Hình Tƣợng Con Ngƣời Trong Nghệ Thuật Gốm Việt Nam Thời Lê Sơ
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHAN THANH SƠN HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC Ngành: Mỹ học Mã số: 92 29 007 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. GS. TS. Tạ Ngọc Tấn 2. PGS. TS. Vũ Thị Phƣơng Hậu HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực và không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định. Nghiên cứu sinh Phan Thanh Sơn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT A Ảnh BĐ Bản đồ CTST Chủ thể sáng tạo ĐK Đường kính H Chiều cao HTCN Hình tượng con người HTNT Hình tượng nghệ thuật NCS Nghiên cứu sinh NNƯT Nghệ nhân ưu tú NXB Nhà xuất bản PGS. TS Phó giáo sư. Tiến sĩ PL Phụ lục QHTM Quan hệ thẩm mỹ TNPT Tín ngưỡng phồn thực TNTG Tín ngưỡng tôn giáo Tr Trang VHXH Văn hóa xã hội MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9 1.2. Cơ sở lý luận 21 1.3. Một số khái niệm sử dụng trong luận án 26 Tiểu kết Chương 1 38 Chƣơng 2: KHÁI LƢỢC VỀ THỜI LÊ SƠ VÀ NGHỀ GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ 39 2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời Lê sơ (1428 - 1527) 39 2.2. Nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ 45 Tiểu kết Chương 2 62 Chƣơng 3: NỘI DUNG VÀ NGÔN NGỮ THỂ HIỆN HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM THỜI LÊ SƠ 64 3.1. Nội dung thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm 64 Việt Nam thời Lê sơ 3.2. Ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ 90 Tiểu kết Chương 3 110 Chƣơng 4: CÁC GIÁ TRỊ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ VỚI NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 112 4.1. Giá trị thẩm mỹ của hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ 112 4.2. Phát huy giá trị hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ với nghệ thuật gốm đương đại 132 Tiểu kết Chương 4 152 KẾT LUẬN 153 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 155 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 PHỤ LỤC 161 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuyên suốt diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam, nghệ thuật gốm từ buổi đầu xuất hiện đến nay vẫn là một bộ phận cấu thành quan trọng, không thể tách rời, đặc biệt là ở phương diện tạo hình, từ hình khối cùng các thủ pháp tạo hình, màu sắc đặc trưng cho đến trang trí thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật (HTNT) biểu hiện thành những mảng đề tài, tất cả đều mang tính thống nhất trong sự phản ánh các mối quan hệ của con người trong đời sống tự nhiên và xã hội. Xuất hiện từ sơ kỳ đá mới, nghệ thuật gốm thể hiện tính hình tượng bằng hệ thống biểu tượng về thế giới tự nhiên mang tính kỹ thuật nhiều hơn là mỹ thuật. Đến thời đại kim khí, hình tượng con người (HTCN) đã xuất hiện trong trang trí đồ đồng. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lịch sử dân tộc có thể bị gián đoạn, nhưng văn hóa vẫn tiếp biến tự nhiên. Trong những giai đoạn lịch sử này, HTCN trong mỹ thuật truyền thống của người Việt vẫn chủ yếu xuất hiện trong trang trí đồ đồng và một số chất liệu khác như gỗ, đá, chưa thấy trên chất liệu gốm. Bước sang thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, hơi thở tự do đã đem lại sinh khí mới cho nền mỹ thuật dân gian truyền thống Việt Nam, cùng đó là tinh thần “giải Hoa” bộc lộ rõ nét trong từng dấu ấn văn hóa nghệ thuật. HTCN xuất hiện trong mọi loại hình nghệ thuật. Với nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống, thời Lý, HTCN trong nghệ thuật gốm biểu hiện sự tiếp biến với các yếu tố văn hóa Ấn Độ thông qua sự du nhập nghệ thuật tạo hình Chăm pa. Thời Trần, hào khí Đông A tạo nên HTCN gắn liền với công cuộc giữ nước, đánh đuổi ngoại xâm, phong cách hồn nhiên, tối giản của mỹ thuật dân gian là chủ đạo. Đến thời Lê sơ, cương vực Đại Việt đã mở rộng về phía Nam đến Quảng Nam, nhưng về cơ bản mọi hoạt động kinh tế, chính trị cũng như đặc trưng văn hóa vẫn biểu hiện rõ hơn cả ở khu vực Bắc bộ, hình thái xã hội phong kiến dân tộc độc tôn tư tưởng Nho giáo làm nền tảng dần trở nên hoàn thiện, ảnh hưởng của Phật giáo, Lão giáo bị hạn chế, nghệ thuật dân gian ở các thời kỳ trước, đặc biệt là mỹ thuật không được chú trọng phát triển. Tuy vậy, thời kỳ này nghệ thuật gốm đã phát triển mạnh với dòng gốm hoa lam chủ đạo trên mọi phương diện tạo hình của nghệ thuật gốm Việt Nam. Trong hệ thống hình tượng của nghệ thuật trang trí trên gốm 2 thời Lê sơ, HTCN xuất hiện trong mọi loại hình: từ sản phẩm ứng dụng đến tượng điêu khắc gốm với sự phản ánh phong phú từ biểu hiện cho thế giới tự nhiên, các tích thần thoại trong nước và ngoài nước, đến các nội dung phản ánh hiện thực của đời sống xã hội... Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, nghệ thuật gốm cũng như HTCN trên đồ gốm đã được đề cập trong rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu ở các lĩnh vực lịch sử, khảo cổ, văn hóa, mỹ thuật học, nhưng hầu hết chỉ tập trung vào từng lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, cũng như chưa có nghiên cứu nào được soi xét và mang tính tổng hợp để có thể đưa ra được những kết quả có giá trị khoa học một cách đầy đủ, đặc biệt là với hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ. Chính bởi lẽ đó, cho đến nay tuy đã có một số minh chứng cụ thể khẳng định tính đặc trưng riêng biệt của nghệ thuật gốm Việt Nam nói chung, giá trị nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa thông qua hệ thống biểu tượng, HTNT..., nhưng các vấn đề nghiên cứu như hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, cùng các giá trị thẩm mỹ của nó vẫn chưa được đặt trong các quan hệ thẩm mỹ (QHTM) để đánh giá khách quan, cũng như vẫn chưa có sự thống nhất bởi vẫn còn tồn tại những tư duy chủ quan về nghiên cứu nghệ thuật gốm trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực. Với tư cách là một khoa học nghiên cứu sự vận động của các quan hệ thẩm mỹ trong hiện thực, trong tâm hồn và trong nghệ thuật, mỹ học và cụ thể là Mỹ học Mác - Lê nin lấy QHTM giữa con người và hiện thực làm nền tảng, cái đẹp là trung tâm, hình tượng là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất [22,tr40]. Khái niệm trên cho thấy, khoa học mỹ học mang tính biện chứng tuân theo các quy luật khách quan nghiên cứu dựa trên cơ sở các mối quan hệ xã hội, quan hệ của con người với hiện thực, tự nhiên, trên cơ sở kết quả nghiên cứu khu biệt trong từng lĩnh vực khoa học liên quan, trên nền tảng các QHTM thông qua biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật, của HTNT, để làm nổi bật giá trị của cái đẹp trong các mối quan hệ phức tạp trong đời sống xã hội của con người, cùng những tác động tích cực cũng như tiêu cực trong quá trình vận động của lịch sử phát triển xã hội loài người. Bởi vậy mỹ học cũng được ví như là triết học của cái đẹp. Mặt khác, sự ra đời của các hình thái xã hội cùng các mối quan hệ trên mọi phương diện đều là sản phẩm của con người và được phản ánh bởi con người. Nói cách khác, con người là đầu mối, là nguồn gốc và cũng là nguyên nhân trong mọi biến đổi 3 của đời sống xã hội, HTCN trong nghệ thuật cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong các QHTM và trong hệ thống các hình tượng nghệ thuật, HTCN cũng chính là biểu hiện tập trung nhất cho các giá trị thẩm mỹ cũng như giá trị nhân văn gắn liền với sự phản ánh khát vọng vươn tới cái đẹp của con người trong đời sống thẩm mỹ dân tộc cũng như cho văn hóa dân tộc.