BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Loan

SỰ TIẾP BIẾN TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI CỦA PHỤ NỮ VIỆT TỪ NHỮNG NĂM 1930 ĐẾN NĂM 2017

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2020 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Loan

SỰ TIẾP BIẾN TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI CỦA PHỤ NỮ VIỆT TỪ NHỮNG NĂM 1930 ĐẾN NĂM 2017

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 9210101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Thị Tình TS. Trần Thủy Bình

Hà Nội – 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ với đề tài: Sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017 là công trình do chính tôi viết. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận án

Nguyễn Thị Loan

ii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

BST Bộ sưu tập

GS Giáo sư

H Hình

PGS Phó giáo sư

PL Phụ lục

NCS Nghiên cứu

NTK Nhà thiết kế

Nxb Nhà xuất bản

TK Thế kỷ

TS Tiến sĩ

tr Trang

iii

MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………… i DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT………………………………………... ii MỤC LỤC……………………………………………………………... iii MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾT KẾ ÁO DÀI. 11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu………………………………….. 11 1.2. Cơ sở lý luận………………………………………………………. 21 1.3. Các vấn đề liên quan đến thiết kế áo dài …….…………………….. 34 Tiểu kết ………...…………………………………………………….... 50 Chương 2. THIẾT KẾ ÁO DÀI VÀ NHỮNG TIẾP THU - BIẾN ĐỔI TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI TỪ NHỮNG NĂM 1930 ĐẾN 2017…...…………………………………………….. 52 2.1. Nghệ thuật thiết kế áo dài từ những năm 1930 đến năm 2017……… 52 2.2. Những tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài……….. 72 2.3. Yếu tố tác động đến sự tiếp biến trong thiết kế áo dài…………….. 100 Tiểu kết……………………………………………………………….... 117 Chương 3. LUẬN BÀN VỀ TIẾP BIẾN TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI CỦA PHỤ NỮ VIỆT…………………………... 119 3.1. Tư duy và thẩm mỹ trong nghệ thuật thiết kế áo dài……………….. 119 3.2. Những phong cách và xu hướng thiết kế áo dài……………………. 136 3.3. Áo dài của phụ nữ Việt trong tương quan với một số tộc người thiểu số ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa……………………………... 149 3.4. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm của tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài…………………………………………………………... 158

iv

Tiểu kết ………...……………………………………………………… 169 KẾT LUẬN……………………………………………………………. 171 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ………………….. 174 CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ …………………………………………... 175 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….... 182 PHỤ LỤC……………………………………………………………….. 195

1

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi tiếp xúc với các nền văn hóa Đông – Tây, áo dài phụ nữ Việt từ xưa đến nay có những thay đổi đáng kể về hình dáng, kết cấu, màu sắc, trang trí và chất liệu vải, lụa. Qua mỗi lần tiếp xúc nó lại được cải cách cho tương thích với quan điểm thẩm mỹ đương thời, nhưng vẫn giữ được những đặc trưng căn cốt của áo dài Việt trong dấu ấn lịch sử văn hóa của dân tộc. Những yếu tố kỹ thuật trong tạo hình bị tác động mạnh do quá trình tiếp xúc - giao lưu văn hóa ấy. Tuy nhiên không phải yếu tố thiết kế nào trên áo dài cũng thay đổi. Qua quá trình nghiên cứu, NCS nhận thấy dù màu sắc có chuyển từ tông màu tối đến sáng, từ sắc trầm sang rực rỡ, có trang trí hay không trang trí, chất liệu vải mềm hay vải cứng… thì áo dài cũng được thiết kế theo dáng hình thang thân dài và kết cấu 2 tà “mở” từ vị trí xẻ ở thắt eo. Như vậy hình dáng và kết cấu được coi là yếu tố tĩnh, còn màu sắc, trang trí và chất liệu vải là yếu tố động. Đây chính là tạo hình đặc trưng trong văn hóa mặc áo dài của người Việt. Đồng thời, cũng là yếu tố khác biệt với áo dài của phụ nữ một số tộc người: Chăm, Thái… Để tạo nên những tấm áo dài mang dấu ấn riêng của phụ nữ Việt, phải chăng người thiết kế đã có những tư duy, thẩm mỹ trong thiết kế, kết hợp với những yếu tố khoa học công nghệ - kỹ thuật để có sự hợp lý nhất định, mà mọi vóc dáng của người phụ nữ đều có thể sử dụng, đồng thời tôn lên được nét thướt tha, thanh lịch và sang trọng mỗi khi mặc áo dài. Áo dài là trang phục gắn bó mật thiết trong đời sống của người phụ nữ Việt, nó có sức sống tự thân mạnh mẽ, vươn lên tồn tại và phát triển cùng với bao biến chuyển từ các trào lưu văn hóa trong xã hội. Do đó áo dài không chỉ thể hiện nét đẹp trong văn hóa mặc của người Việt, mà còn thể hiện tư duy sáng tạo, thị hiếu, thẩm mỹ trong văn hóa của dân tộc. Có thể nói cách khác áo dài chính là sản phẩm mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.

2

Áo dài đẹp, gần gũi với đời sống của phụ nữ Việt là thế, vậy mà những năm qua đã có rất nhiều các cuộc thử nghiệm tạo hình về hình dáng kết cấu, màu sắc hay chất liệu vải khác nhau trong thiết kế áo dài. Có mẫu được tán dương, nhưng không ít mẫu bị dư luận xã hội lên án, và thực tế đã có nhiều cuộc tranh luận về tạo hình áo dài cũng như sự nhầm lẫn về nguồn gốc của áo dài diễn ra trên các diễn đàn mạng xã hội và truyền thông cả nước. Áo dài đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước. Những công trình đó đã tiếp cận nghiên cứu áo dài dưới nhiều góc độ, lăng kính khác nhau như: Góc độ mỹ thuật, góc độ văn hóa, góc độ giao lưu tiếp biến văn hóa. Mỗi góc độ nghiên cứu, các tác giả đều đưa ra được những kết quả có giá trị khác nhau. Tuy nhiên vẫn chưa thấy một công trình nào nghiên cứu áo dài dưới góc độ Nghệ thuật học, Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật kết hợp với nghiên cứu liên ngành để giải quyết các vấn đề nghiên cứu về tính tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài. Do đó đây chính là khoảng trống về nghiên cứu áo dài mà NCS đặt hướng nghiên cứu. Với đề tài cụ thể là Sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017 nhằm góp một phần nhỏ trong việc định hướng nhận thức về áo dài truyền thống của phụ nữ Việt hiện nay. Là người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, đặc biệt ở phạm vi của ngành thiết kế thời trang, nên nhận thấy áo dài của phụ nữ Việt có những đặc trưng và chu trình tiếp biến thiết kế tiêu biểu. Do đó đề tài là một vấn đề cần thiết để được nghiên cứu một cách có hệ thống khoa học làm cơ sở tham khảo cho giảng viên và sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo ngành Thiết kế thời trang. Đồng thời đề tài còn cung cấp những tư liệu nghiên cứu về áo dài cho các tổ chức có liên quan để quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam nói chung và áo dài nói riêng với thế hệ trẻ và bạn bè quốc tế. Đề tài nghiên cứu Sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của

3 phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017 của luận án cũng góp phần vào công cuộc Bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của văn hóa mặc Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu chính Phân tích những vấn đề đã được tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017, để thấy được những giá trị văn hóa nghệ thuật và thẩm mỹ trong tạo hình thiết kế áo dài. 2.2. Mục đích nghiên cứu khác Nghiên cứu lịch sử hình thành và những thay đổi trong thiết kế áo dài qua những lần tiếp xúc với các nền văn hóa Đông – Tây. Nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài. Đó là những tác động của các yếu tố chính trị xã hội, khoa học công nghệ và kỹ thuật, giao thoa các nền văn hóa. Nghiên cứu đặc điểm và những xu hướng, phong cách thiết kế áo dài. Ở 2 giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1980 và từ sau năm 1980 đến năm 2017. Trên cơ sở thực tiễn về nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt ở 2 trung tâm thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, NCS phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế trong thiết kế áo dài. Nhằm đóng góp vào tính khoa học, cũng như sự định hướng thẩm mỹ thiết kế áo dài của phụ nữ Việt trong cuộc sống đương đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian NCS đã lựa chọn phạm vi thời gian giới hạn đề tài từ những năm 1930 đến năm 2017. Bởi năm 2017 có nhiều tranh luận về nguồn gốc áo dài, cũng

4 như xuất hiện nhiều trào lưu, xu hướng thiết kế áo dài mới đã được xã hội đón nhận. - Phạm vi không gian Những mẫu áo dài ở hai trung tâm thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án khảo sát những tiếp thu và biến đổi thiết kế áo dài nghiêng về Hà Nội. Bởi Hà Nội là trung tâm có nhiều giao lưu văn hóa của cả nước, hơn nữa NCS sống và làm việc ở nơi đây, nên sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tham dự, khảo sát và phỏng vấn những chuyên gia, NTK có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực may và thiết kế áo dài. Dù rất mong muốn được nghiên cứu khảo sát nhiều hơn nữa về quan điểm, thiết kế áo dài của các nhà thiết kế ở Thành phố Hồ Chí Minh và đặc biệt là thiết kế áo dài ở thành phố Huế để luận án có thêm những luận chứng và gia tăng sự đa dạng trong quan điểm thiết kế. Tuy nhiên do những hạn chế của cá nhân, xin được dành nghiên cứu ở 2 khu vực này vào những nghiên cứu sau khi bảo vệ luận án. Để thấy được diễn trình hình thành và phát triển áo dài của phụ nữ Việt, ngoài các nguồn tham khảo là những công trình nghiên cứu đã được công bố, NCS còn nghiên cứu khảo sát nhiều nguồn tư liệu trên các tác phẩm nghệ thuật như: - Các tác phẩm hội họa và tượng thờ: Một số tác phẩm hội họa vẽ phụ nữ mặc áo dài của họa sĩ Lê Phổ và những mẫu phác thảo áo dài của họa sĩ Nguyễn Cát Tường. Cùng với đó là khảo sát một số tượng (nữ) thờ: Tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ, Hiền phi Trương Thị Ngọc Lãnh, Vương phi Trần Thị Ngọc Am, Hoàng hậu Ngọc Bạch… - Hiện vật trưng bày tại các bảo tàng: Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam và Bảo tàng Áo dài thành phố Hồ Chí Minh. Đó là những mẫu áo dài truyền thống

5 của phụ nữ Việt và của các tộc người Chăm (ở Ninh Thuận), Tày (ở Cao Bằng), Thái (ở Thanh Hóa). - Một số mẫu áo dài của các nhà thiết kế đương đại: Ở giai đoạn từ năm 1980 đến 2017 của NTK Minh Hạnh, Sĩ Hoàng, La Hằng, Lan Hương, Ngân An, Vũ Việt Hà, Ngọc Hân, Quỳnh Paris… và một số NTK khác có mẫu trình diễn trong lễ hội Festival áo dài trong và ngoài nước. Những mẫu áo dài được đăng trên truyền thông báo chí (báo giấy và báo mạng). - Tư liệu sách văn hóa nước ngoài: Nhằm tìm hiểu những mẫu áo sườn xám của phụ nữ Trung Hoa. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án sử dụng phương pháp luận về chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng làm phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài. NCS nhận thấy nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt là hiện tượng văn hóa luôn có xu hướng biến đổi. Đối tượng nghiên cứu được đặt trong thời gian lịch sử và không gian xã hội. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu điền dã : Để tìm hiểu diễn trình phát triển hình thành áo dài của phụ nữ Việt, NCS cần phải tìm hiểu nguồn gốc của thiết kế áo dài. Do đó để tiếp cận được vấn đề này, NCS sử dụng phương pháp điền dã, đi đến những địa danh như chùa có niên đại lịch sử lâu đời (thế kỷ XVII, XVIII, XIX) nhằm ghi chép, chụp ảnh, đo, khảo tả những chi tiết trên áo dài của các bức tượng nữ. Ngoài ra phương pháp điền dã cũng được sử dụng trong nội dung nghiên cứu áo dài hiện đại. Như việc thăm quan triển lãm, bảo tàng, tham dự lễ hội áo dài nhằm ghi chép, phân tích những yếu tố tạo hình thiết kế thông qua các mẫu áo và bộ sưu tập áo dài của các NTK. NCS triển khai phương pháp nghiên cứu điền dã theo các bước sau:

6

+ Thu thập tư liệu: Nhằm hệ thống hóa các tài liệu, luận cứ, hình ảnh… đã được công bố trong và ngoài nước liên quan đến áo dài của phụ nữ Việt. Trên cơ sở đó, phân loại, đánh giá những quan điểm nghệ thuật, giá trị thiết kế áo dài hiện đại. Đặc biệt, thu thập tư liệu còn giúp cho NCS có cơ sở chính xác, nhận định được những yếu tố tác động đến sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài và nghệ thuật thiết kế áo dài đã thay đổi trong bối cảnh văn hóa xã hội, đặc biệt là trào lưu hội nhập mang tính toàn cầu như hiện nay. + Phân tích tổng hợp: Việc tổng hợp và phân tích giúp NCS từng bước hệ thống hóa được diễn trình phát triển của áo dài và nghệ thuật thiết kế áo dài thông qua hệ thống các tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố cũng như những di sản bằng hiện vật. + So sánh: Nhằm tìm ra những giá trị nổi bật, khác biệt trong nghệ thuật thiết kế áo dài, NCS so sánh nhằm đối chiếu thiết kế áo dài của phụ nữ Việt với áo dài của một số tộc người thiểu số ở Việt Nam và áo sườn xám của Trung Hoa. Trên cơ sở đó xác định giá trị thiết kế áo dài của phụ nữ Việt cũng như những tác động qua lại của các yếu tố thiết kế trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa. - Phương pháp chuyên gia: Đề tài của luận án nghiên cứu về những vấn đề của nghệ thuật đương đại và đặc biệt về nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại. Đây là vấn đề còn khá mới, vì vậy việc thu thập tư liệu liên quan và những công trình nghiên cứu đi trước còn khá hiếm hoi. NCS đã gặp không ít những khó khăn trong việc thu thập tư liệu. Để khắc phục những khó khăn, NCS tiếp cận nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại thông qua phương pháp chuyên gia, như tiếp cận những người trực tiếp sản xuất vật liệu và các thợ may có liên quan trong lĩnh vực thiết kế áo dài như: Nghệ nhân làng nghề dệt và nhuộm lụa tơ tằm, các nhà may có thâm niên và uy tín trong thiết kế áo dài. Việc lựa chọn chuyên gia phỏng vấn được dựa theo từng vấn đề nội dung liên quan đến câu hỏi và giả

7 thuyết nghiên cứu của luận án mà NCS không thể tìm hiểu được qua những tư liệu, công trình đã công bố. Để tìm hiểu màu sắc, chất liệu dùng thiết kế áo dài, cũng như những tiếp thu khoa học công nghệ - kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất lụa. Do đó NCS gặp phỏng vấn thợ nhuộm Đỗ Văn Minh và nghệ nhân Nguyễn Thị Tâm (con dâu / hậu duệ của cố nghệ nhân Triệu Văn Mão) ở làng nghề dệt lụa Vạn Phúc. Lĩnh vực thiết kế, may áo dài: NCS đã lựa chọn 2 thế hệ có sự tiếp nối quan trọng trong 2 giai đoạn. Thế hệ thứ nhất đó là nghệ nhân Mỹ Hào ở địa chỉ 82 Cầu Gỗ, Hoàn Kiếm, Hà Nội và là người gốc làng nghề Trạch Xá. Ông có thâm niên làm nghề từ những thập niên 40 thế kỷ XX khi còn là một thanh niên trẻ. Tiếp theo là những nghệ nhân, các nhà thiết kế có thâm niên làm nghề từ những thập niên 1980, 1990, 2000 và cho đến nay họ đã có vị trí, uy tín trong lĩnh vực thiết kế áo dài như nghệ nhân Lan Hương, nhà tạo mẫu La Hằng, Hương Giang và một số NTK trẻ khác. Họ là những người trực tiếp tham gia vào thiết kế áo dài và định hướng thẩm mỹ mặc áo dài của một số nhóm phụ nữ trong xã hội giai đoạn những năm 1980 đến 2017. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Nghệ thuật học kết hợp với các ngành khác (Mỹ thuật học, sử học, xã hội học, dân tộc học…): Các thông tin tổng hợp được sẽ phân tích dưới góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật có sự so sánh, đối chiếu nhằm đưa ra những nhận định về những tiếp thu và biến đổi các yếu tố thiết kế áo dài như màu sắc, hình dáng, kết cấu, trang trí… và đặc điểm thiết kế áo dài hiện đại của những nhà thiết kế hiện nay. Đặc biệt phương pháp này còn giúp luận án nghiên cứu có góc nhìn khách quan và đa chiều hơn. 5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: “Khi các chúa Nguyễn vào định đô ở miền Trung (thế kỷ XVII), chiếc áo tứ thân đã tiếp nhận một số ảnh hưởng của

