Lược Giải Nhị Thời Khóa Tụng
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
LƯỢC GIẢI NHỊ THỜI KHÓA TỤNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM hhgg Biên dịch: TT. THÍCH TRÍ HẢI 略解二時課誦 NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO 略解二時課誦 MỤC LỤC Lời Nói Đầu. ................................................... 09 Tổng Luận. ...................................................... 11 Triêu Thời Khóa Tụng - Hán. ........................... 35 Thời Khóa Công Phu Khuya - Âm. ................... 57 Lược giải Công Phu Khuya...................... 81 Phụ Chú Kệ Hô Thiền . .......................... 131 Phần Chú Thích. ................................... 133 Vãn Thời Khóa Tụng - Hán. ........................... 171 Thời Khóa Công Phu Chiều - Âm. .................. 195 Yếu giải Công Phu Chiều. ...................... 221 Chú Thích Hán Văn . ............................. 245 Lược giải Kinh A Di Đà......................... 251 Lược giải Hồng Danh Bảo Sám............. 337 Lược giải Mông Sơn Thí Thực.............. 391 Thư Mục Tham Khảo. ................................... 439 LỜI NÓI ĐẦU ------ ------ Phật pháp từ Nhất Hoa Hiện Thoại, được chư Tổ sư kế thừa truyền giáo, đặc thù mang tính khế lý, khế cơ, khế thời, khế xứ, làm lợi lạc chúng sinh, tùy thuận căn cơ chủng tánh của những tầng lớp con người, mà Phật pháp thấy có cao thấp, rộng hẹp, cạn sâu... Lại có tánh tướng, chân vọng, hiển mật, sự lý... Trong quá trình chuyển tải Phật pháp, đặc tính Bất biến tùy duyên là sự chuyển đổi từ một trật tự xã hội truyền thống sang một trật tự xã hội công nghệ hiện đại. Như chư Phật khai bày phương tiện, chư Tổ sư đã vận hành tính chất bất biến tùy duyên, hay tùy duyên bất biến, để đưa chúng sanh, từ thấp đến cao, từ tướng đến tánh, từ vọng về chơn, từ mê đến ngộ, từ sự đến lý, và rốt ráo đến chỗ an vui giác ngộ giải thoát. Tất cả các quy trình phương thức, phép tắc lễ nghi, khoa giáo đọc tụng thọ trì, dẫn đến ứng dụng tu tập trau dồi đạo đức tự thân, gọi đó là Tòng lâm Nghi thức. Tòng lâm, Thiền lâm hay Thiền môn là nơi chốn, trú xứ của những người dốc lòng tu học Phật; Nghi thức thời khóa là những lễ nghi, cách thức ứng dụng hành trì Phật pháp, không chỉ Lễ nghi truyền thọ giới, Pháp kiết hạ an cư, Đàn tràng pháp sự… mà còn bao hàm phương pháp lễ nghi cách thức sống (Học đạo, Hành đạo, Hóa đạo và lúc Trụ thế cũng như khi Viên tịch) dẫn đến thành tựu thánh đạo, gọi đó 10 LƯỢC GIẢI NHỊ THỜI KHÓA TỤNG là Chánh Độ Môn. Những phương pháp lễ nghi mang tính tập tục kế thừa, gọi đó là Khánh Tiết Môn; và những lễ nghi cách thức tùy thuận chúng sanh, làm nhân duyên hóa độ mọi người, lần quy hướng về với Phật pháp, gọi đó là Tín Nguyện Môn, những lễ nghi đọc tụng khuyến tấn tu hành tinh tấn, gọi đá là Cảnh Sách Môn... Nhận đảm nhiệm môn Nhị Khóa Hiệp Giải, thuộc Chánh Độ Môn trong Khoa Tạng giáo, hướng dẫn cho Tăng Ni sinh các khóa IV, V (2001-2005; 2005-2009) trường Phật Học Đồng Tháp. Với tinh thần truyền bá giáo pháp của Phật theo hướng cô đọng, mang an lạc đến cho mọi người, đặc biệt là Tăng Ni sinh, khi thâm nhập chánh pháp Phật giáo, phù hợp với hiện trạng của xu thế hội nhập toàn cầu. Chúng tôi mạo muội biên soạn, lược giải, với nhan đề: Lược giải Nhị Thời Khóa Tụng. Trong quá trình biên soạn chúng tôi thành kính đảnh lễ tri ân các bậc Tôn túc đã dày công phiên dịch, giảng giải, chú sớ cho ra đời các pho sách quý giá, mà chúng tôi đã tham khảo, học hỏi, trích dẫn. Vì là giáo trình là lược giải đại cương; còn rất nhiều điều phải nói, nên không sao tránh khỏi những sơ sót. Kính mong các bậc Tôn túc thạc đức, chư vị Thức giả cao minh, các vị đồng tu từ bi hoan hỷ. Nam mô Công Đức Lâm Bồ tát, Ma ha tát. Khể thủ Tỳ kheo THÍCH TRÍ HẢI TỔNG LUẬN ------ ------ (Trích y nguyên văn Phần Tổng Luận quyển Tòng Lâm Nghi Thức của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Tài, (Nhà Xuất Bản Tôn giáo – 2004 do Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành) chúng tôi lược bớt phần Câu chuông mõ, chuông trống Bát Nhã và các bài Xướng, Tán, Thỉnh, Vịnh, Bạch) Nói đến những Thời Khóa Tụng Niệm tức Nghi lễ, là nói đến những Lễ Nghi Phép Tắc hình thức bên ngoài, nhưng xét nghĩ nếu không có sự tướng thì người