(Madonna Garvagh) Raphael Sanzio
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ALDOBRANDINI MADONNA (MADONNA GARVAGH) RAPHAEL SANZIO Nguyễn Thanh Tùng Khoa Sư phạm Mỹ thuật Trường Đại học Nghệ thuật - Đại học Huế Aldobrandini Madonna (1509–1510) - Raphael Dầu trên bảng gỗ 38,9 cm x 32,9 cm Phòng trưng bày Quốc gia , Luân Đôn [Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/] Danh họa Raphael, tên đầy đủ là Raffaello Sanzio da Urbino (6 tháng 4 hoặc 28 tháng 3 năm 1483 – 6 tháng 4 năm 1520) là họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý. Raphael, Michelangelo và Leonardo da Vinci được xem là ba người "khổng lồ" của mỹ thuật Phục hưng Italia. Raphael đã làm nên một phong cách hội hoạ và một nhân cách có sức hấp dẫn lạ thường, không ngừng làm kinh ngạc và say mê những người yêu chuộng mỹ thuật trên khắp thế giới, Raphael mất vào năm 1920 ở tuổi 37 trong vinh quang tuyệt 1 đỉnh và sự nuối tiếc vô hạn của bạn bè và những người yêu thích nghệ thuật. Raphael đã để lại hơn 250 tác phẩm, mà hầu hết, đều được xếp vào hàng tuyệt tác. Raphael sinh tại Urbino, trong thời gian học tập ở Urbino và Peruga, Raphael từng là học trò của danh hoạ Pietro Perugino (1450 – 1523). Thời kỳ mở đầu này, Raphael đã vẽ các tác phẩm như: Thánh Niccolo (Saint Niccolo da Tolantino Altarpiece, 1501- Bảo tàng Capodimonte, Naples); Jesus chịu đóng đinh trên thánh giá (The Crucifixion, 1502- Phòng tranh quốc gia London); Trao vương miện trinh nữ (Coronation of the Virgin, 1503 -Vatican); Lễ cưới trinh nữ (Marriage of the Virgin 1504 - Phòng tranh Brera, Milan).... Năm 1504 Raphael tới Florence, Ông đã gặp Leonardo da Vinci và Michelangelo đang làm việc ở đây. Raphael đã học tập những nghệ sĩ tài ba đã nổi tiếng này và sáng tạo nên những tác phẩm của riêng mình. Trong khoảng thời gian 4 năm ở Florence, Raphael vẽ rất nhiều tranh, trong đó có những bức nổi tiếng như: Đức Bà và hài Đồng lên ngôi với 5 thánh (the Madona and Child enthroned with 5 Saints, 1505- Bảo tàng Metropolitan, New York); Thánh Micheal và con rồng (Saint Micheal and dragon, 1505.- Bảo tàng Louvre, Paris); Chân dung Angelo Doni (Portrait of Angelo Doni, 1506 - Phòng tranh Pitti, Florence); Hạ huyệt (The entombment, 1507 - Phòng tranh Borghese, Roma)... Năm 1508, Raphael được Giáo hoàng Julius II mời tới làm việc tại Roma. Chính ở đây, ông đã có nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới như: Tranh luận về lễ ban phước (Dispute 1509 – 1510, Vatican, Roma); Trường Athenes (The School of Athènes, 1510 – 1511, Vatican, Roma)... Ông đã vẽ hàng loạt tranh tôn giáo rất đẹp như: Đức mẹ Alba (the Alba Madonna, 1511- Phòng tranh quốc gia Washington), đặc biệt nhất là bức Đức mẹ Sixtine (The Sistine Madonna, 1512 – 1513 - Bảo tàng Dresden)... Chỉ sau 5 năm tới làm việc tại Roma, khi Giáo hoàng Julius II mất (1513) danh tiếng Raphael đã vang dội. Tài năng và sự uyên bác của ông đã ảnh hưởng to lớn tới giới hoạ sĩ trẻ ở Italia thời bấy giờ. Tiếp theo 7 năm cuối đời của ông, Raphael đã làm việc dưới thời Giáo hoàng Leon X, mặc dù phải đảm đương nhiều trọng trách, giám sát các công trình ở Vatican, ông vẫn lãnh đạo và tập hợp được đông đảo các nghệ sĩ tài năng, trong đó có Jiulio Romano và Giovan Francesco Penni... Với hội họa Raphael tiếp tục sáng tạo nhiều 2 tác phẩm đẹp và hoành tráng như: Bà Velata (La Donna Valata, 1514 - Phòng tranh Pitti, Florence), Đức mẹ ngồi ghế (the Madonna of the chair, 1515 - Phòng tranh Pitti, Florence), Đám cháy ở Borgo (The fire in the Brogo, 1515 - Vatican), Mẻ lưới kì diệu (The miraculous draught of fishes, 1515 - Bảo tàng Victoria và Albert, London)…. “Aldobrandini Madonna” hay “Madonna Gavagh” là tác phẩm được Raphael vẽ từ khoảng 1509-1510, ban đầu bức tranh được sở hữu bởi gia đình Aldobrandini, sau đó là gia đình Garvagh, năm 1865 chuyển đến phòng trưng bày quốc gia Luân Đôn. Đây là một trong nhiều tác phẩm của Raphael thực hiện cùng chủ đề trong kinh thánh với 3 hình tượng: Đức mẹ Maria, Chúa Giêsu Christ và John the Baptist (em họ của Giêsu Christ). Có thể kể ra như: Ansidei Madonna, 1505; Labelle jardinière,1507; Alba Madonna, 1511; Madonna Litta, 1490; Madonna della