8 các loại áo dài trong văn hóa Chăm và được cải biến thành áo dài Việt” [54, tr 24]. Đây là nhận định của nhà nghiên cứu Hữu Ngọc về sự tiếp biến của áo dài Việt. Vậy câu hỏi đặt ra: Áo dài của phụ nữ Việt có tiếp thu những tạo hình áo dài của phụ nữ Chăm? Giả thuyết nghiên cứu 1: Tiền thân áo dài của phụ nữ Việt là áo năm thân cổ giao lãnh mặc kết hợp với chân váy dài và cũng là lần đầu tiên tiếp nhận kết cấu cổ áo và hình thức mặc áo cùng với quần của người Mãn Hán (theo hình thức ép buộc). Do đó chưa thấy áo dài của phụ nữ Việt tiếp thu yếu tố tạo hình của áo dài của phụ nữ Chăm. Câu hỏi nghiên cứu thứ 2: Áo dài của phụ nữ Việt đã tiếp thu những yếu tố nào khi có sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây? Cũng từ đó, áo dài đã biến đổi yếu tố tạo hình nào để trở thành trang phục tiêu biểu vừa có giá trị truyền thống, vừa có giá trị hiện đại? Giả thuyết nghiên cứu 2: Áo dài đã được tiếp thu các yếu tố hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và đặc biệt là hình thức trang trí mang đậm yếu tố Phương Tây. Giả thuyết nghiên cứu 3: Trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu, giao thoa văn hóa các vùng, miền và quốc gia trên thế giới đã tạo ra những thay đổi lớn tới nhận thức văn hóa và thị hiếu thẩm mỹ của con người trong xã hội. Sự giao thoa văn hóa đã tác động đến quan điểm thẩm mỹ, ý tưởng thiết kế và phương thức hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo của những NTK áo dài. Đặc biệt những nét văn hóa đặc sắc của các vùng, miền, quốc gia đã trở thành ý tưởng sáng tạo của các nghệ nhân và nhà thiết kế áo dài. Từ đó họ đã tạo nên những mẫu áo dài có giá trị nghệ thuật. Câu hỏi nghiên cứu thứ 3: Thiết kế áo dài có tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ, kỹ thuật vào ý tưởng sáng tạo và giải pháp kỹ thuật?

9

Giả thuyết nghiên cứu 4: Sự phát triển của khoa học công nghệ, kỹ thuật đã tác động đến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Do đó các nghệ nhân, NTK đã tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ, kỹ thuật trong việc xử lý hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải, lụa và trang trí trên áo dài. Chính điều này đã biến áo dài trở thành sản phẩm có giá trị nghệ thuật. 6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 6.1. Đóng góp khoa học Với mong muốn tiếp nối những người đi trước đã có những quan tâm nghiên cứu về trang phục truyền thống Việt Nam. Do đó kết quả của luận án có những đóng góp khoa học như sau: - Hệ thống hóa diễn trình hình thành và phát triển áo dài của phụ nữ Việt cả bằng văn bản và hình ảnh. - Luận án bổ sung và đóng góp một phần vào xây dựng hệ thống tư liệu chuyên ngành lý luận và lịch sử mỹ thuật nói chung và ngành thiết kế thời trang nói riêng. - Luận án sẽ là tài liệu hỗ trợ nghiên cứu trong giảng dạy của giảng viên các trường chuyên ngành văn hóa nghệ thuật, văn hóa dân gian, lý luận và lịch sử mỹ thuật và đặc biệt trong ngành thiết kế thời trang. - Luận án còn là tư liệu hỗ trợ các cơ quan quản lý văn hóa trong việc xác định các giá trị văn hóa nghệ thuật, định hướng giáo dục thẩm mỹ nhằm xây dựng nền văn hóa mặc của dân tộc: văn minh, hài hòa giữa yếu tố dân tộc và hiện đại. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Áo dài là một đề tài đã được rất nhiều chuyên gia về xã hội, văn hóa, dân tộc học… quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau ở những thập niên gần đây. Tuy nhiên dưới góc độ Nghệ thuật học, Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật còn chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống về nghệ thuật tạo hình áo dài của phụ nữ Việt một cách đầy đủ. Do đó, đề tài: Sự tiếp biến trong

10 nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017 là rất cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong xã hội hiện nay. Luận án còn đóng góp vào định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ về giá trị truyền thống và hiện đại trong văn hóa mặc của dân tộc. Một phần cũng minh giải cho một số nhận định chưa thỏa đáng về nguồn gốc hình thành của áo dài phụ nữ Việt hiện nay. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu 10 trang, kết luận 3 trang, tài liệu tham khảo gồm có 147 tài liệu và có 8 phụ lục (bao gồm 112 hình minh họa và 7 bảng). Nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và các vấn đề liên quan đến thiết kế áo dài (41 trang). Chương 2. Thiết kế áo dài và những tiếp thu – biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài từ những năm 1930 đến năm 2017 (67 trang). Chương 3. Luận bàn về sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt (51 trang).

11

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾT KẾ ÁO DÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Để tìm tính mới cho đề tài Sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt từ những năm 1930 đến năm 2017, NCS cần có những nghiên cứu tổng quan về các công trình đã công bố trong và ngoài nước ở các góc độ khác nhau. Trên cơ sở đó rút ra được những bài học và định hướng nghiên cứu của luận án. 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tiếp biến văn hóa nghệ thuật Năm 2006 công trình của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, với tác phẩm Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp của Nxb VHTT – Viện văn hóa, Hà Nội. Tác giả đã phác họa lại một quá trình tiếp xúc với văn hóa Pháp thời cận đại (1858 – 1945). Tác phẩm đã nhấn mạnh những diễn biến tư tưởng của người Việt Nam dưới tác động của hệ tư tưởng của Phương Tây và những biến đổi về tư duy trong văn học, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc. Những tác động hệ tư tưởng Phương Tây trong quá trình giao lưu văn hóa Việt – Pháp đã tạo đà hình thành một hệ tư tưởng mới trong văn hóa truyền thống của người Việt. Tác phẩm đã cung cấp tư liệu quí báu về quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa khi có sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Do đó thông qua tác phẩm, NCS có những thông tin cần thiết về những mốc thời gian, về diễn biến tư tưởng của người Việt... Từ đó là cơ sở xác định mốc sự kiện và những yếu tố tác động tới sự tiếp biến trong văn hóa mặc của người Việt. Năm 2012 tác giả Phạm Thị Phương Thái và Lee Mi Jung đã giới thiệu bài viết “Dấu ấn của giao lưu văn hóa Đông – Tây trong trang phục áo dài Việt Nam” trên tạp chí Khoa học và Công nghệ. Nội dung bài viết đề cập đến sự tác

12

động của văn hóa Phương Đông (nước Trung Hoa) và Phương Tây (nước Pháp) đến nguồn gốc hình thành áo dài qua quá trình giao lưu văn hóa. Trong những luận điểm của bài viết NCS đặc biệt chú ý nhận định về nguồn gốc của áo dài khi tác giả cho rằng: … áo tứ thân trang phục truyền thống của Việt Nam đã chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Qi Pao của Trung Quốc và được thay đổi hình dáng. Đặc biệt phần quần của Qi Pao đã ảnh hưởng đến áo tứ thân và tạo nên một kiểu trang phục mới gọi là áo năm thân. Nói một cách cụ thể, áo năm thân chịu ảnh hưởng theo phương pháp nối liền cổ áo và thay đổi từ váy sang quần của Qi Pao. Quá trình giao thoa đó đã ảnh hưởng dần tới những thiết kế may mặc của áo tứ thân cho đến năm thân. Từ chiếc áo tứ thân, năm thân, mớ ba mớ bảy truyền thống của người Việt kết hợp với đường xẻ eo táo bạo của chiếc Xường xám Trung Quốc – Qi Pao, đặc biệt là sự kết hợp với chiếc quần của cư dân du mục đã tạo nên một chiếc áo dài Việt Nam đẹp hoàn hảo trong thiết kế vừa tinh tế, gợi cảm nhưng vẫn vô cùng kín đáo... [133]. Nhận định này của các tác giả là một vấn đề quan trọng mà NCS cần đặt thành câu hỏi nghiên cứu trong luận án về nguồn gốc tạo hình áo dài của phụ nữ Việt. Chính điều này NCS cần phải có những nghiên cứu làm rõ về những tiếp biến trong tạo hình áo dài của phụ nữ Việt, đặc biệt là yếu tố tạo hình nào trên áo dài được tiếp thu và biến đổi, thích nghi để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ Việt ở các giai đoạn lịch sử khác nhau ở Việt Nam. Bài viết của 2 tác giả tuy ngắn nhưng đã đưa ra những thông tin về sự tiếp biến của nguồn gốc hình thành áo dài hiện đại. Đây cũng là tư liệu cần thiết để NCS tham khảo cho nội dung của luận án. Tác phẩm Tiếp nhận văn hóa ở Việt Nam Âu – Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1858 – 1975 và Tiếp nhận văn hóa ở Việt Nam Âu – Mỹ ở Việt Nam giai đoạn

13

1975 đến nay của tác giả Lương Văn Kế chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013. Nội dung tác phẩm đề cập khá sâu rộng những vấn đề về quá trình giao lưu và tiếp nhận văn hóa Phương Tây ở Việt Nam. Tác giả cho rằng văn hóa Phương Tây đã có ảnh hưởng liên tục và toàn diện tới đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam, từ hạ tầng kinh tế, chính trị, pháp luật, tư tưởng, tôn giáo và đặc biệt là đến văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật … Những thành tựu đó có sức lan tỏa rộng lớn về không gian và sức sống lâu bền về thời gian. Nhận định của tác giả là nguồn tư liệu, cơ sở lý luận, luận giải về những tác động của quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Phương Tây tới sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Năm 2015, nhóm tác giả Nguyễn Thị Kim Loan (chủ biên), Nguyễn Thị Kim Chi và Nghiêm Xuân Mừng giới thiệu với công chúng tác phẩm Giao lưu văn hóa Việt – Pháp thời cận đại qua dữ liệu Văn hóa, Nghệ thuật. Nội dung tác phẩm cung cấp quy luật phát triển của văn hóa khi xã hội có những diễn biến mạnh mẽ về chính trị, tổ chức xã hội và kinh tế. Nội dung tác phẩm đặc biệt nhấn mạnh về những biến đổi trong tư duy của một số loại hình văn hóa nghệ thuật như: Văn học, hội họa, kiến trúc và âm nhạc khi có sự giao lưu, tiếp xúc với nền văn hóa Phương Tây ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của Việt Nam. Theo nhóm tác giả, đây chính là giai đoạn quan trọng tạo bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam theo xu hướng hiện đại hóa, đưa nền văn hóa - nghệ thuật Việt Nam mang tính chất khu vực trở thành nền văn hóa – nghệ thuật mang tính quốc tế. Những tư liệu khảo cứu và cơ sở lý luận của tác phẩm là tư liệu quý giá cho nội dung nghiên cứu đề tài luận án của NCS. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ Văn hóa Năm 2002, tác giả Phạm Đăng Trí có bài viết “Qua những tà áo, thử tìm hiểu thị hiếu về màu sắc của người Huế thủa trước” trong cuốn Nghiên cứu Huế, Tập IV, tr 188. Tác giả cho rằng màu sắc và thị hiếu thẩm mỹ được xây

14 dựng trong quá trình tác động giữa con người Huế với màu sắc thiên nhiên trong môi trường sống. Với những quan niệm đặc trưng của người Huế như “Đối với màu tím, phụ nữ Huế quan niệm đó là một sắc trang nhã. Trông không buồn mà chỉ như mỉm cười. Không quá nồng nàn như bông hoa lài mà thoang thoảng như hương lan thanh đạm và tế nhị” [79]. Tác giả còn đối sánh màu sắc qua “kính khoa học” và nhận thấy “màu tím nằm dưới cùng trong quang phổ, phát ra bước sóng ngắn và sức sáng nhẹ nhàng…” [79]. Ông cho rằng phụ nữ Huế chọn màu tím là phù hợp với đức tính cũng như thể hiện sự “tinh tế” trong thị hiếu thẩm mỹ trên trang phục. Ngoài ra trong bài viết tác giả còn đề cập đến thị hiếu thẩm mỹ trang phục của nam giới và theo lứa tuổi. Bài viết tuy ngắn gọn nhưng đủ để cung cấp thông tin cho độc giả cũng như NCS về những quan niệm văn hóa và thẩm mỹ sử dụng màu sắc trên trang phục của người Huế xưa. Và thêm một nghiên cứu khẳng định giá trị văn hóa mặc của con người được xây dựng từ chính thiên nhiên, môi trường sống. Năm 2012, tác giả Đỗ Thị Hòa đã giới thiệu tác phẩm Trang phục các dân tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, Tày – Thái, Kađai, Nxb Văn hóa Dân tộc – Hà Nội. Đây là tác phẩm thuộc dự án của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, với mục đích là sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền dạy vốn văn hóa – văn nghệ dân gian các tộc người Việt Nam. Trong nội dung, tác giả đã lần lượt trình bày nghiên cứu theo một thứ tự thống nhất: giới thiệu về trang phục của tộc người, trang phục của trẻ em, trang phục cưới hỏi, trang phục tang lễ, trang phục thầy mo, điểm đặc biệt ở cuối mỗi tộc người, tác giả còn phân tích về giá trị thẩm mỹ của trang phục. Tác giả nhận định, giá trị thẩm mỹ của trang phục được nhìn nhận ở nhiều góc độ, như nghệ thuật tạo hình trang phục, nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục, màu sắc trang phục, …và sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người. Qua công trình nghiên cứu này, đã gợi mở cho NCS về hướng nghiên cứu của đề tài, đặc biệt về phương pháp

15 tiếp cận nghệ thuật tạo hình trang phục của các nhóm người. Tuy nhiên, trong công trình tác giả nghiên cứu trang phục theo nhóm ngôn ngữ, nhưng tác giả đã tập trung nghiên cứu cộng đồng tộc người thiểu số mà hạn chế đề cập đến tạo hình của áo dài của phụ nữ Việt. Tác phẩm Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức, xuất bản năm 2013, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác phẩm đã có những bước nghiên cứu về trang phục thời phong kiến khác so với những công trình trước đây, như phương pháp khảo cứu và giải mã tài liệu cổ do vậy đã có những kết quả tin cậy. Nội dung tác giả mô tả tỉ mỉ bằng ngôn ngữ và hình ảnh về màu sắc, chất liệu, họa tiết trên trang phục ở các thời kỳ. Đặc biệt tác giả còn có sự đối sánh trang phục với một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Cuốn sách là nguồn tư liệu đáng quí về trang phục cổ truyền ở Việt Nam. Ngoài ra cuốn sách còn gợi mở về phương pháp nghiên cứu, khảo cứu những vấn đề liên quan đến những nguồn tư liệu mang tính lịch sử. Tuy nhiên tác phẩm không đi sâu vào nghiên cứu giá trị nghệ thuật tạo hình trang phục truyền thống mà chỉ mang tính khảo cứu trang phục các thời kỳ. Năm 2014, tác giả Hữu Ngọc xuất bản cuốn sách Lãng du trong văn hóa Việt Nam, trong đó có bài “Chiếc áo dài – Một thách thức với cụ Khổng” , Nxb Thế giới, Hà Nội, tr 775. Bài viết được tác giả viết khá ngắn gọn nhưng hàm chứa những thông tin về nguồn gốc ra đời của áo dài, cũng như sự tiếp nhận trang phục áo dài như một cuộc cải cách chống lại lễ giáo Khổng học mà trước đấy đã bị ảnh hướng trên 1000 năm. Sự tiếp nhận áo dài của xã hội không hẳn về tính thẩm mỹ mà nó còn hàm chứa những tư tưởng sâu sắc và sự chấp nhận của con người trong xã hội trước. Năm 2014, ông tiếp tục xuất bản cuốn Áo dài – Women’s Long Dress cùng với nhà văn Lady Borton. Nội dung của tác phẩm viết theo cấu trúc hỏi và trả lời liên quan đến áo dài. Các dạng câu hỏi như: áo tứ thân xuất hiện từ bao giờ và quá trình phát triển thành áo dài hiện đại như

16 thế nào, chiếc áo dài phát triển qua thời gian hay cuộc cách tân bắt đầu từ khi nào… Nội dung trả lời của các câu hỏi giúp cho NCS có được những gợi mở về nội dung của luận án. Tác giả cho rằng: “áo dài được thiết kế ảnh hưởng từ áo dài của người Chăm”. Đây là vấn đề NCS cảm thấy băn khoăn, liệu có phải áo dài của phụ nữ Việt được tiếp biến từ áo dài của người Chăm, mà nếu có thì nó tiếp biến ở phần nào trong yếu tố thiết kế, hay sự tiếp biến đó như thế nào?... Đây chính là điều mà NCS băn khoăn và cần phải tìm câu trả lời trong luận án. Tác phẩm tiếp theo mà NCS rất ấn tượng đó là Nhiếp ảnh hiện thực và Việt Nam – cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 của Nxb Thế giới xuất bản năm 2015 do Phan Cẩm Thượng dẫn giải. Đây là cuốn sách giới thiệu những bức ảnh chụp về con người và môi trường sống ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tác phẩm có giá trị thông tin cao do những nhiếp ảnh gia Pháp thực hiện. Ở đây NCS có thể thấy người phụ nữ xưa mặc những mẫu áo dài năm thân truyền thống và những mẫu áo dài tại thời điểm có sự giao thoa văn hóa Pháp. Năm 2018, Nxb Hồng Đức và Sách Khai Tâm giới thiệu tác phẩm Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay của tác giả Phạm Thảo Nguyên. Cuốn sách có 2 phần, phần thứ nhất đó là lịch sử, những diễn biến ra đời và phát triển của áo dài Lemur. Phần thứ 2 là những diễn biến chính trị xã hội và những tác động liên quan đến báo Phong Hóa & Ngày Nay. NCS đặc biệt chú ý đến phần 1, tác giả đã cung cấp khá nhiều nội dung đáng tin cậy về diễn biến ra đời cũng như sự phát triển của áo Lemur trong xã hội lúc bấy giờ. Có 2 điểm mà NCS đặc biệt chú ý khi tác giả nhấn mạnh: Thứ nhất là Cát Tường đưa ra mẫu áo dài Lemur đầu tiên. Điểm chia hai tà áo trước sau, cũng trễ dười eo độ 8cm. Điều khác biệt nhất chỉ là eo áo được nhấc nhẹ: hơi sát vào bụng. Vậy Cát Tường chưa cải tiến chỗ chia hai vạt áo dài sau, trước, mà chỉ sửa cho eo áo nhỏ lại thôi [56, tr 17]. Như vậy trong các mẫu thiết kế của ông từ mẫu ban đầu cho những mẫu thiết kế về sau đã có nhiều cải tiến. Hay việc ông thiết kế

17

áo Lemur mặc với áo yếm, về sau cũng thay đổi áo Lemur mặc với áo lót ngực (corset) do chính ông thiết kế phối hợp cùng với chủ hiệu Cự Chung để sản xuất áo lót ngực phục vụ chị em mặc áo Lemur [56, tr 27]. Thứ hai là Tất cả áo dài tân thời kiểu mới khoảng 1934 – 1941 đều do họa sĩ Cát Tường vẽ trong mục Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô trên báo Phong Hóa & Ngày Nay và đặc san Đẹp Mùa Nực 1934, đặc san ĐẸP 50 Mẫu Y Phục Phụ Nữ, trong chuyến đi xuyên Việt 1935 của ông… [56, tr 29]. Và tác giả cũng khẳng định họa sỹ Lê Phổ có một trang vẽ nữ trang, ông không hề thiết kế áo dài bao giờ [56, tr 28]. Như vậy những thông tin mà tác giả cung cấp khá quan trọng, giúp NCS bổ sung và xác định phong cách tạo hình cũng như đặc điểm thiết kế áo dài Lemur giai đoạn 1934 – 1940. Tuy nhiên thông tin họa sỹ Lê Phổ không thiết kế áo dài mà tác giả cung cấp cũng là gợi ý cho NCS đi sâu nghiên cứu về thiết kế áo dài thời điểm này. Bởi từ lâu trong xã hội đều coi mẫu áo dài cổ đứng tà thụng là mẫu thiết kế của Lê Phổ và chính mẫu áo đó cũng được gọi thành tên rất cụ thể áo dài Lê Phổ. Thiết nghĩ, có lẽ chính những tác phẩm hội họa của họa sỹ Lê Phổ vẽ thiếu nữ mặc áo dài thống nhất về kiểu dáng là lý do hình thành tên gọi áo dài Lê Phổ chăng. Như vậy, những nội dung mà tác giả Phạm Thảo Nguyên cung cấp trong tác phẩm đều là những thông tin quí giúp NCS có cơ sở lý luận thực hiện trong luận án. 1.1.3. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ Mỹ thuật Công trình Nghệ thuật trang phục Thái của tác giả Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa dân tộc – Trung tâm Văn hóa Việt Nam, năm 1990. Đây là công trình nghiên cứu công phu của tác giả về trang phục của người Thái. Tác giả đã chia nội dung vấn đề ra thành 4 phần, NCS quan tâm đến 2 phần cuối, đó là phần nội dung thứ 3 và thứ 4 của tác phẩm. Tác giả đã đề cập đến một yếu tố khá gần với nội dung nghiên cứu đề tài của NCS, đó là yếu tố thẩm mỹ trang phục

18 và nghệ thuật tạo hình trang phục của người Thái. Tác giả cho rằng: Trang phục Thái đáp ứng được nhu cầu mặc của con người cả về giá trị sử dụng và giá trị thẩm mỹ. Qua nội dung nghiên cứu phần ba của công trình này, đã gợi mở cho NCS cách tiếp cận của đề tài nghiên cứu về “Nghệ thuật thiết kế áo dài”. Nghệ thuật tạo hình trang phục của người Thái là sự kết hợp của các yếu tố như nghệ thuật trang trí dân gian và quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng xã hội, tự nhiên và đặc biệt phải dựa trên đặc điểm nhân chủng học, thông số kỹ thuật của khổ vải… Phần thứ 4, tác giả nghiên cứu về sự giao lưu văn hóa qua trang phục. Nhìn chung, công trình nghiên cứu đã gợi mở phương pháp, hướng tiếp cận vấn đề cho nghiên cứu nội dung đề tài của NCS. Tác giả Đoàn Thị Tình có bài viết: “Áo dài phụ nữ Việt Nam” trong cuốn Tìm trong di sản Văn hóa Việt Nam Thăng Long - Hà Nội, năm 2002, Nxb Văn hóa – Thông tin, tr 135 – 142. Tác giả đã trình bày khá kỹ về lịch sử phát triển cùng với hình minh họa rõ ràng của áo dài phụ nữ hà thành từ thời phong kiến – áo tứ thân, rồi đến năm thân, áo dài Cát Tường, Lê Phổ... Bài viết là nguồn tài liệu lịch sử quý cho luận án về tiến trình phát triển của áo dài Việt Nam giúp NCS có cơ sở xác định các mốc phát triển và thay đổi trong kết cấu áo dài. Công trình nghiên cứu Trang phục Thăng Long (Tủ sách Thăng Long) của tác giả Đoàn Thị Tình, Nxb Hà Nội năm 2010 là tài liệu quý về trang phục truyền thống của người Việt. Tác giả đã cung cấp những thông tin khá chi tiết về trang phục qua các thời kỳ lịch sử dân tộc. Từ những quy định trong tạo hình, màu sắc và trang trí ở mỗi triều đại giống và khác nhau như thế nào. Tác giả còn miêu tả về từng kiểu dáng và cách mặc trong cung đình và trong dân gian một cách chi tiết, giúp người đọc hình dung khá dễ dàng. Cuốn sách còn cho thấy được hướng nghiên cứu và đối chiếu thông tin, dữ liệu lịch sử một cách khoa học và tin cậy. Đây cũng là điểm mấu chốt mà NCS đã học về cách

19 tiếp cận vấn đề nghiên cứu của đề tài. Cuốn sách là tài liệu hữu ích khi nghiên cứu về trang phục cổ dưới góc nhìn mỹ thuật và nghệ thuật. Tác phẩm Mỹ thuật nữ phục truyền thống Việt Nam của tác giả Cung Dương Hằng xuất bản năm 2011, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội đã đề cập đến những hình mẫu thị hiếu và hình mẫu đặc trưng qua nữ phục truyền thống của một số tộc người ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của tác giả, NCS đặc biệt chú ý về phương pháp diễn giải và áp dụng tỷ lệ vàng vào việc giải mã tính mỹ thuật trên nữ phục của các tộc người điển hình, trong đó có áo dài phụ nữ Việt. Ý tưởng và phương pháp nghiên cứu của tác giả khá hay, tuy nhiên do tác giả nghiên cứu 5 tộc người của các hệ ngôn ngữ khác nhau nên có phần hơi rộng, nó mang tính chất giới thiệu và liệt kê. Vì thế tác giả vẫn chưa lý giải được giá trị văn hóa và nghệ thuật tạo hình trang phục của các tộc người một cách sâu sắc. Tuy nhiên những nghiên cứu này của tác giả cũng giúp cho NCS có một cái nhìn mới về áp dụng lý thuyết tỷ lệ vàng của người Phương Tây vào lý giải về tạo hình mỹ thuật trên trang phục của các tộc người, trong đó có áo dài của phụ nữ Việt. Năm 2012 tác giả Dương Kim Đức có bài viết đăng trên tạp chí Asian culture and History của Trung tâm khoa học và giáo dục Canada (Canadian center of science and Education) với nội dung “Aesthetic Sense of the Vietnamese through Three Renovantions of the Women’s Ao dai in the 20th Century / Ý thức thẩm mỹ của người Việt Nam thông qua ba lần cải tạo bộ áo dài của phụ nữ trong thế kỷ 20”. Nội dung bài viết về những lần cải tạo đổi mới áo dài được tác giả đề cập phân theo ba mốc thời gian, đầu tiên là những năm đầu thế kỷ XX (1930), thứ hai là những năm 1960 - 1970, thứ ba là từ những năm 1990. Ở mỗi lần cải tạo đổi mới áo dài, tác giả đều đưa ra bối cảnh xã hội và nhân vật, người thiết kế điển hình trong những lần đổi mới. Bài viết đề cập khá chi tiết và có cái nhìn khách quan của cả quá trình cải tạo, biến đổi của áo

20 dài ở thế kỷ XX. Tuy nhiên, bài viết chỉ đề cập đến ý thức thẩm mỹ của quá trình cải tạo áo dài mà chưa đề cập đến những cải tiến, biến đổi áo dài là do tiếp thu những văn minh, tiến bộ khoa học… của văn hóa Phương Tây. Thế kỷ XX người Việt đã có những tiếp xúc với văn hóa Phương Tây, đã tiếp thu những tư tưởng mới trong thẩm mỹ, tư duy thiết kế, đặc biệt là tiếp thu về khoa học kỹ thuật vào thiết kế áo dài. Dù sao bài viết giúp NCS thấy được cái nhìn tổng quát hơn về những biến đổi trong thẩm mỹ của người Việt qua cải tiến áo dài ở thế kỷ XX, cũng như việc xác định, phân chia mốc thời gian nghiên cứu về biến đổi thiết kế áo dài. Bài viết “Y phục của phụ nữ” của tác giả Nguyễn Cát Tường được đăng tải trên báo Phong Hóa năm 1934, nay đăng trên Tạp chí mỹ thuật – 1/ 2013. Tác giả đã viết “Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân, song, nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ tri thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của nước họ, ta cũng đủ hiểu…” [84]. Tác giả đã nhận định vai trò của mỹ thuật trên trang phục, nó không chỉ là để mặc mà nó thể hiện tính thẩm mỹ của cả dân tộc. Tuy nhiên cái thẩm mỹ ấy cũng phải phù hợp với văn hóa, môi trường sống của con người. Tác giả cũng đưa ra những gợi ý “sống thời buổi nào, theo thời buổi ấy”, hay “Vẫn biết rằng mỗi bước tiến là một bước hay, mỗi điều mới là một điều lạ, song bước vội hay ngã, mà mới quá có thể làm ta chướng mắt” [84]. Với tư tưởng cải cách tân tiến trong cách mặc trang phục, ông nói “nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, với mực thước của thân hình mỗi bạn; sau đó nó phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ…” [84]. Nguyễn Cát Tường đã trở thành một nhân tố trong phong trào cải cách trang phục và áo dài truyền thống phụ nữ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ XX. Trong luận án, NCS sẽ đề cập đến những vấn đề tiếp biến trong thiết kế áo dài. Do đó quan điểm của ông sẽ là cơ sở nghiên cứu cho luận án.

21

Từ những nhóm công trình nghiên cứu đi trước, NCS nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu áo dài dưới góc độ liên ngành nghệ thuật học, Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật, để soi chiếu sự tiếp biến nghệ thuật thiết thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Do đó, đây sẽ là khoảng trống để NCS tìm tòi, khám phá và trở thành đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ này. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Các khái niệm liên quan 1.2.1.1. Áo dài Áo dài là một loại trang phục phổ biến trong dân gian và cung đình của cả nam và nữ thời phong kiến. Nó được sử dụng cho tới khi giải phóng miền Bắc năm 1954, từ đây nam giới không còn mặc áo dài phổ biến như trước. Kết cấu và hình dáng tương tự nhau, đó là dáng áo thân dài suôn thẳng đến bắp chân, kết cấu năm thân cổ đứng và mặc phủ bên ngoài quần. Tác giả Hoàng Phê đã giải nghĩa về áo dài như sau: “áo dài đến giữa ống chân, khuy cài từ cổ xuống nách và một bên hông” [57]. Như vậy tác giả đã giải nghĩa theo hình thức mô tả hình dáng và kết cấu áo dài. Còn tác giả Hữu Ngọc lại giải nghĩa: Áo dài có nghĩa là áo thân dài [54]. Ông cũng cho biết, hiện nay “áo dài” cũng được đưa vào Từ điển New World College của Webster định nghĩa: Áo dài là trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, gồm một chiếc áo dài, cổ cao, bó sát thân, xẻ dọc hai bên lên tới eo, mặc bên ngoài một chiếc quần rộng [54]. - Áo dài truyền thống: Là kiểu áo được hình thành từ trong văn hóa, môi trường địa lý, khí hậu của người Việt, như những nguyên liệu trong môi trường thiên nhiên tạo nên chất liệu vải và màu sắc. Hay nhu cầu, thói quen sử dụng trang phục đã hình thành nên hình dáng và kết cấu áo dài… Tác giả Hoàng Phê cũng giải nghĩa thuật từ “truyền thống”: I. Thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này