học Phật khó có thể thấu triệt, lãnh hội và thể nhập vào lý tánh cao siêu của Phật Pháp. Dụ như muốn hiểu mà không học thì khó có thể hiểu được. Học là sự tướng mà hiểu là tánh. Lễ nghi phép tắc là một trong vô lượng pháp môn phương tiện tối cần, mà đức Thích Tôn khi còn tại thế đã ứng dụng để cứu độ, giáo hóa quần sinh. Thế nên, đức Thích Tôn sau khi chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ Đề, suốt bốn mươi chín năm Ngài không ngừng chuyển bánh xe pháp, vận dụng vô số phương tiện, giáo độ nhơn sinh, và được chư vị Tổ sư kết tập thành Tam tạng; Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng; Luật nhiếp về giới, Kinh nhiếp về định, Luận nhiếp về huệ. Giới đối trị tâm tham dục, Định 12 LƯỢC GIẢI NHỊ THỜI KHÓA TỤNG dứt trừ tâm sân hận, Huệ phá trừ tâm si mê, nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý của con người; dựa trên cơ sở đó con người tu tập, hành trì, chứng ngộ, thể nhập Phật tri kiến, dẫn đến thành tựu giác ngộ giải thoát. Thật vậy, suốt 49 năm vân du thuyết pháp, đức Thế Tôn đã dùng vô lượng pháp môn và mỗi pháp môn đều có một qui trình, cách thức, lễ nghi riêng biệt tuỳ thuận căn cơ tâm tánh của nhân quần, kể cả các bậc Thánh Đệ Tử của Ngài, tuỳ duyên mà hóa độ. Thí như lễ nghi truyền trao giới pháp Phật dạy ngài Xá Lợi Phất vì ông La Hầu La làm Đường đầu Hòa thượng mà thuyết giới (Trong Giới Kinh); Lễ Sám Thù Ân, Đức Phật đã dạy Ngài Thiện Sanh qua bài Kinh Thi Ca La Việt (Lễ bái Lục Phương) hay Nghi Khánh Đản được rút từ Kinh “Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức” ... cho đến việc trai đàn chẩn tế gọi là “Diệm Khẩu Phổ Thí Pháp Hội”; hội về Phật Pháp bố thí thức ăn cho các loài quỷ đói, được thực hành căn bản với tác phẩm “Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp” do Ngài Bất Không Pháp Sư dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Đường được trích từ Kinh “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni” ... Qua đó, cho chúng ta thấy rằng giáo pháp của Đức Phật, không những làm cho người sống được an vui mà còn làm cho kẻ thác được nhiều điều lợi lạc, không chỉ hòa hài tùy thuận căn cơ tập quán con người từng xứ, từng nơi mà còn mang đầy một Triết Lý linh hoạt sống, làm cho Dương thới Âm siêu thoát cảnh mê lầm đau khổ. Tiếp nối truyền thống linh hoạt ấy, Đạo Phật du nhập TỔNG LUẬN 13 vào Việt Nam, đầu tiên do các Ngài: Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác... (bằng đường biển cùng các thương gia người Ấn). Trong các chuyến đi xa hàng nhiều năm tháng lênh đênh trên biển, các thương gia cũng đã thờ cúng cầu nguyện Đức Phật (Phật Nhiên Đăng) và các vị Bồ Tát (như Quán Thế Âm) cùng sức gia trì kinh chú của các vị Thánh Tăng (được thỉnh đi theo đoàn) khiến cho trời yên bể lặng mọi sự an lành. Như vậy vào đầu Kỷ Nguyên Tây Lịch tại Giao Chỉ - Việt Nam đã có Phật giáo hoằng sanh với tinh thần tùy duyên bất biến, mà trước tiên là nghi lễ thờ cúng cầu an, cầu siêu... và sau đó là chân lý chánh truyền. Trong Nghi Lễ đã bao gồm sự lý viên dung góp phần tạo nên những Trung Tâm Phật Giáo thịnh hành nơi Đất Việt. Đến thế kỷ thứ mười, Thiền Sư Diên Thọ - Vĩnh Minh đã phát huy mạnh mẽ phương pháp Tịnh - Mật Song tu. Sự kiện sách “Phật Giáo Pháp Sự Đạo Tràng Công Văn Cách Thức” ấn hành năm 1299 nói rõ về những Nghi thức, hành lễ Thọ Giới, Cầu An, Cầu Siêu, Chúc Thọ, Chuẩn Tế... và những văn bản như Sớ, Điệp, Trạng, Thiếp để dùng trong những lễ lược đã trở thành thông dụng. Nhưng đến năm 1302 khi Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa sang Việt Nam, pháp sự ấy mới trở nên rườm rà nghi thức, đầy dẫy văn chương cùng ấn quyết và thần chú, đã làm lợi lạc quần sinh và là một phương tiện cảm hoằng quan trọng của Phật Giáo trong thời kỳ ấy. Nhưng Tịnh - Mật song hành mà thiếu sự định tĩnh của tâm tư, không khéo có thể biến dạng trở thành phù thủy, 14 LƯỢC GIẢI NHỊ THỜI KHÓA TỤNG mê tín dị đoan làm lu mờ sắc thái của Phật Giáo. Nói khác sự biến chất của những người thực hành nghi lễ một cách lạm dụng hình thức bên ngoài sẽ phủ lên sinh hoạt tín ngưỡng bình dân một lớp màn vô minh dày đặc, để rồi bị sự phê phán của mọi người được căn cứ trên những hình thức sinh hoạt rườm rà, lễ nghi của người Phật tử.