NGUYỄN VĂN THÀNH VÀ LÊ VĂN DUYỆT (Phan Thượng Hải)

Total Page:16

File Type:pdf, Size:1020Kb

NGUYỄN VĂN THÀNH VÀ LÊ VĂN DUYỆT (Phan Thượng Hải) NGUYỄN VĂN THÀNH VÀ LÊ VĂN DUYỆT (Phan Thượng Hải) Đến cuối đời vua Gia Long thì có chuyện giết hại công thần như ông Đặng Trần Thường (1813) và ông Nguyễn Văn Thành (1817). Tiền Quân Nguyễn Văn Thành (1758-1817) và Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763-1832) cùng theo phò Nguyễn Vương Phúc Ánh từ thuở hàn vi, nhưng ông Lê Văn Duyệt không thích ông Nguyễn Văn Thành vì khác tánh tình và vì ông Nguyễn Văn Thành được đầu công trong việc đánh dẹp Tây Sơn. Ông Lê Văn Duyệt là sủng thần của vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh kể từ khi ông là Thái Giám hầu hạ Nguyễn Vương Phúc Ánh. Trung Quân Nguyễn Văn Trương và Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức đã lớn tuổi nên không có ý tranh dành quyền lực tại triều đình vua Gia Long. Ông Nguyễn Huỳnh Đức, tên thật là Huỳnh Tường Đức (được vua ban cho họ Nguyễn) lại là nghĩa phụ của ông Lê Văn Duyệt. Con ông Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên, đậu Cử Nhân, thích giao du với người học rộng. Ông Nguyễn Văn Thuyên làm bài thơ dưới đây gửi cho 2 ông “danh sĩ” Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận ở Thanh Hóa. Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt (*) Hư hoài trắc tịch dục cầu ty Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác Thiện tướng phương tri Ký Bắc kỳ U cốc hữu phương thiên lý viễn Cao vương minh phượng cửu thiên tri Thư hồi nhược đắc sơn trung tể Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky. (Nguyễn Văn Thuyên) (*) Ái Châu là tên cũ của Thanh Hóa trong thời Bắc Thuộc. (Trần Trọng Kim dịch) Ái Châu nghe nói lắm người hay Ao ước cầu hiền đã bấy nay Ngọc phác Kinh Sơn tài sẵn có Ngựa kỳ Ký Bắc biết lâu thay Mùi hương bay tới xa ngàn dặm Tiếng phượng gò cao suốt chín mây Sơn tể phen nầy dù gặp gỡ Giúp nhau (ta) thay đổi hội cơ nầy. Tên đưa thư lén trình thư cho ông Lê Văn Duyệt. Ông liền tố cáo với vua Gia Long là cha con ông Nguyễn Văn Thành có ý làm phản dựa vào 3 câu cuối của bài thơ: “Cao vương minh phượng cửu thiên tri “Tiếng phượng gò cao suốt chín mây Thư hồi nhược đắc sơn trung tể Sơn tể phen nầy dù gặp gỡ Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky”. Giúp nhau (ta) thay đổi hội cơ nầy”. Vua Gia Long để cho triều đình nghị tội. Ông Nguyễn Văn Thành sợ tội nên uống thuốc độc tự tử. Sau đó Nguyễn Văn Thuyên bị kết tội phải bị tử hình mặc dù ông là Phò Mã của vua Gia Long. Khi vua Gia Long qua đời, Vua phó thác con là vua Minh Mạng cho ông Lê Văn Duyệt và ông Phạm Đăng Hưng. Khi ông Lê Văn Duyệt qua đời ở Gia Định thành (1832) thì xảy ra loạn của Lê Văn Khôi (con nuôi của ông Lê Văn Duyệt) vào năm 1833. Lê Văn Khôi tên là Nguyễn Hữu Khôi vì bị quan nhà Nguyễn áp bức nên làm phản chiếm thành Phiên An (tại Sài Gòn bây giờ) được toàn thể Nam Kỳ hưởng ứng (tháng 7-1833) và cầu Xiêm La sang tiếp viện. Người anh vợ là Nông Văn Vân, làm Tri châu Bảo Lạc (tỉnh Tuyên Quang), cũng nổi loạn ở thượng du Bắc Kỳ. Ông Trương Minh Giảng đánh bại quân Xiêm rồi với ông Tống Phúc Lương và ông