22 sang thế hệ khác. II. Có tính chất truyền thống, được truyền lại từ các đời trước [57]. Như vậy truyền thống là những thói quen, nếp nghĩ được hình thành từ lâu đời, truyền từ đời này sang đời khác ăn sâu vào tư duy, thẩm mỹ của con người trong xã hội. Truyền thống trong văn hóa mặc ở Việt Nam điển hình có yếm, áo tứ thân, váy quấn hay màu sắc có màu nâu, màu đen, màu chàm… Bởi đây là những kiểu trang phục, màu sắc xuất hiện từ thời xa xưa, gắn liền với đời sống, văn hóa, môi trường địa lý của người Việt. Do đó, NCS cho rằng áo dài truyền thống chính là áo dài giao lãnh và áo dài năm thân. - Áo dài hiện đại: Là loại áo được hình thành khi có sự áp dụng của khoa học kỹ thuật mới vào thiết kế hình dáng, chất liệu, màu sắc… Thuật ngữ “hiện đại” cũng được tác giả Hoàng Phê cho rằng: I. Thuộc về thời đại ngày nay. II. Có áp dụng những phát minh, những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật ngày nay [57]. Như vậy, NCS nhận thấy chính chiếc áo dài 2 tà đã được áp dụng khoa học kỹ thuật và phương pháp thiết kế mới như công nghệ dệt vải khổ rộng và công thức toán học của Phương Tây. Khi thiết kế sử dụng vải khổ lớn đã biến đổi áo dài từ 5 thân trở thành 3 thân và cuối cùng 2 thân – còn gọi là áo 2 tà. Hay từ dáng áo dài rộng suông thẳng khi thiết kế theo phương pháp chiết ly đã giúp chiếc áo có độ vừa vặn ôm sát cơ thể của người mặc. Như vậy áo dài hiện đại được xác định từ những năm 1930. 1.2.1.2. Thiết kế và nghệ thuật thiết kế Khái niệm về thiết kế và nghệ thuật thiết kế ra đời khi nhận thức của con người đã tiến bộ. Khái niệm về thiết kế được tác giả Hoàng Phê giải nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt như sau: Thiết kế là lập tài liệu kỹ thuật toàn bộ, gồm có bản tính toán, bản vẽ…, để có thể theo đó mà xây dựng công trình, sản xuất thiết bị, sản phẩm... [57]. Như vậy với khái niệm này có thể nhận định: Thiết kế

23 chính là một phương thức mô phỏng đối tượng được số hóa và thể hiện trên mặt phẳng 2D (2 chiều) thông qua bản vẽ. Thuật ngữ “thiết kế” được sử dụng trong sáng tác mẫu áo dài vừa chỉ sự sáng tạo, nhưng đồng thời còn chỉ đến những tiêu chí về việc mô phỏng hình dáng kết cấu áo dài thông qua số hóa, kỹ thuật trên bản vẽ. Theo quan điểm của chủ nghĩa Bauhaus (chủ nghĩa thiết kế công năng và được hình thành ở Đức vào năm 1919), “Thiết kế” - Design là thuật ngữ có tính chất rộng thuộc về nghệ thuật thị giác, nó thể hiện sự sáng tạo trong quá trình thiết kế, không bị tác động bởi cảm xúc cá nhân của người thiết kế, mà hướng đến tâm lý, giới tính, lứa tuổi của cộng đồng xã hội. Do đó sản phẩm không phải là sản phẩm đơn chiếc, mà nó là sản phẩm đại trà, có số lượng. Về giá trị thẩm mỹ, có thể đáp ứng được đại đa số cộng đồng người trong xã hội, mang lại lợi ích kinh tế và tạo nên được bản sắc riêng. Những sản phẩm design thuộc sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Vậy “design” có nghĩa là phác thảo, thuật vẽ, thiết kế, bản vẽ, là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác, công việc của sự sáng tạo… và lập kế hoạch cho sản phẩm công nghiệp [88, tr 8]. Trong thời đại công nghiệp hiện đại, khi khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, design cũng theo hướng tư duy hiện đại, ngoài tính công năng còn thể hiện hình thức đẹp, thuận tiện khi sử dụng, giá thành hợp lý, dễ nhận diện sản phẩm và có bản sắc. Như vậy, các sản phẩm của design gắn kết chặt chẽ với đời sống thực tế của con người trong xã hội, với văn hóa vật chất và thỏa mãn tinh thần của con người trong xã hội. Những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu XXI, người thiết kế đã vận dụng những nguyên tắc design trong thiết kế áo dài như một tiêu chuẩn quan trọng. Từ việc lên ý tưởng, phác thảo, thiết kế bản vẽ và nghiên cứu phương pháp hiện thực hóa ý tưởng trên áo dài được thực hiện một cách chuyên nghiệp. Do đó đã đáp ứng được công năng sử

24 dụng cũng như thẩm mỹ và có dấu ấn cá nhân của người thiết kế trên mỗi sản phẩm áo dài. Nghệ thuật là sự sáng tạo của con người thông qua cảm xúc, nghệ thuật phản ánh các tiêu chuẩn cái đẹp, khéo léo và sáng tạo. Nghệ thuật thiết kế sử dụng các yếu tố tạo hình, các kỹ thuật nhằm thể hiện nội dung, quan điểm, tư duy sáng tạo của con người. Tác giả Đặng Thị Bích Ngân có giải nghĩa về “Nghệ thuật” trong Từ điển Mỹ thuật phổ thông như sau: Trong mỹ thuật, nghệ thuật là sự sáng tạo của con người thông qua cảm xúc, sự quan sát tinh tế và đôi bàn tay thành thục nghề… Người nghệ sỹ tinh tế phát triển được các yếu tố khác nhau trong nội dung, trong kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật [50]. Vậy khái niệm về “nghệ thuật thiết kế” chính là sáng tạo những sản phẩm vừa mang tính khoa học, đảm bảo quy chuẩn về các thông số kỹ thuật nhưng đồng thời vừa có giá trị thẩm mỹ về hình dáng, kết cấu, màu sắc… và sự thuận tiện trong sử dụng. Ngày nay nghệ thuật thiết kế và nghệ thuật trang trí được các NTK gắn kết, phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm tạo ra những sản phẩm có giá trị về công năng cũng như nghệ thuật. Vậy “nghệ thuật thiết kế áo dài” là sự sáng tạo dựa trên các yếu tố hình dáng, đường nét, màu sắc, chất liệu vải, trang trí… kết hợp với nguyên tắc tạo hình nhằm tạo nên những mẫu áo dài có giá trị nghệ thuật. Tuy có cùng ngôn ngữ tạo hình với hội họa, điêu khắc, tạo dáng… nhưng sự sáng tạo trong thiết kế áo dài được ứng dụng mặc trên cơ thể người, đó chính là tạo hình không gian 3 chiều/ 3D có hoạt động. Do đó những sản phẩm áo dài vừa phải đảm bảo yếu tố khoa học, kỹ thuật, nhân trắc và yếu tố mỹ thuật.

25

1.2.1.3. Tiếp biến - Tiếp biến: Trong Từ điển Tiếng Việt giải nghĩa: “Tiếp là 1. Liền với, trong không gian; giáp. 2. Liền theo sau, làm thành sự liên tục trong thời gian. 3. Ghép … 4. Đưa thêm vào để cho có đủ, đảm bảo hoạt động được liên tục…” [57]. “Biến là 1. Thay đổi hoặc làm cho thay đổi từ trạng thái, hình thức này sang trạng thái, hình thức khác.” [57]. Vậy từ 2 khái niệm trên, tiếp biến được cắt nghĩa như sau: Tiếp biến là sự tiếp nối của một sự việc trước đó, nhưng lại được biến đổi so với sự việc ban đầu. Vậy tiếp biến trong văn hóa chính là quá trình thay đổi văn hóa và thay đổi tâm lý đó cũng là kết quả theo sau cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Hay đó chính là sự tiếp thu, hấp thụ nền văn hóa khác. Từ đó biến đổi những văn hóa đã được tiếp thu cho phù hợp thị hiếu thẩm mỹ bản địa. - Tiếp biến nghệ thuật thiết kế: là quá trình tiếp thu ngôn ngữ tạo hình cũng như phương pháp và kỹ thuật của một nền nghệ thuật khác. Trong quá trình tiếp thu đó sẽ được biến đổi phù hợp với văn hóa, thị hiếu thẩm mỹ và nhu cầu của xã hội đương thời. Giai đoạn những năm 1930 TK XX, khi có sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây, áo dài năm thân của phụ nữ Việt có nhiều biến đổi trong thiết kế như về phương pháp, kỹ thuật, chất liệu. Việc áp dụng công nghệ dệt vải khổ rộng vào thiết kế đã giúp giảm số lượng đường can ghép trên thân áo, từ 5 thân thành 2 thân. Đặc biệt việc tiếp thu phương pháp thiết kế trang phục của người Phương Tây vào kỹ thuật cắt may áo dài, đã làm hoàn thiện hình dáng, kết cấu áo dài, tạo nên những mẫu áo dài có kích thước vừa vặn với kích thước của cơ thể người phụ nữ hơn so với trước đây. Tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài không chỉ tiếp thu và biến đổi hình dáng, kết cấu mà còn có sự biến đổi về màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí của áo dài. Và những biến đổi trong thiết kế áo dài đã được gọi theo nhiều cách khác nhau như áo dài cách tân hay cải tiến.

26

Từ khái niệm trên có thể rút ra những luận điểm như sau: - Tiếp thu nghệ thuật thiết kế: Là sự học hỏi những phương pháp, kỹ thuật, công nghệ và quan điểm thẩm mỹ tạo hình từ một người khác, nền văn hóa khác hay nước khác… nhằm ứng dụng vào thiết kế cho ra những sản phẩm mới. - Biến đối nghệ thuật thiết kế: Là sự tiếp thu những phương pháp, kỹ thuật, công nghệ và thẩm mỹ tạo hình từ một người khác, nền văn hóa hay nước khác… trong sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên những tiếp thu ấy được thay đổi phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ và nhu cầu thực tế của con người trong xã hội đương thời. 1.2.2. Lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu Luận án nghiên cứu dựa trên các lý thuyết như sau: Thứ nhất là: Lý thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa Giao lưu văn hóa là một thuật ngữ được sử dụng khá nhiều trong những giai đoạn gần đây, khi những nhà nghiên cứu văn hóa đặt vấn đề nghiên cứu về các nền văn hóa, văn minh của quốc gia, dân tộc. Trong những công trình nghiên cứu văn hóa nhân loại, các tác giả thường đề cập đến thuật ngữ “acculturation” để phân tích những giá trị văn hóa. Thuật ngữ “ acculturation” được các nhà văn hóa học Việt Nam dịch ra thành nhiều thuật ngữ khác nhau như hỗn dung văn hóa, đan xen văn hóa, tiếp biến văn hóa, giao thoa văn hóa và tương tác văn hóa. Định nghĩa của R.Ridifield, R. Linton, M.Hercovits thì acculturation là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra sự biến đổi mô thức văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm. Như vậy, qua cách hiểu trên, NCS lựa chọn thuật ngữ tiếp biến văn hóa, bởi trong nội hàm của khái niệm cho thấy, có sự tiếp xúc văn hóa của ít nhất hai nhóm người có văn hóa khác nhau, khi tiếp xúc với nhau sẽ tạo nên những

27 biến đổi mới so với văn hóa ban đầu. Để tạo ra sự biến đổi này, phải diễn ra các quá trình như trao đổi, di chuyển và đan xen. Tác giả Hữu Ngọc cho biết định nghĩa về “Tiếp biến văn hóa” của UNESCO Châu Á năm 1978 ở Téhéran như sau: “Đó là sự tiếp xúc giữa những nhóm người khác nhau về văn hóa, do đó sinh ra những sự thay đổi về văn hóa (ứng xử, giao tiếp, tư duy) ở trong mỗi nhóm” [129]. Ông cũng cho biết trong Từ điển tiếng Pháp (năm 1997) giải thích tiếp biến văn hóa là “quá trình một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một nhóm khác, tiếp thu (tự nguyện hay bắt buộc, toàn bộ hay từng bộ phận) nền văn hóa của nhóm này, có hoặc không có ý thức” [129]. Tiếp biến văn hóa thể hiện qua hai phương thức: Thứ nhất là bạo lực có tính chất đối đầu/ xung đột văn hóa (qua chiến tranh xâm lược). Ở phương thức này có thể thấy vào thời phong kiến ở nước ta (dù là Bắc thuộc hay tự chủ độc lập) thể chế về trang phục cung đình có ảnh hưởng lớn của thể chế trang phục Trung Hoa, vừa mang tính bắt buộc nhưng cũng vừa mang tính tự nguyện (Triều đại nhà Lý, Trần, Lê đều tự nguyện tham khảo thể chế trong Tam tài đồ hội về hình thức trang phục). Thứ hai là: Phương thức hòa bình, tức là đối thoại văn hóa/ văn minh (qua buôn bán, truyền bá tôn giáo tư tưởng, trao đổi văn hóa nghệ thuật). Tuy nhiên cả hai phương thức tiếp biến này không hoàn toàn tồn tại độc lập, nó hiện diện đan xen cùng nhau. Ở Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc, phương thức tiếp biến vừa có tính chất bạo lực – bắt buộc nhưng cũng vừa có tính tự nguyện tiếp nhận những văn minh tiến bộ của Phương Tây, biểu hiện rõ nhất là trong văn hóa mặc, đặc biệt trong thiết kế áo dài. Giao lưu văn hóa diễn ra nhiều cấp độ khác nhau, từ sự tiếp xúc, tiếp nhận các giá trị văn hóa mới mà không gây ra những biến đổi về mô thức văn hóa, về quan niệm, nhận thức về xã hội… Cấp độ tiếp theo của giao lưu văn hóa còn xảy ra giữa các vùng miền, giữa các tộc người trong lòng của nền văn

28 hóa, đồng thời cũng có thể xảy ra với các nền văn hóa dân tộc khác nhau. Nhóm chủ thể văn hóa được giao lưu văn hóa phải diễn ra trong một không gian văn hóa, sống trong cùng một địa bàn nhất định. Quá trình giao lưu được phát triển do nhu cầu tự thân của mỗi nền văn hóa. Tuy nhiên quá trình này diễn ra với chủ thể văn hóa của các tộc người sinh sống có tính chất ổn định và lâu dài. Giá trị của sự giao thoa văn hóa sẽ tạo nên một nền văn hóa mới, phong phú, đa dạng, phát triển hơn văn hóa bản địa. Như vậy từ những luận điểm trên, NCS lựa chọn lý thuyết nghiên cứu này áp dụng trong luận án, nhằm giải quyết những nội dung như: - Yếu tố tác động đến biến đổi trong thiết kế áo dài, phải chăng đó là quá trình giao thoa tiếp biến văn hóa với nền văn minh, hiện đại của người Phương Tây. - Nghệ thuật thiết kế áo dài đã có những tiếp thu và biến đổi yếu tố tạo hình như thế nào, hay yếu tố tạo hình nào được tiếp thu, cũng như yếu tố nào được biến đổi. - Lý thuyết tiếp biến văn hóa còn được áp dụng nhằm diễn giải, đối sánh giữa thiết kế áo dài của phụ nữ Việt với áo dài của các tộc người thiểu số ở các vùng, quốc gia (như áo dài của tộc người Thái, Chăm, Tày ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa). Thứ hai là: Lý thuyết ‘‘Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa’’. Từ thập kỷ cuối của TK XIX – đầu XX các nhà nghiên cứu L.Frobenius, F.Ratsel, F. Grabner, W. Schmidt (người Đức và Áo) thuộc trường phái Truyền bá luận (diffutionisim) đã đưa lý thuyết khuếch tán ứng dụng vào nghiên cứu văn hóa của nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Và có quan điểm về sự sáng tạo văn hóa của nhân loại bao giờ cũng xuất phát từ một trung tâm, sau đó lan truyền tới các vùng khác. Thực chất đó là sự lan tỏa, khuếch tán của văn hóa.