tenda, 1514; "Madonna of the Goldfinch", 1506... Madonna of the Goldfinch, 1506 - Raphael La belle jardinière, 1507 - Raphael 3 Đề tài về Madonna1 luôn được các nghệ sĩ thời Phục hưng như sĩ Leonardo DaVinci, Tiziano Vecellio (Titian)... khai thác và thể hiện. Các tác phẩm này đều được xem là những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật Phục Hưng Madonna Litta 1490 The Madonna And Child 4 Leonardo Da Vinci Tiziano Vecellio (Titian) “Aldobrandini Madonna” mô tả Đức mẹ Maria như là phần chính của tác phẩm, với 02 nhân vật trẻ em: Chúa Giêsu Christ và John the Baptist. Hình ảnh Đức Mẹ Maria khuôn mặt hiền từ như một biểu tượng thẩm mỹ về người mẹ với các phẩm chất : cao cả, bao dung, thánh thiện, hy sinh... mối quan hệ thân thiết giữa Christ và John the Baptist được biểu đạt bằng một cử chỉ ngọt ngào, trao tay đóa hoa cẩm chướng như muốn thể hiện sự ái mộ và lòng tôn kính. Bố cục được cấu trúc bằng một tam giác cân vững trãi, đáy sát dưới mặt tranh, đỉnh ở phía trên vầng hào quang của Đức mẹ. Tác phẩm bố trí đối xứng (đăng đối) qua trục dọc của tranh, Đức mẹ chiếm diện tích lớn ở trung tâm, phía sau hai bên là 02 cửa sổ hình vòng cung, phía trên bên tay phải của Đức mẹ là Chúa Giêsu Christ và phía dưới bên trái là John the Baptist. Tổng thể bố cục là sự cân bằng đến mức hoàn hảo, có thể nói đây là dạng bố cục hàn lâm, kinh điển thường thấy ở các đề tài tôn giáo thời Phục Hưng. 1 Từ Madonna xuất phát từ cổ ngữ Ý ma donna (nghĩa là: Mẹ của tôi). Trong khi Maria có thể được gọi là "Madonna" trong một ngữ cảnh khác, trong nghệ thuật từ Madonna được sử dụng đặc biệt để chỉ một tác phẩm nghệ thuật mà Đức mẹ Maria là trung tâm, có hoặc không có con trẻ 4 Bức tranh vẽ trong không gian một căn phòng, phía sau 02 vòm cửa sổ là bầu trời xa xanh thẳm với những kiến trúc thời La Mã. Trong phòng, không khí ấm áp, thân mật và dịu dàng. Tại khu vực trung tâm, trụ cột chính giữa tối sẫm khiến cho khuôn mặt của Đức mẹ bừng sáng. Đức mẹ ngồi dịu dàng trên một chiếc ghế dài, mắt trìu mến nhìn xuống John the Baptist. Tay phải đỡ phía sau Giêsu Christ, bàn tay đang nắm vạt áo choàng. Chúa Giêsu Christ ngồi tự nhiên trong lòng của Đức mẹ, ánh mắt nhìn thân thiết, tay nhận lấy đóa hoa cẩm chướng từ John the Baptist đang trong chiếc áo khoác lông thú, một tay cầm thánh giá.... Hình ảnh các nhân vật và động thái của họ được đặt ở các vị trí nhấn mạnh, tạo sức thu hút thị giác lớn với người xem. Bức tranh có màu sắc xanh mát làm chủ đạo. Các sắc xanh lam, xanh lục, ngọc bích được sử dụng trên nền không gian, bầu trời, thảm cỏ, lẫn vào sắc đậm của trụ cột trong phòng, ánh lên trên khăn choàng đầu của Đức mẹ rồi đột ngột trở nên mạnh mẽ, tươi sáng 5 với những chuyển động hết sức tinh tế trên áo choàng, sự tương phản của màu xanh với màu đỏ khiến người xem có cảm giác trang phục của Đức mẹ được phủ một lớp men sáng óng ánh. Chiếc áo đỏ của Đức Maria như là biểu tượng cho tình yêu và sự hy sinh lớn lao của Mẹ, nhấn mạnh đến vẻ đẹp và sự thiêng liêng của tình yêu. Khi kết hợp với màu xanh, nó như tượng trưng cho phẩm giá cao cả của Mẹ ân sủng nâng tình yêu con người lên và hướng dẫn tình yêu ấy đến việc thánh hóa con người. Màu sắc trên 02 trẻ được miêu tả tinh tế, màu da sáng trắng, ánh hồng của Christ chuyển đậm màu hơn đến sắc cam, nâu hồng trên thân thể của John the Baptist, cảm giác da thịt mịn màng của trẻ thơ như chứa đầy sức sống bên trong. Sự tương phản nóng lạnh và tương phản về chất - chất vải của y phục Đức mẹ - chất da thịt của John the Baptist và Christ, khiến hình ảnh của họ.trở nên hết sức biểu cảm, mềm mại và thuần khiết. Ánh sáng chiếu từ phía trên, bên trái, ngập tràn ở tiền cảnh và chuyển động ngoạn mục trên các nhân vật. Từ khăn quàng đầu, khuôn mặt Đức me, bóng đậm ở phần cổ với một ít phản quang, các nếp gấp tinh tế trên y phục... Ánh sáng mạnh trên thân thể của Giêsu Chris tràn xuống phần trên của John the Baptist, hắt lên trên ghế ngồi...Cùng với sự chuyển động của những màu đậm, từ trụ cột giữa, xuống vách tường ngang, chuyển xuống góc dưới bên phải, nơi chiếc ao khoác da thú của John the Baptist và hòa vào không gian, tạo được độ sâu lắng của từng lớp không gian..