Nguyễn Xuân cùng quan địa phương chiếm lại Nam Kỳ và vây quân của Lê Văn Khôi trong thành Phiên An (1834-1835). Lê Văn Khôi bị bệnh chết nhưng thủ hạ tôn con là Lê Văn Cừ (7 tuổi) làm thủ lãnh tiếp tục chống giữ hơn 2 năm. Sau cùng trong thành bị dịch tã và hết lương thực và đạn dược nên thất thủ. Những trọng tội là Lê Văn Cừ và 4 thủ hạ cùng 1 giáo sĩ Công Giáo bị đóng cũi giải về Huế rồi đều bị xử lăng trì. 1831 quân phản loạn còn lại bị giết ngay tại thành Phiên An và chôn chung 1 chỗ gọi là Mả Ngụy (nay ở Quận 3, Sài Gòn). Vua Minh Mạng cho phá thành Phiên An (còn gọi là thành Bát Giác). Sau đó vua Minh Mạng cho Nội Các định tội ông Lê Văn Duyệt. Nội các đứng đầu là ông Hà Tôn Quyền và ông Nguyễn Tri Phương tìm thấy 9 tội phản nghịch của ông Lê Văn Duyệt, trong đó có 2 tội như sau: Một là: “Mộ” tiếm gọi là “Lăng” (điều nầy cũng đúng vì tới bây giờ chúng ta vẫn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu ?). Lăng chỉ dùng để gọi cho mồ mã của Vua mà thôi ! Hai là: Lúc sinh tiền tự xưng là xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ: Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần Kiều sự (*) Nhất đán hoàng bào bất thử thân (Trần Trọng Kim dịch) Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu Trần Kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào dễ ép nhau ? (*) Trần Kiều là nơi xảy ra cuộc binh biến. Sau khi vua nhà Hậu Chu là Sài Vinh chết, con là Cung Đế lên ngôi còn nhỏ tuổi. Quân Khiết Đan của nước Liêu ở phương Bắc sắp tấn công. Quân đội khoát áo hoàng bào vào người Tướng quân Triệu Khuông Dẫn và tôn ông nầy lên làm vua, truất phế Chu Cung Đế, lập nên nhà Tống. Quẻ ám chỉ ông Lê Văn Duyệt là Triệu Khuông Dẫn và vua Minh Mạng là vua Cung Đế của nhà Hậu Chu. Về sau vua Thiệu Trị phục danh và phục chức cho ông Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên người Nam Kỳ luôn luôn nhớ công ơn của Tả Quân Lê Văn Duyệt: LĂNG TẢ QUÂN Công thần nay rạng dấu Lê môn Đồ sộ lăng kia tiếng nực đồn Trăm trận oai danh lừng vũ trụ Ngàn năm công nghiệp chói càn khôn Rạch Gầm lắm lúc người kinh vía (*) Thị Nại đòi phen giặc hãi hồn Anh dũng là hương nên đốt rạng Theo Thần dầu khuất tiếng phơi cồn. (Lê Uyên Sanh) (*) Tác giả quên là trong trận Rạch Gầm, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đánh bại Nguyễn Vương Phúc Ánh và 2 vạn quân Xiêm ! Nguyễn Vương Phúc Ánh và Thái giám Lê Văn Duyệt cùng 10 người tùy tòng phải lánh nạn ở Vọng Các (Bangkok), kinh đô của Xiêm La (Thái Lan bây giờ). Ông Lê Văn Duyệt xuất thân là Thái Giám (Quan Hoạn) và là người “bán nam bán nữ” (Intersex). In human biological sex is determine by 5 factors present at birth: The number and type of sex chromosomes The type of gonads (ovaries or testicles) The sex hormones The internal reproductive anatomy (such the uterus of female) The external genitalia People whose 5 characteristics are not either all typical male or all typical female at birth are Intersex Đại Nam Liệt Truyện có viết: “Duyệt là con trai trưởng, sinh ra không có bộ phận sinh dục, thân thể ngắn nhỏ, tinh hãn, có tài lực”. Năm 1780, ông được tuyển làm Thái Giám trong cung của Nguyễn Vương (Nguyễn Phúc