29

Đầu TK XX, một số nhà nhân chủng học người Mĩ - đại diện là Boas, LC. Wissler đã phát triển lý thuyết trung tâm trong việc hình thành “vùng văn hóa”. Họ đã đưa ra một tập hợp các đặc trưng văn hoá tiêu biểu, gọi là “típ văn hoá đặc trưng”. Những quan điểm của lý thuyết trên đều chưa có những nhận định rõ ràng về sự khuếch tán văn hóa từ trung tâm đến vùng ngoại vi và bị tác động ngược lại, tức là văn hóa của vùng ngoại vi cũng có thể tác động ngược trở lại. Phải đến những năm 1970 – 1980 các nhà nhân học Xô Viết đã xuất bản công trình “Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hóa từ sau các phát kiến địa lí” trong nghiên cứu trường hợp văn minh Trung Hoa với các vùng ngoại vi Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và văn minh Ấn Độ với các nền văn minh Nam Á. Công trình nghiên cứu đưa ra những luận điểm về sự sáng tạo văn hóa, trong đó cả vùng trung tâm và ngoại vi đều có khả năng sáng tạo văn hóa, và vùng trung tâm cũng có thể bị thu hút tiếp nhận văn hóa của vùng ngoại vi. Sự tác động qua lại giữa trung tâm và ngoại vi làm tăng khả năng định hình sản phẩm văn hóa ở vùng trung tâm. Sự khác biệt của hai vùng trung tâm và ngoại vi là vùng trung tâm sẽ phát triển sôi nổi hơn, do nhiều nhân tố như địa lý, kinh tế, chính trị xã hội. Bởi trung tâm còn là đầu mối về sự phát triển kinh tế, đầu mối của giao lưu văn hóa trong nội vùng và vùng ngoại vi, xa hơn là các nước trong khu vực. Ngoại vi có vai trò cung cấp nhân tố, giá trị văn hóa, con người cho vùng trung tâm và từ đó lại tiếp nhận văn hóa từ trung tâm. Từ những quan điểm của lý thuyết “Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa”, NCS chọn 2 trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị lớn của cả nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh làm không gian nghiên cứu tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Hai trung tâm này cũng là nơi gắn liền với sự hình thành và phát triển của áo dài. Thế kỷ XX, Hà Nội có áo dài của Nguyễn Cát Tường, Thành phố Hồ Chí Minh có áo dài do Trần Lệ Xuân mặc, áo dài miniraglan, áo dài Dung DaKao… Đến cuối thế kỷ XX và

30

đầu XXI, ở 2 trung tâm là nơi xuất hiện các phong trào, xu hướng áo dài mới và những phong trào, xu hướng đó đã tác động, lan tỏa tới các vùng ngoại vi là trên cả nước. Hơn nữa, do là trung tâm về kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội, 2 trung tâm này đã thu hút nhiều nhân tài làm nghề (người thiết kế, thợ may, thợ thêu hay nghệ nhân) ở các vùng ngoại vi trên cả nước. Ngoại vi còn cung cấp những ‘‘nguyên liệu’’ cho trung tâm, từ đây NCS nhận thấy trong thiết kế áo dài hiện đại, ý tưởng thiết kế là một yếu tố quan trọng, nó đã được người thiết kế nghiên cứu từ nhiều nguồn tư liệu văn hóa khác nhau trên cả nước điển hình như văn hóa thổ cẩm của các tộc người thiểu số ở các vùng ngoại vi như Hà Giang, Sơn La - Mộc Châu, Hòa Bình, Lạng Sơn… Từ nguyên liệu vật chất là chất liệu vải cho đến những giá trị nghệ thuật trong tạo hình trang trí hoa văn thổ cẩm cũng được người thiết kế khái thác vận dụng vào áo dài. Hay những giá trị văn hóa, nghệ thuật trong dòng tranh dân gian Đông Hồ ở Thuận Thành – Bắc Ninh cũng là nhân tố đã được các NTK ở những thập niên gần đây khai thác thành ý tưởng thiết kế áo dài và đạt được những thành công nhất định về nghệ thuật… Chính những giá trị văn hóa, nghệ thuật của thổ cẩm, tranh dân gian Đông Hồ là những “nguyên liệu” đã được trung tâm thu hút góp phần định hình nên những bộ sưu tập áo dài có giá trị nghệ thuật. Như vậy, NCS sử dụng lý thuyết ‘‘Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa’’ nhằm lý giải tầm quan trọng về nghệ thuật thiết kế áo dài của các NTK ở 2 trung tâm lớn và sự tiếp thu – biến đổi nghệ thuật thiết kế áo dài ở những giai đoạn khác nhau trong xã hội đương thời. Bởi những mẫu thiết kế áo dài ở các trung tâm lớn này sẽ lan tỏa đến các ngoại vi xung quanh. Do đó những mẫu thiết kế áo dài có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, phù hợp với văn hóa hay những mẫu còn thiếu thẩm mỹ, xa rời văn hóa dân tộc… của trung tâm cũng có thể lan tỏa tới các ngoại vi và tạo nên xu hướng phát triển. Mẫu

31 thiết kế có thẩm mỹ tốt sẽ tạo nên xu hướng đẹp, mẫu thiết kế thiếu hợp lý sẽ tạo nên xu hướng xấu gây sự phản cảm… Lý thuyết nghiên cứu thứ 3 mà NCS sử dụng trong luận án là “Thuyết bắt chước’’ do Aristotte khởi xướng 384 – 322 trước Công nguyên. Trong đó có 2 luận điểm của thuyết này mà NCS quan tâm như sau: “Điều thứ nhất: bắt chước thuộc về bản chất của con người thời thơ ấu và con người khác với những động vật khác là ở chỗ con người có nhiều khả năng bắt chước hơn cả, nhờ đó mà nó thu thập được những kiến thức đầu tiên. Điều thứ hai: những sản phẩm của sự bắt chước đã đem lại điều thích thú cho con người…”[100]. Khi con người bắt chước những tạo hình từ thiên nhiên và đã thu được những bài học cho mình. Đó là những bài học về: Thế thăng bằng, kết cấu đối xứng, kết cấu so le, kết cấu tỏa tròn, sự lặp lại (nhắc lại). Tất cả đều được thu rút từ những tạo hình từ những hình ảnh quen thuộc trong môi trường thiên nhiên như cành cây, lá cây, hoa, trôn ốc, xương cá… Từ những tạo hình đó kết hợp với tư duy sáng tạo của con người đã hình thành nên “nghệ thuật trang trí” tạo cảm giác thích thú, hứng khởi. Thông qua những bài học tạo hình đó, người nghiên cứu mỹ thuật đã thu rút và xây dựng thành những nguyên tắc trong thiết kế mỹ thuật, mà người học mỹ thuật đều phải biết. Những nguyên tắc thiết kế được áp dụng phổ biến trong các ngành mỹ thuật hàn lâm và mỹ thuật công nghiệp/ ứng dụng. Đặc biệt trong thiết kế áo dài hiện đại những nguyên tắc thiết kế lại càng được biểu hiện rất rõ, như những nguyên tắc đối xứng, tỏa tròn, lặp lại/ nhắc lại, tương phản/ đối lập... Những hình ảnh trong nghệ thuật trang trí áo dài được người thiết kế biểu tả theo nhiều hình thức đa dạng, vừa tả thực nhưng cũng vừa cô đọng, cách điệu. Do đó trong nội dung nghiên cứu của luận án, NCS dùng lý luận của nguyên tắc tạo hình thiết kế này để phân tích giá trị nghệ thuật của những mẫu áo dài trong phạm vi nghiên cứu. Bởi theo nghiên cứu, từ sau năm 1980 đến năm 2017, các NTK, nghệ nhân đưa nghệ thuật trang

32 trí vào thiết kế áo dài như một tạo hình quan trọng đem lại hiệu ứng thẩm mỹ mới cho áo dài, mỗi mẫu đều có những yếu tố bố cục về mảng, màu, nét… đã nâng giá trị áo dài là một tác phẩm nghệ thuật. Ngày nay xã hội công nghiệp phát triển, nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao, do đó các nhà thiết kế áo dài cần có sự tiếp nhận, sáng tạo, ứng dụng, nâng phần mỹ thuật và kỹ thuật cho sản phẩm áo dài. Vì vậy đề tài của luận án, NCS dựa vào những luận điểm, cơ sở phương pháp luận design nhằm dẫn giải về tư duy thiết kế áo dài hiện đại cũng như đặc điểm, phong cách thiết kế áo dài của các NTK. Ngoài ra luận án còn dựa trên quan điểm triết học và Mỹ học, quy luật thẩm mỹ dẫn giải về sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài, sức lan tỏa áo dài của phụ nữ Việt. Trong hệ thống các quan điểm triết học – Mỹ học nghệ thuật, NCS chú ý đến một số quan điểm mỹ học về nghệ thuật như sau: Mỹ học Hegel đề cập về những quan điểm nghệ thuật là sản phẩm của sự chiếm hữu của con người đối với thế giới bên ngoài, nó là kết quả của kỹ thuật và trình độ chinh phục đối tượng. Tức là trong quá trình lao động, con người sẽ cảm nhận và hình thành những quan niệm về cái đẹp nghệ thuật, nó là cái đẹp mang tính thực tế, thực dụng do chính con người khám phá và đúc kết. Theo ông “cái đẹp trong tự nhiên là cái đẹp về trật tự” [18], bởi cái đẹp đó không thay đổi, không biến đổi khác hơn được, nó diễn ra theo quy luật dễ gây ra sự nhàm chán. Cái thực sự đẹp chính là những sáng tạo của con người, được xuất phát từ quá trình lao động, chinh phục tự nhiên được con người sáng tạo nên, nó phù hợp với thực tế của cuộc sống. Đồng nghĩa đó là cái đẹp sẽ thay đổi theo thời gian và bối cảnh của cuộc sống. Bởi con người luôn có những đòi hỏi, những mong muốn mà tự nhiên không thể thỏa mãn được. Do đó con người phải chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên, sửa chữa nó, biến đổi nó… tức là con người phải biến đổi cái bên ngoài đối tượng thành một phương

33 tiện mà con người có thể sử dụng theo mục đích của mình. Với quan điểm này của Mỹ học Hegel, NCS thấy rằng áo dài của phụ nữ Việt đã có những thay đổi đáng kể trong thiết kế. Từ thiết kế tà áo tứ thân, đến áo năm thân tà rộng, đó là những chiếc áo gắn bó với đời sống lao động, thẩm mỹ của phụ nữ Việt. Nhưng khi được tiếp xúc với những nền văn hóa mới, họ sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng cách tân trong thiết kế hình dáng, kết cấu và để hình thành nên áo dài ngày nay. Bởi những cách tân, thiết kế đó mang tính hợp lý, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, hiện đại, sự biến đổi nhằm cải tiến những cái cũ, cái bất tiện ấy thành những chiếc áo phù hợp với cuộc sống, nhu cầu thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội hiện đại, đặc biệt trong thế giới hội nhập như ngày nay. Mỹ học Mác xit cũng khẳng định rằng, nghệ thuật ra đời từ thực tiễn đời sống, từ lao động sáng tạo, từ sự đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người xã hội. Qua quá trình lao động, con người vừa sáng tạo vừa cảm thụ nghệ thuật. Nhờ có lao động sáng tạo, con người đã tạo nên những phương tiện vật chất – kỹ thuật cần thiết, để từ đó nghệ sỹ sử dụng làm phương tiện tạo hình, xây dựng ngôn ngữ đặc trưng cho mỗi loại hình nghệ thuật. Quan niệm cái đẹp của I.Kant lại tách ra ở nhiều phương diện, trong đó có phương diện thứ II được hiểu: Đẹp là cái gì làm hài lòng một cách phổ biến, gây thích thú một cách tất yếu, phổ quát cho mọi người một cách vô tư, bằng tính hình thức thuần túy tuyệt đối của nó [29, tr 92]. Theo ông, vẻ đẹp có 2 loại bao gồm vẻ đẹp tự do (chính là thiên nhiên – là cấu tạo của các loài hoa có trong tự nhiên) và vẻ đẹp phụ thuộc như vẻ đẹp của con người hay những tác phẩm kiến trúc… Bởi cái đẹp còn được xây dựng trên khái niệm về tính hoàn hảo của sự vật (như con người thường sử dụng các yếu tố nghệ thuật màu sắc, đường nét…làm trang trí). Có nghĩa cái đẹp không đơn thuần là cái đẹp ở bên ngoài mà nó phải là cái đẹp cả bên trong, một cái đẹp hoàn hảo [29]. Với quan điểm này, NCS nhận thấy sự thay đổi trong thiết kế kết cấu áo dài của phụ nữ

34

Việt đã đạt được điều đó. Kết cấu áo dài không chỉ phù hợp với hình dáng cấu tạo nhân trắc của cơ thể phụ nữ Việt mà chiếc áo còn toát lên được tinh thần, tư tưởng trong tâm hồn và sự tinh tế, ý nhị của người mặc. Quan điểm này của ông đã giúp NCS có thể hiểu hơn vì sao áo dài lại được lan tỏa, phổ biến với mọi phụ nữ Việt trong xã hội hiện đại. 1.3. Các vấn đề liên quan đến thiết kế áo dài 1.3.1. Nguồn gốc thiết kế trang phục Sự hình thành và phát triển trang phục luôn gắn liền với văn minh của nhân loại. Trang phục là sản phẩm sáng tạo của con người, với nhiều mục đích khác nhau, và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của con người. Đầu tiên phải kể đến là việc bảo vệ cơ thể trước những tác động từ thiên nhiên, môi trường. Tiếp đó trang phục là tín hiệu nhận biết chủng tộc, vị trí xã hội … rồi đến làm đẹp. Ở mỗi giai đoạn lại có những mục đích sử dụng, cũng như bổ sung phát triển các loại trang phục, với những hình dáng, kết cấu, màu sắc và chất liệu vải đặc trưng. Khởi nguồn của trang phục đó là những hình chữ nhật, hình vuông, hình thoi... được quấn trên cơ thể người theo nhiều hình thức khác nhau. Phổ biến nhất là hình chữ nhật được khoét một lỗ hình tròn ở giữa. Khi mặc người ta chui đầu vào lỗ tròn và buông phần còn lại chạy theo cơ thể, tiếp đó dùng dây buộc giữ cho tấm vải ôm sát vào người [PL1, H.1.1, tr 200]. Trang phục chỉ được hình thành khi có đường kết cấu và hình dáng. Tức là khi con người có ý thức, ý tưởng can ghép những mảng vải với nhau tạo nên hình dáng khi mặc. Hình dáng và kết cấu của trang phục dần được sáng tạo và hoàn thiện hơn theo sự phát triển trí tuệ của con người. Người ta cũng bắt đầu cắt ghép nhiều hình vuông, hình chữ nhật với nhau, tiếp đến họ ghép các mảnh vải hình chữ nhật với mảng hình ở thân áo để che tay. Càng về sau hình dáng, kết cấu trang phục được định hình hoàn thiện hơn và đáp ứng chức năng sử

35 dụng phù hợp với môi trường lao động, đáp ứng nhu cầu bảo vệ cũng như thẩm mỹ của con người: Điển hình là kỹ thuật may can ghép những tấm vải có tỷ lệ, kích thước khác nhau tạo nên những mảnh ghép dọc thân trở thành kiểu áo sọc dài từ vai xuống tới bắp chân. Kiểu này được vẽ thành họa tiết trên “đĩa đồng Điền” và “Trống đồng” khai quật tại di chỉ Động Xá. Hay hình người phụ nữ trên cán dao găm thuộc cổ vật thời Đông Sơn được phát hiện ở Làng Vạc. Tạo hình người phụ nữ mặc trang phục, phía thân trên là một dạng áo quay ngang người hình chữ nhật, thân dưới mặc váy kín và thắt thêm dải vải chạy thẳng từ ngang bụng xuống hết bắp chân, dải vải được buông cả thân trước và thân sau cũng có hình chữ nhật kéo dài. Kiểu mặc này khá phổ biến của nữ giới vào thời Đông Sơn. Hay kết cấu áo dài có nhiều dải dọc là trang phục đặc trưng của người Điền – Trung Quốc, ta thấy có một điểm chung với cách kết cấu trang phục phụ nữ trên cán dao găm thời Đông Sơn Việt Nam. Cũng trên những dạng thức cơ bản hình chữ nhật, hình vuông đó, mà ở Châu Âu thời trung cổ họ đã biết cắt ghép tạo các mảng hình phức tạp có kết cấu gần sát với cơ thể của người mặc. Vậy con người đã có ý thức trong việc sắp đặt những mảng vải có kích thước và hình dạng khác nhau để ghép can tạo ra những kiểu trang phục phù hợp với cấu trúc bộ khung bên trong cơ thể người. Nhưng mỗi nơi lại có những phương thức đặc trưng riêng để thích nghi tồn tại trong đời sống môi trường thiên nhiên. Chính điều này đã khiến trang phục còn là một tín hiệu nhận biết về xã hội văn minh mà nó đại diện. Như vậy với sự phát triển về kỹ thuật dệt vải và sự khéo léo trong cách may can ghép những tấm vải tạo độ vừa vặn, phù hợp với từng cấu trúc và tỷ lệ ở các phần khác nhau trên cơ thể. Trang phục đã trở nên hoàn thiện hơn và đa dạng hơn về chủng loại. Điển hình có những kiểu dáng áo dài liền thân, áo lót quây, váy quây kín, áo cánh, áo khoác…

