều vẫn tương đối mạnh và giữ được Châu ấn thuyền cũng là thời điểm suy giảm vai trò nhất định trong hoạt động thương các thuyền buôn đến buôn bán ở Đông Nam mại. Năm 1640, để chuẩn bị tài chính cho Á. Năm 1635, sổ thuyền buôn đến khu vực việc xây dựng chùa Non Nước, trong sô này chỉ còn 2 chiếc và hai năm sau thì chấm những người tham gia công đức có tên của dứt. Điều này đồng nghĩa với sự suy yếu của 10 người Nhật. Lượng tiền mà họ đóng góp cộng đồng người Nhật tại Việt Nam và Thái chiếm tới 57,2% và số bạc cũng chiếm đến Lan và ngắt quãng hoạt động buôn bán trực 71,4% tổng lượng bạc quyên được để xây tiếp giữa Nhật Bản với hai quốc gia này. dựng chùa25. Bước sang nửa cuối thế kỷ XVII, khi hoạt động buôn bán giữa hai bên chuyển sang giai 24 Lê Thị Mai (2011), “Nihonmạchi ở Ayutthaya và Hội đoạn gián tiếp thông qua các thương nhân An vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỳ XVII - Một nghiên cứu so sánh”, Kỷ yếu Hội thảo quổc tế “Nhật Bản và các Hà Lan và Trung Quốc, những cư dân Nhật nước tiếu vùng sông Mekong. Moi quan hệ lịch sử", Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 149. 25 Vũ Minh Giang (1991), Người Nhật, phổ Nhật và di 23 Cesare Polenghi (2004), Tlđd, https://www.samurai- tích Nhật Bản ớ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. archives.com/j ia.htm 1. 209.

38 Trần Thị Tâm

Cộng đồng người Nhật ở Ayutthaya với Quốc và cư dân bản xứ chuẩn bị sẵn sàng vai trò lớn của Yamada nhờ mối quan hệ gần hàng hóa cho các tàu buôn Nhật Bản. Họ gũi của với nhà vua đã giúp ông và người cũng chính là lực lượng vận chuyển và bán Nhật thắng the trong hoạt động thương mại hàng cho cư dân bản xứ hoặc thương nhân trên đất Thái. Chức năng thương mại quan các nước hàng hóa mà Châu ấn thuyền mang trọng nhất của người Nhật lúc bấy giờ là đến. Theo gió mùa, cứ mỗi khi tàu buôn nắm được độc quyền kiểm soát da hươu của Trung Quốc và Nhật Bản dong buồm đến thị trường khu vực để nhập về Nhật Bản. cảng thì một thị trường sôi động được tổ Người Hà Lan, trên thực tế, đã buộc phải để chức để trao đổi hàng hóa. Nhu cầu của Nhật cho người Nhật độc quyền mặt hàng này trên Bản về mặt hàng tơ lụa quá lớn đến nỗi việc lộ trình thương mại đến và phải đến và đi của các thuyền Châu ấn đã chi dựa vào họ như những người môi giới. Khi phối lớn giá cả thị trường ở đây. Mặt khác, số binh lính người Nhật từng phục vụ cho việc buôn bán tiền đồng và bạc cùng các mặt người Thái hoàn thành nhiệm vụ quân sự, họ hàng nói trên, thương nhân Nhật có thể điều cũng tham gia vào công việc buôn bán da khiển được tỉ giá tiền tệ ở Hội An, lũng đoạn hươu này. Một người Nhật tên là lyota thị trường, cạnh tranh buôn bán với các nước Taemon, có quan hệ mật thiết với các khác. Ngoài ra, tại Hội An, chúa Nguyễn còn thương lái Nagasaki, giữ một vị trí lớn trong tin tưởng giao cho người đứng đầu thu mua và môi giới kinh doanh da hươu, da Nihonmachi phụ trách các công việc thương cá mập và gỗ nhuộm vải đã trở thành người mại ở cảng như: cảng vụ, thuế vụ và chịu đứng đầu phố Nhật26. trách nhiệm về mọi hoạt động trong khu phố. Một trong những mục tiêu quan trọng của Vì vậy, người đứng đầu phố Nhật luôn có vị chính sách Châu ấn thuyền là tiếp cận và thu trí đặc biệt và là thể lực tương đối mạnh mua được hàng hóa của Trung Quốc, trong trong đời sống kinh tế xã hội của đô thị này. thời điểm nước này đang ngăn trở việc buôn Một số người Nhật khác cũng được chúa bán với Nhật Bản. Điều này được thể hiện rõ Nguyễn tin dùng vào các công việc như nét trong vai trò của Nihonmachi ở Đàng phiên dịch và cố vấn thương mại. Họ cũng*là Trong. Thương nhân Nhật Bản với các dòng người đại diện chúa Nguyễn giao thiệp với họ nổi tiếng như: Suminokura, Chaya, các thương nhân nước ngoài đến cảng27. Vai Sueyoshi, Funamoto, Kiya, Araki, Hirano, trò của cộng đồng người Nhật đối với nền Hashimato khi den Hội An mang theo chủ ngoại thương ở Hội An lớn đến mức khi yếu là bạc, đồng, tiền đồng, vũ khí để đổi lấy người Hà Lan đến đây vào năm 1633, họ đã tơ lụa. Cư dân phố Nhật làm nhiệm vụ thu nhanh chóng nhận ra ràng, “các thương nhân mua hàng hóa từ các thương nhân Trung