Ánh) lúc 17 tuổi. Theo nhật ký của một thương gia người Anh tên là Crafurd kể lại cuộc hội kiến với Tổng Trấn Gia Định vào ngày 2-9-1822: “Viên Governor là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu ớt, tuy chát tai như đàn bà nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta chỉ mặc một áo lụa trơn và đội một chiếc khăn nhiễu bản rộng cũng màu trắng”. Ông Lý Thường Kiệt cũng xuất thân là Thái Giám nhưng không ai thắc mắc ? Điều lạ là 2 ông Lý Thường Kiệt và Lê Văn Duyệt đều là dũng tướng. Một công thần cũng bị tội (sau khi qua đời) cùng lúc với ông Lê Văn Duyệt là ông Lê Chất (1769-1826) và cũng được vua Tự Đức phục chức (1868). Ông có một bàn thờ trong Lăng Ông. Ông Lê Chất nguyên là tướng của nhà Tây Sơn. Khi vua Cảnh Thịnh giết hại công thần kể cả nhạc phụ của ông là Lê Trung, ông Lê Chất bỏ theo ông Võ Tánh ở Bình Định, về với Nguyễn Vương Phúc Ánh (1799). Ông là phó tướng của ông Lê Văn Duyệt đem lục quân chiếm Bắc Hà và sau nầy làm đến Tổng Trấn Bắc Thành. Khi chết, ông có mộ chôn ở Hà Nội. VIẾNG MỘ ÔNG LÊ CHẤT (Nguyên bản) Bình Tây Trấn Bắc sử nghìn thu Ấy cỏ mờ rêu đất một u Ấy dũng ấy trung là thế thế ! Mà ân mà nghĩa ở mô mô ? Chim gào hờn xót xuân ầm ỹ Hùm thét oai lưa gió vụt vù Cái chuyện anh hùng ai nhắc nữa Hồ Tây văng vẳng tiếng chuông bu ! (Phan Khôi) 1921 Vì là một bài thơ “tử vận” nên có người họa: ĐIẾU ÔNG LÊ CHẤT (Họa) Thân danh bách chiến được bao thu Vùi nắm xương tàn chốn tịch u Đất Bắc vỗ dân công nhớ đó Non Tây phá giặc sử ghi mô ? (*) Tấm gương trung liệt gương bôi lợt Ngọc đuốc ân oai gió thổi vù Làm vật hy sinh phơi mặt tợ Để cho ruồi kiến mặc tình bu.
Recommended publications
  • Lê Văn Duyệt 1763 - 1832
    Lê văn Duyệt 1763 - 1832 A la période du Nouvel An lunaire (le Tết), du côté de Gia-Định autrefois banlieue limitrophe de Saigon et de nos jours son arrondissement de Bình Thạnh, on remarque un temple où se pressent des milliers et des milliers de gens venant y faire leur dévotions, dans des volutes de fumée d’encens. C’est le temple du maréchal Lê Văn Duyệt, mort en 1832 sous le règne de Minh Mạng. Ce temple connu sous le nom populaire de lăng Ông, ou de lăng Ông Bà Chiểu, abrite également son tombeau. Nous avons dit « faire leurs dévotions ». En effet, nombre de Vietnamiens le considèrent comme leur protecteur et un génie bienfaisant. Et pourtant c’était un militaire, donc s’étant battu, dans le sang. Et si on regarde d’un peu plus près, on s’aperçoit que plus d’un tiers - sinon la moitié - des « fidèles » sont d’origine chinoise, qui eux, le considèrent comme une autre version d’un de leurs génies, « ông Bốn », . Etonnante, en vérité, fut la vie de ce maréchal-eunuque monté par le plus pur des hasards au faîte des honneurs puis condamné, et dont le tombeau fut près d’être rasé, et enfin réhabilité. Militaire, Lê Văn Duyệt l’est devenu par les inattendus d’une longue vie dédiée totalement à l’action puis à la gestion. Il naît en 1763 dans le delta du Mékong, issu d’une famille originaire du Quảng Ngải. Enfance quasiment de voyou, aimant la lutte, les querelles et les jeux, durant laquelle il mène une bande de jeunes partageant ses loisirs.