36

1.3.1.1. Hình thành hình dáng, kết cấu Cuối thời trung cổ đầu thời phục hưng, do tư tưởng xã hội ở Châu Âu đã có sự thay đổi, con người biết quan tâm hơn tới nhu cầu làm đẹp của mình. Họ đặt hàng nhà may về những kiểu trang phục mới, đẹp và lạ mắt. “Ở tất cả các nước, giới quý tộc thường mặc những bộ quần áo xa xỉ, nhưng không ai sánh được vẻ tạo nhã và tính sáng tạo của người Italy. Điều này khiến vua Pháp say mê và đến thế kỷ XVI, thời trang Italy tràn ngập khắp Châu Âu” [16, tr 9]. Nhu cầu của con người trong xã hội ngày càng cao, do đó người thợ may đã thể hiện sáng tạo của mình nhằm thiết kế ra những kiểu trang phục độc đáo về hình dáng, kết cấu, trang trí… [PL1, H.1.2, tr 200]. Do đó đây cũng là thời kỳ đánh dấu về nghệ thuật thiết kế thời trang ở Châu Âu hay trên thế giới. Những mảng hình được may ghép nối với nhau tạo nên các đường kết cấu và hình dáng của trang phục. Quan sát hình ảnh [PL1, H.1.2, tr 200] cho thấy, kích thước của trang phục có độ vừa vặn với kích thước cơ thể người mặc. Điều này cho thấy kích thước của trang phục đã có sự tính toán trên kích thước của cơ thể người mặc. Đây chính là một bước tiến có sự tham gia của thông số toán học trong lĩnh vực thiết kế trang phục. Thời kỳ này họ đã tạo ra những đường kết cấu “kinh điển”, như các đường cắt vải nối tay với thân áo, đường cắt vải nối thân trên với thân dưới ở điểm eo. Đặc biệt tạo hình thân trên ôm sát tương phản với thân dười xòe rộng tôn nên cấu trúc, vẻ đẹp của cơ thể người phụ nữ. Những tạo hình về đường kết cấu và hình dáng trang phục này luôn tồn tại, phát triển qua nhiều thời kỳ và cho đến ngày nay. Có khác chăng đó là sự thay đổi về tỷ lệ và thêm nhiều đường kết cấu phức tạp hơn. Hình dáng và kết cấu trang phục đã thay đổi theo sự phát triển của xã hội và nhu cầu tiêu dùng của con người: Trong khoảng hơn 20 năm cuối của thế kỷ XIX, việc phụ nữ bắt đầu có thể tham gia vào công việc văn phòng tất yếu đòi hỏi phải có

37

những phong cách mặc mới thích hợp với không gian cộng đồng. “Đồ công sở”, nguyên mẫu của loại vest dành cho phụ nữ, phát triển vào thập niên 1880…, phản ánh mối liên kết giữa yêu cầu của người tiêu dùng và sự cách tân của nhà sản xuất như là một nhân tố thúc đẩy công nghiệp thời trang [60, tr 106 -107]. Do đó xuất hiện các nhà thiết kế trang phục chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu về việc mặc cho những hoạt động trong xã hội như: đi làm, đi chơi, đi dự tiệc… Mỗi loại trang phục đó có hình dáng, kết cấu, tỷ lệ dài, ngắn áo váy khác nhau và được gọi với các tên như trang phục công sở, trang phục dạ hội. 1.3.1.2. Nghệ thuật trang trí Ở Việt Nam, thời Hùng Vương những hình chấm tròn nhỏ, hình kỷ hà, lượn sóng... thấy xuất hiện trên những dải vải quấn trên người tạo nên một hình thức trang trí. Đến thời phong kiến thì hình mẫu trang trí trên trang phục rất đa dạng và phát triển thành nhóm hình như: Họa tiết thiên nhiên hoa lá, nhóm hình động vật/ linh vật. Ngoài ý niệm dùng họa tiết để trang trí trang phục, còn có ý nghĩa về biểu trưng, phân tầng giai cấp trong xã hội (hoa văn rồng chỉ có trên long bào của nhà vua). Như vậy, các hình thức trang trí trang phục ở Việt Nam chủ yếu là dùng họa tiết hoa văn, theo 2 dạng thức chính là tả thực và cách điệu. Nhưng đa phần xuất hiện trên trang phục cung đình, hiếm thấy họa tiết trang trí trang phục trong dân gian, có chăng chỉ xuất hiện trên những tấm lụa tơ tằm dệt hoa văn chìm các hình hoa, là hay chữ vạn, thọ… Có thể nói nghệ thuật trang trí ra đời trước khi hình thành trang phục, bởi ngay từ khi con người sử dụng hình thức quấn vải cũng đã có ý thức tạo ra những đường trang trí kiểu như: “Y phục của người Hy Lạp và La Mã là những tấm vải rộng. Sự khác nhau là ở cách thắt lưng để tạo ra các nếp: thao tác này đòi hỏi sự khéo léo và gu thẩm mỹ…” [16, tr 6]. Nếp vải được hình thành từ

38 cách thắt lưng tạo nên những đường xếp ly buông thẳng, khi di chuyển những đường ly chuyển động tự do tạo hiệu ứng thẩm mỹ cho người mặc. Như vậy những đường xếp ly chính là một hình thức trang trí đầu tiên, trải qua các thời kỳ khác nhau con người đã sáng tạo ra những đường ly có nhiều chức năng khác nhau. Có 3 chức năng điển hình sau: Thứ nhất là đường ly tạo trang trí Thứ hai là đường ly tạo khối, thể tích cho trang phục Thứ ba là đường ly thu hẹp kích thước rộng ngang và các điểm, các góc trên trang phục ở những vị trí đặc trưng của cơ thể phụ nữ (góc được tạo ra từ bầu ngực với thân ở điểm eo). Những chức năng này đã được khai thác tạo ra những mẫu váy áo ở cuối thời trung cổ và thời phục hưng. Những mẫu váy có sử dụng các đường ly tạo khối phồng ở đầu vai hay những đường ly xếp nếp kiểu hình bánh xe ở cổ áo khá phổ biến ở trang phục của giới quí tộc thời phục hưng. Tạo hình trang phục thời kỳ này chú trọng đến hình thức trang trí tạo thể tích, do đó sự kết hợp nhiều kỹ thuật tạo ly như thu hẹp kích thước (ở điểm eo) và tạo khối phồng ở tay và phần thân dưới đã tạo nên thẩm mỹ đặc trưng. Đến thế kỷ XIX, kỹ thuật tạo phồng đã giảm chỉ thấy bóng dáng váy dài chít eo mềm mại, những đường ly tạo sóng cũng được tiết chế tôn nên hình dáng tự nhiên của người phụ nữ (họ không mặc áo váy có khung tạo phồng hay xếp ly tạo khối lớn). Tạo hình trang phục này là do ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương và nghệ thuật [PL1, H.1.3, tr 201]. Đầu thế kỷ XX, các nhà thiết kế lại chú ý đến kỹ thuật trang trí tạo ly, khi NTK Mariano Fortuny sáng chế ra micro-pleating (kỹ thuật xếp ly nhỏ): “Ông sử dụng phương pháp này để tạo ra những bộ váy áo Delphos, một bộ váy dài suôn chảy làm bằng nhung hoặc lụa chiết ly rất mau. Bộ váy Delphos là một thiết kế kinh điển vẫn được mô phỏng cho tới bây giờ” [16, tr 17]. Kỹ

39 thuật xếp ly trên chất liệu lụa của ông đã tạo nên một hiệu ứng thẩm mỹ mới, những đường ly nổi bắt ánh sáng và tạo những vệt sáng như tia nắng. Đến những năm 1920, ở Pháp nổi nên phong cách nghệ thuật và trang trí mang tính chiết trung - Art deco. Phong cách nghệ thuật này tác động mạnh mẽ tới các lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có thiết kế thời trang. Những hình hoa văn được cách điệu đưa lên trang trí trang phục tạo nên dấu ấn trong lịch sử thiết kế trang phục. Chính Paul Poiret là một trong những nhà thiết kế ảnh hưởng theo phong cách Art deco, tác giả Rebecca Arnold cho biết: Các nhà thiết kế có nhiều cách tiếp cận khác nhau để vừa xử lý những vấn đề này, vừa tích hợp những ảnh hưởng từ nghệ thuật đương đại vào các kiểu mẫu của mình. Tác phẩm của Paul Poiret có xu hướng dùng những màu sắc sống động, thường đối chọi và nhấn mạnh những tính chất sân khấu của sự trình diễn bản thân [60, tr 82]. Do đó những sáng tạo trong mẫu thời trang của Paul Poiret đa phần có hình dáng, kết cấu đơn giản hay tỷ lệ, kích thước linh hoạt tạo sự thoải mái cho người mặc, nhưng ông lại đề cao đến những kỹ thuật, màu sắc, mẫu hoa văn tạo nên tính trang trí trên trang phục. Đó là các kỹ thuật may xếp ly trên chất liệu vải, màu sắc tươi sáng và đa dạng tạo lên tính trang trí trên thiết kế trang phục. Những kiểu mẫu thiết kế đó được vẽ minh họa khá chi tiết về kết cấu, phom dáng, màu sắc và gợi tả chất liệu vải. Ông chính là người đầu tiên minh họa những thiết kế trang phục của mình tạo nên hệ thống mẫu thiết kế giới thiệu với công chúng. Những bản vẽ đó đăng trên các tạp chí thời trang Vogue và in thành catalogue (sách giới thiệu về các mẫu trang phục) [PL1, H.1.3.c, tr 201]. Như vậy thiết kế trang phục là sự sáng tạo phom dáng, sắp đặt các mảng hình, đường nét tạo kết cấu, phối hợp các tông màu, sắc độ và tính trang trí trên trang phục. Sự sáng tạo được hình thành dựa trên nhu cầu thực tế của con người

40 trong xã hội. Ngoài ra còn thể hiện tính khoa học, tính hiện đại của trang phục với cấu trúc cơ thể người, mang lại những giá trị, phong cách cho người mặc. Lịch sử phát triển thiết kế trang phục gắn liền với văn minh tiến bộ của loài người và luôn gắn với nền sản xuất công nghiệp, kinh tế thị trường cùng với những ứng dụng của khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Thiết kế trang phục còn là sáng tạo thể hiện phản ánh cái nhìn của thời đại, dấu ấn cá nhân, thị hiếu thẩm mỹ của con người trong đời sống xã hội đương thời. 1.3.2. Lịch sử áo dài của phụ nữ Việt Áo dài là một sản phẩm sáng tạo đặc sắc trong văn hóa mặc của người Việt. Áo có kết cấu khác biệt với các dáng áo dài của các tộc người thiểu số trên đất nước ta. Sự khác biệt này không chỉ là hình thức bên ngoài của tấm áo mà nó còn cả những câu chuyện về nguồn gốc, diễn trình phát triển theo lịch sử của dân tộc. Lịch sử hình thành và phát triển của áo dài đã được các tác giả như Đoàn Thị Tình, Ngô Đức Thịnh, Hữu Ngọc…và một số nhà nghiên cứu khác, đã có những kết luận giống nhau về trình tự phát triển của áo dài. Khởi nguồn của áo dài là áo tứ thân, tiếp đó là áo năm thân cổ giao lãnh, đến áo năm thân cổ đứng, áo ba thân, và qua thời gian mới hình thành áo hai thân. Diễn trình phát triển của áo dài, không hẳn là chỉ phát triển về kết cấu của thân áo, mà ở mỗi giai đoạn áo dài có những chi tiết bổ sung vào phom dáng, gam màu, chất liệu vải, cách sử dụng (phối hợp trang phục, phụ kiện)… hình thành nên những phong cách tạo dáng khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người trong xã hội đương thời. Vậy trong diễn trình phát triển hình thành thiết kế áo dài, NCS trình bày dựa trên đặc điểm hình dáng và kết cấu của áo dài.

41

1.3.2.1. Áo tứ thân Đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra ý kiến về nguồn gốc của áo dài, những đều có chung một luận điểm là áo dài được hình thành từ áo tứ thân. Tác giả Đoàn Thị Tình cho biết: Áo dài Việt Nam, từ xa xưa được may bằng bốn khổ vải, do đó được gọi là áo tứ thân. Hai khổ sau lưng khâu dọc liền nhau, hai khổ trước buông thành hai vạt. Khi mặc có lúc thắt hai vạt trước ở bụng, có lúc buộc lại ở phía sau lưng cho gọn. Dù buông vạt hay buộc vạt, đều thắt lưng màu thả xuống phía trước cho kín đáo và thêm phần duyên dáng [75, tr 136]. Áo tứ thân có nghĩa là 4 khổ vải ghép với nhau tạo nên tấm áo. Trước kia, chưa phát triển về công nghệ dệt vải, những nghệ nhân chế tạo ra được khung dệt thủ công, khổ nhỏ tương đương 20cm x 20cm và 40cm x 40cm, về sau dệt được những tấm vải khổ 70cm có chiều dài hơn trước, bằng chiều dài thân người. Ở thân sau áo được may ghép nối ở sống lưng, thân trước có hai tà buông thõng phía trước, tà trước may ghép với tà thân sau ở sườn, tuy nhiên áo chỉ may ghép đến điểm thắt eo rồi buông thõng. Tại điểm thắt eo, hai tà trước được tách khỏi tà áo của thân sau, nên khi phụ nữ lao động thường buộc hai tà vạt trước với nhau. Điểm buộc vạt này đã tạo nên nét đặc trưng trong cách mặc của phụ nữ Việt. Không rõ là do vô tình hay cố ý, điểm xẻ tà buộc vạt đã tạo ra tính linh hoạt trong quá trình sử dụng trang phục của phụ nữ. Áo tứ thân là loại trang phục mặc hàng ngày của phụ nữ Việt, cả trong lao động cũng như trong các buổi lễ hội. Áo dài tứ thân có loại được gọi là áo đổi vai nối vạt. Áo tứ thân không những phổ biến trong dân gian, được dùng trong hệ thống trang phục cung đình. Như các kiểu áo Mệnh phụ bốn thân, mặc bên

42 ngoài, kiểu cổ trực lĩnh, cổ bản to cài thẳng giữa thân trước, đôi khi mặc buông thả vạt không cài. Kiểu bốn thân này còn may áo mặc bên trong áo Hoàng bào là áo Sam (có kết cấu giống áo bối tử của nhà Tống). Nhưng cũng là kiểu áo mặc khoác ngoài, kiểu áo thấy mặc bên ngoài của tượng thờ Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ (TK XVIII ở chùa Bút Tháp), tượng công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và một số tượng nữ phật khác. Đặc biệt Hiền phi Trương Thị Ngọc Lãnh (tượng chùa Trạch Lâm, Bỉm Sơn, Thanh Hóa), bà mặc áo kiểu tứ thân khoác ngoài, tay rộng, có nẹp bản to ở hai vạt trước. Trên nẹp áo có thêu trang trí nhiều họa tiết hoa cúc dây, theo lối tả thực. Áo phía trong bà mặc vân kiên thêu nổi họa tiết hoa đào, hoa đại và anh lạc. Hay Vương phi Ngọc Diệu (tượng Bà Chúa Mía) cũng mặc theo lối khoác áo tứ thân nẹp bản to bên ngoài, tay thụng, đầu đội khăn phủ choàng xuống vai. Kiểu trang phục này cũng giống như tượng Chiêu nghi vợ vua Thần Tông TK XVII ở chùa Mật Thanh Hóa, tượng Vương Phi Trần Thị Ngọc Am, hoàng thái hậu Nguyễn Thị Ngọc Bạch… [PL2, H.2.3, tr 204]. Nhìn chung áo tứ thân là trang phục gắn với người dân lao động Việt suốt thời gian dài. Sự linh hoạt trong cách sử dụng đã biến chiếc áo càng gắn bó với những người phụ nữ. Kết cấu, màu sắc của áo thể hiện sự tinh tế trong thẩm mỹ của người phụ nữ và tạo nên sự khác biệt với những vùng miền, quốc gia khác. 1.3.2.2. Áo năm thân Qua khảo cứu lịch sử trang phục của những công trình nghiên cứu trước, NCS nhận thấy: Hình dáng và kết cấu trang phục cung đình là áo năm thân dùng cho cả nam và nữ suốt triều đại nhà Lý đến nhà Trần, Hồ, Lê và nhà Nguyễn. Áo có hình dáng xuông thẳng được may ghép từ 5 khổ vải, trong đó thân trước bên phải có 2 thân áo may trồng lên nhau. Thân dưới có vai trò đỡ