27 Lê Thị Mai (2011), “Nihonmạchi ở Ayutthaya và Hội 26 Wray, William (2002), "The 17th Century Japanese An vào cuối thế kỳ XVI đầu thế kỷ XVII - Một nghiên Diaspora: Questions of Boundary and Policy", Thirteenth cứu so sánh”, Kỳ yếu Hội thảo Quốc tế “Nhật Bản và các International Economic History Congress, Buenos Aires nước tiếu vùng sông Mekong. Moi quan hệ lịch sử”, Đại 2002, Preconference: Corfu, Greece. học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Tr. 146-147.

39 Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1 (239) 1-2021

Nhật Bản đã thống trị nền kinh tế địa 3. Lê Thị Mai (2011), “Nihonmachi Ở phương”28. Ayutthaya và Hội An vào cuối thế kỷ XVI đầu Thông qua sự tồn tại và hoạt động của thế kỷ XVII - Một nghiên cứu so sánh”, Kỷ yếu mình, các Nihonmachi đã góp phần vào sự Hội thảo quốc tế “Nhật Bản và các nước tiểu thành công của chính sách Châu ấn thuyền vùng sông Mekong. Moi quan hệ lịch sử”, Đại khi mở rộng buôn bán xuống khu vực Đông học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nam Á. Nihonmachi trở thành nhân tố 4. “Merchants and Workers in the không thể thiếu của nền ngoại thương trung Nihonmachi, the Japanese settlement in chuyển trong việc tiếp cận với hàng hóa của Ayutthaya” (2012), http://www. Trung Quốc và tăng cường khả năng cạnh simandan.com/merchants-and-workers-in-the- trạnh với các thương nhân phương Tây như nihonmachi-the-japanese-settlement-in- Hà Lan, Tây Ban Nha... Nếu không có Châu ayutthaya/, Resources: “Samurai of Ayutthaya - ấn thuyền sẽ không có Nihonmachi, do vậy The Historical Landscape of Early 17th Century sự suy tàn của hoạt động mậu dịch trực tiếp, Japan and Siam: Yamada Nagamasa and the chủ động giữa Nhật Bản và Đông Nam Á từ Way to Ayutthaya” by Cesare Polenghi (p. 26- 1641 trở đi cũng đánh dấu sự suy tàn của hệ 35). thống Nihonmachi. Như vậy, Nihonmachi ra 5. Cesare Polenghi (2004), “The Japanese in đời vì mục đích thương mại và suy tàn cũng Ayutthayah in the First half of the 17th bởi lý do thương mại. Do đó, Nihonmachi có Century”, https://www.samurai-archives.com/ vai trò quyết định đổi với hoạt động mậu jia.html. dịch trực tiếp giữa Nhật Bản với Thái Lan và 6. Madalena Riberco (2001), The Japamese Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XVII và là Diaspora in the Seventeenth Century (According cầu nối đổi với hoạt động mậu dịch gián tiếp to Jesuit Sources), New University of Lisbon. giai đoạn cuối thế kỷ XVII. 7. Travis Seifman (2007), “Seals of Red and Letters of Gold. Japanese Relations with TÀI LIỆU THAM KHẢO Southeast Asia in the 17th Century”, https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/ 1. Vũ Minh Giang (1991), Người Nhật, phổ handle/10125/18229. Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An, Nxb Khoa 8. Trịnh Tiến Thuận, “Hội An - Một trung học xã hội, Hà Nội. tâm ngoại thương Việt - Nhật thế kỷ XVII”, 2. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của http: //www. dinhtranthanhchiem. quangnam. vn/2 Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV - XVII, 013/08/hoi-mot-trung-tam-ngoai-thuong- Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. viet.html. 9. Wray, William (2002), "The 17th Century Japanese Diaspora: Questions of Boundary and Policy", Thirteenth International Economic 28 Travis Seifman (2007), Seals of Red and Letters of Gold. Japanese Relations with Southeast Asia in the 17th History Congress, Buenos Aires 2002, Century, https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/ Preconference: Corfu, Greece. 10125/18229.

40