    [Show full text]
  • 1 BEGINNING 1. REASON 1.1.Nguyen Dynasty Is the Last Monarchy of Vietnam and Has Chosen Hue As the Capital City of the Country D
    BEGINNING 1. REASON 1.1.Nguyen dynasty is the last monarchy of Vietnam and has chosen Hue as the capital city of the country during 143 years (1802-1945). Along with the establishment of state machine according to the centralization institution, the Nguyen emperors established and executed the ritual regulations and rites abundantly, strictly, methodically days by days, with an aim to affirm and reinforce the legitimacy and orthodoxy of the emperor, the dynasty as well as the noble position of Royal Family. The main ideal thought of the Ministry of Rites is that the system of royal festival has highlighted the aspiration of independence and self-control in the ideal, spiritual lives and in the viewpoint and world view of the Nguyen dynasty with the spirit “a country with a thousand years of civilization is now a united country” of an independent country which is different from China, and even Japan and South Korea which are countries of the same handwriting. Those ritual heritages are often called Nguyen court’s royal festival. From the influences originated from China, experiencing Dai Viet monarchies, Nguyen court’s royal festival was formed in the harmonious combination of Southern native factors with Western factors from the XVIIIth-XIXth century. Therefore, they are very typical, full of Vietnamese identities and stuff. Hence, royal festival is an important factor forming Hue culture, creating typical identity of Hue in the comparison with other cultures of the country. However, up to now, the assessments and researches on Nguyen court’s royal festival are insufficient. Statistics of Ministry of Culture and Information on festivals all over the country since 2003 didn’t mention Nguyen court’s royal festivals.
    [Show full text]
  • Về Mối Quan Hệ Giữa Lê Văn Duyệt Và Vua Minh Mạng Qua Quá Trình Tập Trung Quyền Lực 30 Năm Đầu Triều Nguyễn
    TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X2-2016 Về mối quan hệ giữa Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng qua quá trình tập trung quyền lực 30 năm đầu triều Nguyễn Trần Thuận Võ Phúc Toàn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM TÓM TẮT: Khi thành lập vương triều, Gia Long đã duy ngôi báu này cũng đánh dấu quá trình tập trì nền quân chính trên lãnh thổ rộng lớn với trung quyền lực vào tay chính quyền trung hai đơn vị hành chính cấp thành cai quản hai ương do hoàng đế đứng đầu và việc xóa bỏ vùng đất tương ứng với Bắc bộ và Nam bộ Việt các đơn vị hành chính có quyền lực quá lớn Nam ngày nay. Gia Định thành, đơn vị hành như Gia Định thành là một xu thế tất yếu. Quá chính cai quản khu vực Nam bộ, do Lê Văn trình này diễn ra khá phức tạp do những vấn Duyệt đứng đầu có vai trò hết sức quan trọng đề nội tại xung quanh mối quan hệ giữa Minh về kinh tế, quốc phòng và ngoại giao. Trong 30 Mạng và Lê Văn Duyệt, mối quan hệ giữa một năm đầu triều Nguyễn, cùng với quá trình tân vương và một cố mệnh đại thần có quyền chuyển giao quyền lực từ Gia Long sang đến lực rất lớn. Bài viết mô tả sự vận động của mối Minh Mạng là sự khẳng định vị thế của Tổng quan hệ chính trị giữa hai nhân vật này trong trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt, khiến ông quá trình tập trung quyền lực 30 năm đầu triều trở thành một trong những nhân vật quyền lực Nguyễn với một cách nhìn mới.