43 thân áo ngoài và được đính khuyết dây. Áo có kết cấu xẻ tà hai bên sườn. Áo năm thân được biến tấu với nhiều dáng cổ khác nhau như cổ áo cài chéo được gọi là giao lãnh, cổ tròn gọi đoàn lĩnh hay viên lĩnh, cổ đứng cài khuy gọi thụ lĩnh. Kiểu áo dài năm thân, cổ đứng cài khuy xuất hiện muộn hơn cả - vào thế kỷ XVIII. Kiểu áo năm thân cổ giao lãnh là kiểu áo phổ biến trong các triều đại phong kiến Việt Nam [PL2, H.2.1, tr 203]. Các kiểu áo tứ thân, yếm, váy và áo giao lãnh là những trang phục dùng phổ biến của người Việt trong suốt các triều đại phong kiến. Đặc biệt phụ nữ cung đình nhà Lê đều mặc kết hợp áo năm thân bên trong và khoác ngoài là áo tứ thân mở trước. Như Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, mặc áo hoàng bào, màu vàng đậm, tay áo thụng lớn, thêu trang trí họa tiết xen kẽ hình sừng tê, hình sóng thủy ba và san hô hình núi, phía ngoài được choàng lá phủ vân kiên (vân là thêu, kiên là bờ vai) [PL2, H.2.2.c, tr 203]. Sự xuất hiện áo năm thân trong dân gian muộn hơn so với trong cung đình, chỉ xuất hiện khi có những qui định bắt buộc của triều đình. Vào giai đoạn Lê Trung Hưng đã có cuộc cải cách trang phục từ năm 1740 – 1755. Rất nhiều học giả của Việt Nam (Lê Quí Đôn, Trịnh Hoài Đức, Đào Duy Từ…) và các học giả người Pháp (như Giáo sư Jean Koffler, L. Cardiere…) đã ghi chép diễn biến thay trang phục của xứ Đàng Trong. Tác giả Trần Quang Đức dịch trong Dã sử lược biên Đại Việt Quốc Nguyễn triều thực lục, cho biết: Chúa cho rằng lời sấm cổ có nói tám đời quay lại trung đô, tính từ thời Thái Tổ đến nay vừa đúng con số ấy, bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây. Trang phục nhà cửa, đồ dùng, hơi giống thể chế nhà Minh Thanh, thay đổi hệt thói cũ hủ lậu của Bắc Hà, thay đổi quan phục tham khảo chế độ của các triều đại Trung Quốc…[15].

44

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát hạ lệnh thay đổi toàn bộ trang phục dân gian Đàng Trong, kiểu áo mới được cải biến từ kiểu áo năm thân cổ tròn, cổ giao lãnh. Áo có cổ đứng, bản nhỏ và cài khuy. Tay áo, từ thụng rộng chuyển sang hẹp, vạt áo cũng thay đổi chiều dài và hẹp hơn. Tuy nhiên qui định này cũng mới thực hiện ở Đàng Trong, còn Đàng Ngoài, trong dân gian vẫn mặc theo lối truyền thống là yếm,váy, áo tứ thân. Năm 1837, vua Minh Mạng truyền rằng: Trước đây, từ sông Gianh trở ra ngoài, y phục vẫn noi theo thói tục hủ lậu, nay đặc biệt chỉ dụ, lệnh phải thay đổi theo cách mặc từ Quảng Bình trở vào trong để đồng nhất phong tục…từ Quảng Bình trở vào Nam, quần áo mũ mão nhất nhất phải noi theo chế độ Hán Minh, trang phục tề chỉnh, so với tục cũ của người miền Bắc. [15, tr 262]. Ngoài ra vua Minh Mạng ra chỉ dụ tiếp: “cấm đàn ông đóng khố, đàn bà không được mặc váy kiêm áo tứ thân; nhất loạt đều dùng quần chân và áo năm thân theo lệnh của Hiếu Võ Hoàng đế năm xưa ở Thuận Hóa” [15, tr 263]. Áo năm thân mặc với quần được gọi là “quần chân áo chít”, cách mặc này bắt tất cả nam nữ toàn quốc phải thực hiện theo. Lệnh cấm này đã được ban hành liên tiếp nhiều năm, cũng bởi những phụ nữ miền Bắc xưa khó từ bỏ thói quen mặc áo tứ thân và váy. Về sau, do lệnh của vua đã tạo áp lực nên họ đã dần thay đổi. Áo năm thân có kết cấu giống áo giao lĩnh, có cổ nhỏ, cài cúc bắt chéo trên ngực, ống tay áo dài. Kiểu áo này mặc phổ biến ở Đàng Trong, nhưng khi phát triển ra toàn quốc, đặc biệt với người lao động, để thuận tiện trong quá trình lao động, tay áo thụng đã được biến tấu hẹp hơn. Kiểu áo chít năm thân, cổ nhỏ cài khuyết, tay hẹp đã trở thành quốc phục triều Nguyễn. Vậy áo dài năm thân của triều Nguyễn chính là tiền thân của áo dài tân thời. Khi tiếp xúc với người Phương Tây, người Việt đã tiếp nhận những thành tựu khoa

45 học (kỹ thuật dệt vải) vào thiết kế áo dài và sự tiếp nhận này tạo nên một dấu ấn quan trọng trong công cuộc cải cách văn hóa mặc của người Việt. 1.3.2.3. Áo dài Áo dài (áo dài Lemur) ra đời vào những năm 30 thế kỷ XX trong cuộc cải cách y phục của phụ nữ. Đây là điểm mốc quan trọng chuyển hóa từ nền văn hóa truyền thống sang nền văn hóa hiện đại. Chiếc áo dài những năm 1930 nói nên ý thức giác ngộ của phụ nữ về quyền lợi của mình, chống lại quan niệm trọng nam kinh nữ của Khổng học. Đó là một bản tuyên ngôn phụ nữ muốn có tính cách riêng của mình, đòi tự do sinh hoạt ở xã hội, muốn phô bày cái đẹp thân thể. Áo dài là một sự “tiếp biến” thành công: Áo dài truyền thống đã kết hợp hài hòa với thời trang hiện đại Phương Tây, vẫn được thế giới đánh giá là áo dài dân tộc Việt Nam. Điều này chứng minh là phải hiểu bản sắc dân tộc một cách động chứ không phải tĩnh, không nệ cổ [55]. Sự ra đời và tiếp nhận áo dài trong xã hội đã tạo nên trào lưu văn hóa mặc cũng như thẩm mỹ mới của những phụ nữ có luồng tư tưởng văn minh tiến bộ. Sự tiếp nhận tư tưởng văn minh trên tinh thần yêu bản sắc, hưởng ứng những tiến bộ, phát triển của xã hội, của thế giới. Vận dụng những văn minh ấy kết hợp hài hòa nhằm tạo ra giá trị văn hóa mới mà không làm mất đi bản sắc. Những tư tưởng cũ, cổ hủ chỉ làm cho con người trở nên trì trệ hơn. Sự phát triển kỹ thuật khoa học, con người đã dệt được những tấm vải có khổ lớn, lái buôn ở Phương Tây mang đến Việt Nam những loại vải khổ rộng, do đó người Việt đã sử dụng may áo dài. Khổ vải rộng nên khi thiết kế không phải nối sống, do đó thân áo giảm các đường can ghép xuống còn 2 và 1 thân áo trước phụ đỡ đính khuy, thân thứ ba được gọi là vạt hò. Tay áo vẫn nối sống,

46 các họa sỹ như Nguyễn Cát Tường, Lê Thị Lựu tiên phong việc bỏ sống giữa thân áo, thu gọn chiều rộng vạt áo và tay áo, áo dài ba thân bắt đầu từ đây [75]. Áo dài ngày nay được các nhà thiết kế cải tiến không dùng đến vạt thứ 3 (vạt hò đỡ khuy) mà thay vào đó là phụ kiện như may khóa ở sườn hoặc ở sống lưng. Áo dài được thiết kế khá đa dạng với nhiều hình dáng mới, tuy nhiên hình dáng áo dài có thân ôm sát cơ thể vẫn được phổ biến trong xã hội. Ngoài ra nghệ thuật trang trí được các nhà thiết kế đưa vào áo dài tạo nên diện mạo mới, nâng sản phẩm áo dài trở thành nghệ thuật thiết kế, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của phụ nữ trong xã hội hiện đại. 1.3.3. Hình dáng kết cấu, màu sắc và chất liệu vải trong thiết kế áo dài trước những năm 1930 Như đã trình bày phần lịch sử áo dài của phụ nữ Việt, áo dài có nguồn gốc là áo tứ thân, tiếp đến là áo năm thân cổ giao lãnh. Sau khi tiếp nhận văn hóa mặc của người Phương Bắc (nhà Mãn Hán), áo dài năm thân cổ đứng được phổ biến mặc trong dân gian và cung đình. Như vậy có thể xác định tiền thân của áo dài trước những năm 1930 đó chính là áo năm thân cổ đứng.

Sơ đồ 1. Những mẫu áo trước khi biến đổi thành áo dài 1.3.3.1. Hình dáng và kết cấu Áo dài năm thân có cấu trúc hình chữ nhật, 2 thân lớn của áo được may ghép từ 4 khổ vải, thân nhỏ là một khổ vải ngắn đến ngang ngực nằm phía trong nhằm tạo điểm đỡ khuy cài. Do đó điểm mở áo nằm chéo từ cổ xuống điểm gập nách ở bên phải người mặc. Trên mỗi thân áo được may ghép từ 2 khổ vải hình chữ nhật chạy thẳng từ phần cổ xuống gấu, không có đường lượn tà. Do đó hình dáng áo là hình chữ nhật, kích thước thường rộng hơn so với cơ thể người mặc. Do kỹ thuật dệt thủ công nên vải vào thời điểm này chỉ hẹp khoảng 40cm, vì

47 vậy áo có đường nối giữa thân. Đường nối tay không cố định, tùy thuộc vào khổ vải và việc căn định hình kích thước các mảng kết cấu trên áo dài trong quá trình thiết kế. Áo năm thân truyền thống phổ biến có hai kiểu cơ bản, sự khác biệt của hai kiểu áo năm thân đó hình dáng của tay áo. Một là dáng ống tay hẹp, kiểu này thường phổ biến trong dân gian ta bắt gặp qua tác phẩm tượng thờ như Kim Đồng và Ngọc Nữ [PL 2, H.2.4, tr 204]. Dạng áo năm thân thứ 2 có hình dáng và kết cấu tay thụng – tay ống rộng. Kiểu tay thụng thường được những phụ nữ thuộc giới quí tộc và trong cung đình ưa chuộng [PL 5, H.5.6, tr 246]. 1.3.3.2. Màu sắc Điểm nổi bật của áo dài năm thân truyền thống ở thế kỷ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX đó là màu sắc. Bởi ở giai đoạn này, trang phục trong dân gian không bị những quy định về dùng màu như thời kỳ phong kiến trước đó. Cuối thế kỷ thứ XVIII, khi dòng chảy văn hóa dân gian phát triển, dân trí được nâng cao, màu sắc trang phục trong nhân dân cũng có sự cởi mở hơn trước. Nghề nhuộm thịnh hành, đáp ứng nhu cầu, sở thích của cá nhân cũng như các hoạt động xã hội. Bảng màu rất phong phú về sắc độ: Xanh: xanh lá mạ, xanh nõn chuối, hồ thủy…; Vàng: vàng chanh, vàng da cam, vàng rơm…; Tím: tím hoa sim, tím hoa cà…; Nâu: nâu cánh gián, nâu đất, da lươn… [76, tr 421]. Màu sắc trên áo dài của người Việt xưa sử dụng theo văn hóa từng vùng, hay môi trường sống và đặc biệt là theo lứa tuổi. Trước hết quan sát cách sử dụng màu sắc theo văn hóa vùng miền, đại diện là các đô thị - 3 trung tâm văn hóa lớn của cả nước: Miền Nam – Sài Gòn, miền Bắc – Hà Nội, miền Trung có Huế. Mỗi vùng miền có khí hậu, môi trường thiên nhiên, xã hội, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa cộng đồng khác nhau sẽ tác

48

động đến cách sử dụng màu sắc, hình dáng… và tiếp nhận những cái mới khác nhau trên áo dài. Huế là kinh đô của nhà Nguyễn, nổi bật với văn hóa cung đình và những triết lý sâu sắc của cuộc sống. Phụ nữ nơi đây luôn toát lên vẻ quí phái, ẩn chứa những nét duyên dáng, kín đáo. Do đó họ sử dụng màu sắc khá nhã nhặn, nên “đối với màu tím, phụ nữ Huế quan niệm đó là một sắc trang nhã. Trông không buồn mà chỉ như mỉn cười. Không quá nồng nàn như bông hoa lài mà thoang thoảng như hương lan thanh đạm và tế nhị...” [79, tr 188]. Phụ nữ Huế ưa dùng màu tím vì họ cho rằng màu tím rất phù hợp với đức tính cũng như thể hiện sự “tinh tế” trong thị hiếu thẩm mỹ trên áo dài. Sài Gòn thuộc vùng đất Nam Bộ, nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa từ các vùng trong cả nước, đặc biệt nơi đây đã tiếp nhận ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa Đông – Tây. Do đó người Sài Gòn đã hình thành nên tính năng động, dễ thích ứng và mạnh dạn tiếp nhận những tư tưởng, thành tựu mới vào mọi lĩnh trong cuộc sống, đặc biệt trong văn hóa mặc áo dài. Do đó màu sắc áo dài cũng khá đa dạng, họ mặc theo sở thích và nhu cầu công việc. Miền Bắc đặc trưng với văn hóa Châu thổ Bắc bộ, khí hậu 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, con người nơi đây linh hoạt thích nghi với môi trường khí hậu. Màu sắc của thiên nhiên được con người ưu ái vận dụng trong đời sống, trong trang phục tạo nên nét văn hóa mặc đặc trưng. Mặc dù cách sử dụng màu sắc của phụ nữ Việt ở các vùng miền có khác nhau nhưng ta vẫn thấy sự thống nhất về thẩm mỹ, các thành thị phụ nữ tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, học sinh đều mặc quần trắng với áo dài, tầng lớp dân thường mặc áo dài với quần màu đen. Về kiểu dáng cùng một kết cấu là áo dài năm thân. Về sắc độ của màu, tùy vào điều kiện kinh tế, sở thích của mỗi người mà được phối với màu của quần. Dưới góc độ khoa học về màu sắc: Màu trắng và màu đen là màu vô sắc, thường dùng bổ trợ cho những sắc màu khác và có

49 vai trò làm dung hòa. Như vậy với phụ nữ cả 3 miền Bắc, Nam và miền Trung – Huế dùng màu vô sắc (đen hoặc trắng) làm màu nền với mục đích dung hòa sắc rực rỡ của phần áo. 1.3.3.3. Chất liệu vải và tính trang trí - Chất liệu vải: Để góp phần tạo nên nét đặc trưng áo dài năm thân truyền thống của người phụ nữ Việt, không thể không nhắc đến vai trò của chất liệu vải. Do hình dáng áo được thiết kế suôn thẳng từ trên vai xuống gấu, nên chất liệu vải may áo thường mềm mại điển hình như chất liệu từ tơ tằm lụa, gấm, lĩnh, đoạn, the, sa, xuyến, băng. Những chất liệu tơ tằm được dùng kết hợp với nhau tạo thẩm mỹ cho áo dài, “bốn loại the, sa, xuyến, băng lại có đặc tính giống nhau: nhẹ, thưa, mỏng và thường được sử dụng làm lớp phủ ngoài. áo dài gấm trắng, phủ the lam hay tấm áo lụa đào, phủ the thâm làm dịu màu bên trong, tạo nên sự nền nã cho người mặc,…” [76, tr 415]. - Tính trang trí: Trước những năm 1930 tính trang trí trên áo dài được thể hiện chủ yếu theo bố cục cải hoa văn dàn trải trên bề mặt chất liệu tơ tằm qua kỹ thuật dệt. Những hình mẫu hoa văn trên lụa gắn liền với môi trường thiên nhiên, đó là những hình ảnh từ hoa lá, cỏ cây và động vật. Trên cơ sở những hình ảnh đó, còn xuất hiện những hình hoa văn được sáng tạo theo tưởng tượng thoát khỏi hình ảnh thực để đạt đến giá trị của một biểu tượng (hoa văn trang phục cung đình). Tất cả sự sáng tạo đó đã được đúc rút từ thực tế của cuộc sống và những ước muốn, khát vọng của con người với thiên nhiên, vũ trụ. Vì thế họa tiết hoa văn trang trí trên lụa tơ tằm được diễn đạt theo thủ pháp tả thực, kết hợp lược bỏ những chi tiết rườm rà làm nổi bật nên những đường nét đặc trưng. Thủ pháp này thường vận dụng vào tạo họa tiết hoa văn trang trí trang phục cung đình và trang phục trong dân gian. Tuy nhiên trong họa tiết trang trí trong dân gian có phần giản lược hơn cả về đề tài cũng như số lượng hình họa tiết so với trang phục cung đình.