    [Show full text]
  • Indians As French Citizens in Colonial Indochina, 1858-1940 Natasha Pairaudeau
    Indians as French Citizens in Colonial Indochina, 1858-1940 by Natasha Pairaudeau A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy, University of London School of Oriental and African Studies Department of History June 2009 ProQuest Number: 10672932 All rights reserved INFORMATION TO ALL USERS The quality of this reproduction is dependent upon the quality of the copy submitted. In the unlikely event that the author did not send a com plete manuscript and there are missing pages, these will be noted. Also, if material had to be removed, a note will indicate the deletion. uest ProQuest 10672932 Published by ProQuest LLC(2017). Copyright of the Dissertation is held by the Author. All rights reserved. This work is protected against unauthorized copying under Title 17, United States C ode Microform Edition © ProQuest LLC. ProQuest LLC. 789 East Eisenhower Parkway P.O. Box 1346 Ann Arbor, Ml 48106- 1346 Abstract This study demonstrates how Indians with French citizenship were able through their stay in Indochina to have some say in shaping their position within the French colonial empire, and how in turn they made then' mark on Indochina itself. Known as ‘renouncers’, they gained their citizenship by renoimcing their personal laws in order to to be judged by the French civil code. Mainly residing in Cochinchina, they served primarily as functionaries in the French colonial administration, and spent the early decades of their stay battling to secure recognition of their electoral and civil rights in the colony. Their presence in Indochina in turn had an important influence on the ways in which the peoples of Indochina experienced and assessed French colonialism.
    [Show full text]
  • History of Hue Ebook.Pages
    History of Hue: Travelers’ Cliff Notes The events in Hue between 1802-1946 forever changed Vietnam. It’s a story worth reading, if you want to better understand the country. Travel Is Zen 1st Edition Introduction .........................................................3 Two Dynasties Become One ................................3 Establishing the French Connection ...................4 Reign of Gia Long ................................................4 Tu Duc: Christians Become a Threat ..................5 Dong Khanh: Era of French Puppets ..................6 Exiling the Uncooperative ...................................6 Khai Dinh: The Ultimate Puppet .........................7 Bao Dai: The Last Emperor .................................7 First Indochina War ............................................8 Full Circle: A Country Divided ............................8 Introduction Hue, Vietnam, is often described as the “ancient” capital of Vietnam. If you consider Philadelphia as the “ancient” capital of the United States, then the descriptor is an accurate one. Otherwise, a more apt adjective for Hue might be “short-lived” capital of Vietnam. Semantics aside, the events in Hue roughly 200 years ago altered the country’s trajectory and shaped Vietnam’s modern destiny. To understand Vietnam, you need to understand how the Nguyen family dynasty came to power (and clung to power) with the help of the French. This short e- book gives you the low-down on who’s who in Hue, providing historical context when you visit the Citadel, Imperial Tombs, and Thien Mu Pagoda. Two Dynasties Become One A sleepy land for most of the country’s chronological record, Hue’s chapter of Vietnamese history became significant around 1802. Until 1802, there was no unified country named Viet Nam. Instead, there were two dominant empires that fought each other for centuries: the Le Dynasty ruled Dai Viet, which was the Red River Delta region in the north (today’s cities of Hanoi and Haiphong).
    [Show full text]
  • Transformation of Built Cultural Heritage in Old Saigon (Ho Chi Minh City), Vietnam
    TRANSFORMATION OF BUILT CULTURAL HERITAGE IN OLD SAIGON (HO CHI MINH CITY), VIETNAM NGO MINH HUNG (PhD.) Institute of Cultural Heritage and Development Studies Van Lang University, Vietnam Italia, 04 Sep 2020 1. INTRODUCTION Source: thailand-construction.com, 2020 • THE RAPID TRANSFORMATION OF HCMC’S ECONOMY IN THE LAST TWO DECADES IS ONE OF THE SUCCESS STORIES OF ASIA. • OLD URBAN ARTIFACTS AND FABRIC, WHICH REPRESENTED THE DISTINCTIVE CULTURAL AND ARCHITECTURAL IDENTITIES OF THE VIETNAMESE, KHMER, CHAM, CHINESE, FRENCH, AND INDIANS, ARE BEING REPLACED WITH MORE GIGANTIC MODERN GLASS SKYSCRAPERS. • HCMC HAS LOST ABOUT 30% OF ITS TOTAL 108 REGISTERED ARCHITECTURAL HERITAGE ITEMS SINCE 1993 AND 18 SIGNIFICANT HERITAGES OF SAIGON AS WELL 2. HISTORICAL SAIGON AND ITS TRANSITION 2.1. FIRST INITIATION OF SAIGON • FIRST FORM OF COMMERCE- PORT CITY • SECOND FORM OF TRADING AND RELIGIOUS TOWN 2.2. SECOND PHASE: THE VIET LOCALIZED GIA DINH IN GIA DINH PERIOD (1698-1860) • A WATER AND COOL CLIMATE CITY 2.3. THIRD STAGE OF SAIGON CITY • IN 4 FEB 1790, GIA LONG- THE FIRST EMPEROR OF NGUYEN DYNASTY, WHO WAS INSPIRED BY MILITARY ART OF FRENCH Source: www.pinterest.com, 2020 FORTIFICATION, ORDERED TO BUILD BAT QUAI CITADEL (EIGHT TRIGRAMS, VAUBAN FORM [8], DESIGNED BY OLIVER DE PUYMANUEL AND LE BRUN) • THE CITADEL, UNDER MINH MANG- THE SECOND EMPEROR OF NGUYEN DYNASTY, WAS FIRSTLY DESTROYED BY THE LAW ON ‘NO BIGGER CITADEL SCALE’ AS STRICTLY AS ‘TO BE IN LINE WITH HIERARCHY’. THE LARGEST CITADEL OF THE SOUTH, CONSEQUENTLY, HAD FINISHED ITS ROLE IN 1835. IN OTHER WORDS, IT HAD EXISTED ONLY 45 YEARS (1790-1835).
    [Show full text]
  • Crossing Cultural, National, and Racial Boundaries: Portraits of Diplomats and the Pre-Colonial French-Cochinchinese Exchange, 1787-1863
    CROSSING CULTURAL, NATIONAL, AND RACIAL BOUNDARIES: PORTRAITS OF DIPLOMATS AND THE PRE-COLONIAL FRENCH-COCHINCHINESE EXCHANGE, 1787-1863 Ashley Bruckbauer A thesis submitted to the faculty of the University of North Carolina at Chapel Hill in partial fulfillment of the requirements for the degree of Master of Arts in the Department of Art. Chapel Hill 2013 Approved by: Mary D. Sheriff Lyneise Williams Wei-Cheng Lin © 2013 Ashley Bruckbauer ALL RIGHTS RESERVED ii ABSTRACT ASHLEY BRUCKBAUER: Crossing Cultural, National, and Racial Boundaries: Portraits of Diplomats and the pre-colonial French-Cochinchinese Exchange, 1787-1863 (Under the direction of Dr. Mary D. Sheriff) In this thesis, I examine portraits of diplomatic figures produced between two official embassies from Cochinchina to France in 1787 and 1863 that marked a pre- colonial period of increasing contact and exchange between the two Kingdoms. I demonstrate these portraits’ departure from earlier works of diplomatic portraiture and French depictions of foreigners through a close visual analysis of their presentation of the sitters. The images foreground the French and Cochinchinese diplomats crossing cultural boundaries of costume and customs, national boundaries of loyalty, and racial boundaries of blood. By depicting these individuals as mixed or hybrid, I argue that the works both negotiated and complicated eighteenth- and nineteenth-century divides between “French” and “foreign.” The portraits’ shifting form and function reveal France’s vacillating attitudes towards and ambivalent foreign policies regarding pre-colonial Cochinchina, which were based on an evolving French imagining of this little-known “Other” within the frame of French Empire. iii ACKNOWLEDGEMENTS This thesis would not have been possible without the support and guidance of several individuals.
    [Show full text]
  • Vietnam at the Khmer Frontier: Boundary Politics, 1802–1847
    Vietnam at the Khmer Frontier: Boundary Politics, 1802–1847 Vũ Đức Liêm, Hanoi National University of Education Abstract This article addresses the challenging spatial organization of Nguyễn Vietnam: the binary relationship between civilizational expansion and the construction of a state boundary at the Khmer frontier. It examines the process whereby the Vietnamese moved southwest into the Khmer world and territorialized a contested terrain as part of a civilizational and imperial project. The process employed the state’s administrative infrastructure and cultural institutions to erase ethnic, political, and cultural diversity in the lower Mekong. This article argues that Vietnamese expansion was not simply an attempt to carry out the will of heaven and Confucian cultural responsibility; rather, it was a search for peripheral security and a response to regional competition. In fact, the seesawing between civilizational mission and territorial consolidation confused the Nguyễn bureaucracy with regard to Cambodia’s political and cultural status and affected Hue’s frontier management. As a result, the Vietnam-Cambodia boundary was the object of frequent shifts and negotiations. Only after facing Siamese invasion and experiencing fierce Khmer resistance did the Vietnamese court gradually replace its civilizational perspective with a more practical approach to border management, out of which emerged the modern borderline. Keywords: Nguyễn dynasty, Vietnam-Cambodia boundary, history of cartography, lower Mekong Introduction For the early Nguyễn emperor Gia Long (r. 1802–1820), who emerged victorious from three decades of war following two centuries of division, and his heir, Minh Mệnh (r. 1820–1841), several urgent priorities were to unify Vietnam, extend the reach of the state, and secure the country’s borders, which entailed gaining control over both land and people.
    [Show full text]
  • NGŨ HỔ TƯỚNG GIA ĐỊNH:  Lê Văn Duyệt  Nguyễn Huỳnh Đức  Nguyễn Văn Nhơn  Nguyễn Văn Trương  Trương Tấn Bửu
    NGŨ HỔ TƯỚNG GIA ĐỊNH: Lê Văn Duyệt Nguyễn Huỳnh Đức Nguyễn Văn Nhơn Nguyễn Văn Trương Trương Tấn Bửu LÊ VĂN DUYỆT Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Tượng đồng Lê Văn Duyệt tại gian thờ chính trong Lăng Ông (Bà Chiểu) Tả quân Quận công Lê Văn Duyệt (tên chữ Hán: 黎文悅, 1764-1832) là một công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thâu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành[1] 2 lần: từ 1812 đến 1815[2] (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng). Tiểu sử Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 trong vùng thôn dã gần vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh, châu Định Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời, cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng (nay thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Sự nghiệp Chống Tây Sơn Lê Văn Duyệt trên mặt trước tờ 100 đồng in năm 1966 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Khi Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy vào Nam có ngụ tại nhà thân sinh của ông là Lê Văn Toại, nhân đó ông được Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái giám năm ông 17 tuổi.
    [Show full text]
  • CÁC DANH NHÂN ĐƯỢC SỬ SÁCH LƯU DANH (Thứ Tự A, B, C)
    CÁC DANH NHÂN ĐƯỢC SỬ SÁCH LƯU DANH (thứ tự A, B, C) CHU VĂN AN - Tên húy, tên gọi khác: Tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tự Linh Triệt. - Quê quán: Xã Quang Liệt, Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội) - Niên đại: 1292 - 1370 - Chức nghiệp: Nhà giáo, Thầy thuốc, Đại quan đời Trần - Công trạng: Ông là người chính trực, từng đỗ Thái học sinh mà không ra làm quan mà mở trường dạy học. Ông có công lớn trong việc truyền bá giáo dục Khổng Tử vào Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông mời ông ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám dạy cho các Thái Tử nhà Trần. Đến đời Vua Dụ Tông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh nhưng Vua không nghe. Ông chán nản từ quan về núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, bốc thuốc cho tới khi mất. Ông là tác giả sách: Tứ thư thuyết ước, tập thơ chữ hán: Tiều ẩn thi tập, Quốc ngữ thi tập…Ông mất năm 1370, thờ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. LÊ VĂN AN - Tên húy, tên gọi khác: - Quê quán: làng Mục Sơn nay là xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam - Niên đại: ? - 1437 - Chức nghiệp: là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam - Công trạng: Lê Văn An đi theo Lê Lợi từ ngày đầu, từng cùng Lê Lợi dự hội thề Lũng Nhai năm 1416.
    [Show full text]
  • The Gia Long Code in Comparative Codification Bui Ngoc Son
    The Gia Long Code in Comparative Codification Bui Ngoc Son, Assistant Professor, CUHK LAW In 1812, Gia Long, the first emperor of the Nguyễn Dynasty, the last dynasty in Vietnam, with the capital at Huế, enacted the Hoàng Việt Luật Lệ. Also called Gia Long Code, it is the most comprehensive and sophisticated legal code in premodern Vietnamese legal history. The Code includes 398 articles, divided into 22 books. It takes the form of a criminal code but covers a range of legal issues, such as crimes and punishments, property, torts, family, litigation, administration, finance, and military. This article explains how and why the Nguyễn Dynasty codified law. It locates the enactment of the Gia Long Code within the scholarship on comparative codification. Adapting from the work of Alan Watson and John W. Head, this article argues that the enactment of the Gia Long Code was shaped by two conditions: political will and capacity. Emperor Gia Long was willing to codify law to create a comprehensive framework for ruling, to unify the country, and to lay down a foundation for new regime’s legal legitimacy. The Emperor was capable to do so because he could centralize the power and acquire institutional and personal resource and supports. Apart from the conditions, the Nguyen’s codification was determined by internal and external factors. The internal factors include: the Vietnamese tradition of codification (particularly the Hồng Đức Code of the Lê Dynasty), legal chaos, political revolution, and social change after the Nguyễn Dynasty was created following a civil war. The external factor is legal transplant or the Nguyễn Dynasty’s reception of China’s Qing Code.
    [Show full text]
  • Cambodia's Relations with Siam in the Early Bangkok Period : the Politics of a Tributary State*
    CAMBODIA'S RELATIONS WITH SIAM IN THE EARLY BANGKOK PERIOD : THE POLITICS OF A TRIBUTARY STATE* by David P. Chandler Whenever the King of Siam and the Emperor of Vietnam wrote to each other about Cambodia in the early nineteenth century, they referred to it as a servant and as a child.l Officially, they both saw Cambodia, and especially its court, as an unruly dependent they should nourish and control. Privately, as they did in Laos in the 1820s, both monarchs sought the upper hand. When neither enjoyed a clear advantage, they agreed in writing to "raise" Cambodia together. Siam at these times called itself Cambodia's "father". [ts "mother" was Vietnam.2 This adoption of Cambodia was part of a system of tributary diplomacy, derived from China, which was in use in most of eastern Asia at this time.3 The newly constituted dynasties in Bangkok and Hue used the system to legitimize themselves and to res tore their nations' traditional influence over bordering areas. In Cambodia, as in much of what is now Laos, their tributary networks overlapped. 0 *This paper was delivered as a talk to the Siam Society on May 26, 1971. I) See, for example, the Thai manuscripts catalogued in the National Library in Bangkok as cotmaihet ratchakan thi 2 (D ocuments from the second reign of the Bangkok period) culasa!azr,rj 117 3 (AD 1811 )/ 19 K. This series of mss. is dis­ cussed in David K. Wyatt and Constance M. Wilson, " Thai Historical Materials in Bangkok", Joumcd of A sian Studies (.] .4S) XXV.
    [Show full text]