50

Đề tài hoa văn trang trí trên áo dài năm thân của phụ nữ Việt trong dân gian chủ yếu là những hình hoa chanh, hoa đào, hoa cúc, hoa mai, hoa dây… [PL 2, H.2.10, tr 207], nhưng có những mẫu hoa văn được cách điệu thêm, bớt những chi tiết, đường nét nhằm làm tăng yếu tố trang trí, tạo hiệu quả thẩm mỹ cho áo dài. Đặc biệt, để làm nổi bật những hình hoa văn trang trí, người thợ đã sử dụng màu sắc hoa văn sáng hơn màu nền – chính của lụa, tuy nhiên sắc độ không quá chói, đủ để thấy những độ màu đó hài hòa với nhau. Thậm chí màu của hoa văn với màu chính của lụa có sắc độ chênh nhau không nhiều, chỉ thấy loáng thoáng hoa văn [PL 2, H.2.10.a và b, tr 207]. Điều này cho thấy, mặc dù có sử dụng hoa văn trang trí nhưng tạo hình thẩm mỹ tinh tế thể hiện nét giản dị, không phô trương, mà vẫn toát nên giá trị văn hóa mặc của dân tộc. Như vậy áo dài trước những năm 1930 được xác định là áo dài năm thân cổ đứng. Áo có dáng hình thang suông rộng, được may ghép sống giữa cả thân trước và thân sau. Thân áo được may ghép với tay ở khoảng giữa cánh tay. Với quan điểm thẩm mỹ của người xưa, thông qua trang phục toát lên vẻ đẹp ý nhị, kín đáo, phù hợp với văn hóa, lễ giáo… Do đó áo dài thường được cắt rộng (cắt ghép hết khổ vải), khi mặc không để phô, lộ rõ thân thể. Màu sắc là những gam màu gần với màu trong môi trường thiên nhiên. Tiểu kết Như vậy nội dung của chương 1 trong luận án đã giải quyết được những vấn đề cốt lõi và những định hướng nghiên cứu của đề tài “Sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt những năm 1930 đến năm 2017”. Cơ sở lý luận của luận án được áp dụng 3 lý thuyết nghiên cứu, đó là lý thuyết “Tiếp biến văn hóa”, “Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa” và “Thuyết bắt chước” để giải mã về quá trình tiếp thu và biến đổi trong thiết kế áo dài. Ngoài ra luận án còn sử dụng những luận điểm, cơ sở phương pháp luận design và luận điểm trong triết học Mỹ học nhằm dẫn giải về tư duy thiết

51 kế áo dài cũng như đặc điểm, phong cách thiết kế áo dài của nghệ nhân và các NTK. Khởi nguồn của áo dài phụ nữ Việt là áo năm thân cổ giao lãnh. Trong quá khứ, yếu tố chính trị xã hội đã tác động đến sự thay đổi về hình dáng và kết cấu của áo dài. Đến những năm 1930, áo dài mới thực sự định hình rõ nét, còn được gọi là áo dài tân thời. Như vậy giai đoạn từ năm 1930 đến năm 2017, thiết kế áo dài đã có nhiều thay đổi. Cùng với những sáng tạo cá nhân, người làm thiết kế đã biến đổi trên cơ sở hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và đặc biệt là họ đã đưa nghệ thuật trang trí vào thiết kế áo dài tạo nên diện mạo mới cho áo dài, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội.

52

Chương 2 THIẾT KẾ ÁO DÀI VÀ NHỮNG TIẾP THU - BIẾN ĐỔI TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI TỪ NĂM 1930 ĐẾN 2017 2.1. Nghệ thuật thiết kế áo dài từ năm 1930 đến 2017 Dựa vào những yếu tố tạo hình trong thiết kế áo dài và những dấu ấn quan trọng trong văn hóa mặc áo dài của phụ nữ Việt. NCS chia thiết kế áo dài sau những năm 1930 thành 2 giai đoạn: Từ năm 1930 đến 1980 và từ sau năm 1980 đến 2017. Bởi NCS nhận thấy ở 2 giai đoạn này áo dài có nhiều khác biệt về phương thức kiến tạo cũng như thẩm mỹ trong sáng tạo của các nhà tạo mẫu. Đặc biệt nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng đã tác động lớn đến sự sáng tạo, thiết kế áo dài. Do đó khi đề tài của luận án đề cập đến nội dung “Sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt…”, NCS nhận thấy chỉ từ sau năm 1980 đến năm 2017, thiết kế áo dài mới phát huy mạnh mẽ về tính nghệ thuật màu sắc, chất liệu vải, và tính trang trí. 2.1.1. Thiết kế áo dài giai đoạn năm 1930 đến năm 1980 Trong những năm 1930 áo dài đã có nhiều biến đổi từ hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải ... nó đã tạo thành một trào lưu văn hóa mặc mang tính cách mạng, được công khai trên diễn dàn với những cải tiến mang lại cho áo dài phụ nữ một vẻ đẹp thanh tân, bởi sự sáng tạo đa dạng, phong phú kết hợp với sự tác động của chính trị xã hội; giao thoa văn hóa và khoa học công nghệ kỹ thuật đã góp phần hình thành áo dài phụ nữ Việt giai đoạn đầu thế kỷ XX. - Hình dáng và kết cấu Trên tờ bào Phong Hóa số 90 ra ngày 23/ 3/ 1934, đã được họa sỹ Nguyễn Cát Tường đưa ra những mẫu áo dài đầu tiên có kiểu dáng và kết cấu mới khác lạ so với áo năm thân cổ đứng. Hình dáng và kết cấu được cách tân khá mạnh bạo, khi mặc áo dài mới, cơ thể của phụ nữ được tôn lên và duyên dáng hơn. Áo có kết cấu hai thân, không còn đường ghép sống giữa ở cả thân trước và

53 thân sau. Sự thuận lợi trong quá trình biến đổi thành công hình dáng và kết cấu áo dài của những năm 1930 là do trên thị trường đã có nhiều loại vải khổ rộng. Ngoài ra Nguyễn Cát Tường đã chủ động sửa kiểu cổ cứng của áo, mở rộng cổ hơn, và tạo thêm đường viền gợn sóng, bèo nhúm, khi thì vắt chéo sang sườn, hay cổ bẻ ngả phía trước và sau, lúc cổ lại xếp ly dựng… [PL 3, H.3.1 và H.3.2, tr 208]. Phần tay áo, ông đã tiếp nhận những chi tiết của trang phục phụ nữ Châu Âu như hình dáng tay vai bồng để ghép với thân áo [PL 1, H.1.5.a, tr 202]. Đặc biệt ở phần cổ tay, họa sỹ có phần biến tấu nhiều hơn cả: có mẫu thì tạo măng sét chun, mẫu có bèo nhúm thẳng, nhúm chéo, dáng ống loe viền đăng ten…tạo dáng phong phú, lạ mắt [PL1, H.1.6, tr 202]. Với tư duy trang phục phải tôn được hình dáng “mỹ thuật” của cơ thể, chỗ nở chỗ thắt, tạo nên được nét mềm mại uyển chuyển của phụ nữ. Nên phần eo, ông đã thiết kế ôm sát theo số đo của từng người, phần xẻ tách 2 tà trước và sau vẫn được giữ nguyên điểm xẻ của áo năm thân, vị trí xẻ dưới eo khoảng 8cm [56] nhằm giữ dáng áo mềm mại và duyên dáng những vẫn kín đáo. Phần mở áo, cũng được ông chuyển dịch sang vai tiếp tục chạy dọc xuống thân ở bên sườn. Sự thay đổi này đã tạo cho người mặc cảm thấy vừa vặn, tôn hình dáng của cơ thể phụ nữ. Kiểu dáng cách tân này được họa sỹ cho mặc kết hợp với kiểu quần ống rộng, theo ông dáng quần ống rộng sẽ làm cho phụ nữ uyển chuyển, thướt tha hơn. Áo dài Lemur đã được các phụ nữ trí thức như luật sư Nguyễn Thị Hậu, hiệu trưởng trường tư thục Trịnh Thục Oanh, bà vợ bác sĩ Lê Đình Quỵ ủng hộ, các nữ học sinh trung học thành thị… tạo nên một diện mạo mới trong không gian sống ở phố thị lúc bấy giờ. Phong trào mặc áo dài Lemur đã phát triển mạnh mẽ ở cả 3 trung tâm lớn trong cả nước là Hà Nội, Sài Gòn và ở Huế. Thông qua chuyến đi được thực hiện vào năm 1935 “họa sỹ Cát Tường thực hiện một chuyến xuyên Việt từ Bắc vào Nam lâu suốt một năm, để giới thiệu cho phụ nữ toàn quốc chiếc áo

54 dài tân thời Lemur, làm phong trào mặc áo mới của các bà các cô thêm sôi sục” [56, tr 33]. Sự thành công của áo dài Lemur giai đoạn này đã được tác giả Thạch Lam bày tỏ trong số 134 trang 3, ngày 30/ 1/ 1935 là do: Quần áo mới lạ hơn quần áo cũ ở nhiều chỗ khác nhau. Các cô thiếu nữ không mặc một loạt giống nhau từ cái áo cho đến màu áo. Bây giờ, các cô có thể lựa chọn quần áo sao cho hợp với người mình. Một cô thấp béo và cả ngang không thể cùng một kiểu áo như cô cao mà gầy được… Y phục mới bây giờ hơn y phục xưa ở vẻ dịu dàng và tươi vui. Ngày trước cốt che khuất thân thể, che khuất cái dáng tự nhiên của thân thể, thay vào là cái dáng của quần áo lụng thụng, bây giờ cốt làm cho cái dáng điệu thân thể tự nhiên phô bày hay chữa cái dáng ấy cho được uyển chuyển thêm [56, tr 38]. Tuy nhiên, những kiểu áo dài Lemur đã phát triển ở Sài Gòn đến năm 1955, còn ở Hà Nội phát triển đến năm 1946 thì không còn tồn tại, vì lý do phong trào mặc truyền thống trở lại và nó không còn phù hợp với hoàn cảnh thời chiến (chiến tranh Việt – Pháp năm 1947 – 1954). Những mẫu thiết kế áo dài của họa sỹ Nguyễn Cát Tường không chỉ cách tân về kiểu dáng, hay tiếp thu những yếu tố tạo hình mới trong trang phục của người Phương Tây. Mà ông còn thiết kế những mẫu áo dài có hình dáng gần giống áo dài năm thân thời kỳ trước. Hình ảnh phụ nữ mặc áo dài trong tác phẩm Nắng thu [PL 3. H 3.5.a, tr 209] in trong số 31 báo Ngày Nay (25/ 10/ 1935) có thân áo ôm phần thân trên, xẻ tà dưới eo, tay dài ôm sát. Đặc biệt phần áo có cổ đứng ôm khít. Tạo hình mang đậm yếu tố Phương Đông. Yếu tố Phương Tây được Nguyễn Cát Tường khai thác đưa vào bổ trợ, phong phú thêm ở phần hình dáng áo được đánh cong ở phần eo. Nên khi mặc, hình dáng “mỹ thuật” của cơ thể phụ nữ được tôn lên một cách khéo léo. Kiểu áo này đã được

55 xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm hội họa của họa sỹ Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Tô Ngọc Vân khi vẽ về đề tài phụ nữ. Như vậy những ảnh hưởng thiết kế của Phương Tây với thiết kế áo dài những năm 1930 có 2 điểm nổi bật. Điểm thứ nhất là hình dáng, áo được may ôm vừa vặn với số đo cơ thể, khi mặc bầu ngực của phụ nữ nổi khối căng tròn, tà ôm khoe được đường cong nữ tính. Điểm thứ hai là màu sắc của áo dài phong phú về tông màu, chất liệu đa dạng. Áo dài được mặc kết hợp với quần ống thẳng màu trắng, tạo nên sự tinh tế cho người mặc. Yếu tố Phương Đông được Nguyễn Cát Tường vẽ trong tranh là hình ảnh cô gái mặc áo dài có chi tiết cổ áo và sự đơn giản các chi tiết trang trí, thân vạt dài, tà lượn, có kiểu áo ông thiết kế vai liền nối tay, nhưng cũng có kiểu nối tay với thân ở mỏm vai (hay gọi vai tay tròn) và không tạo bồng nhúm [PL 3, H.3.1, tr 208]. Phần cổ áo ông giữ nguyên kiểu cổ của áo năm thân, tà được xẻ cao hơn để dáng áo thêm phần mềm mại. Sự dung hợp hài hòa giữa cái mới và cái cũ trong thiết kế áo dài của Nguyễn Cát Tường được phụ nữ tân tiến ở thành thị hưởng ứng tiếp nhận. Năm 1958 ở Sài Gòn, áo dài đã có nhiều cải tiến hơn nữa về tạo phom dáng. Điển hình những năm này, bà Trần Lệ Xuân mặc kiểu áo dài tà rộng cổ đứng ôm khít, nhưng trên thân áo có đường kết cấu tạo ly chiết ở thân trước và thân sau, chi tiết này làm giảm tối đa độ rộng của áo, tức áo được may ôm sát eo làm nổi phần ngực và nở phần hông. Đáng chú ý là phần cổ áo, được thiết kế không có chân, cắt rộng tạo thành các dáng hình tim và thuyền (dáng hình cổ tim có kích thước rộng cổ nhỏ hơn độ sâu của cổ, dáng hình cổ thuyền có kích thước ngang lớn hơn kích thước độ sâu cổ) [PL 3, H.3.11.c và d, tr 212]. Kiểu áo này lúc đó được cho là quá táo bạo, khoe thân, mang tính chất khêu gợi, nó chỉ phù hợp với những phụ nữ Phương Tây, bởi họ có tư tưởng thoáng trong cách mặc trang phục. Có lẽ đó là cách nhìn theo quan điểm kín đáo của người Phương Đông, nhưng Trần Lệ Xuân lại cho rằng kiểu áo bà mặc là phù

56 hợp với xu hướng thời trang của Phương Tây, do đó bà thường xuyên mặc áo dài trong các buổi gặp gỡ với người nước ngoài. Đặc biệt, phần tay áo thiết kế theo đường chéo từ cổ xuống điểm hạ nách, kiểu thiết kế này có ưu điểm là giảm các nếp nhăn giữa giao điểm gập nách. Thiết kế tay chéo còn được gọi là tay raglan. Do đó khi người phụ nữ mặc áo, tay tròn hơn, phần ngực êm phẳng. Như vậy sự xuất hiện đường kết cấu vai tay raglan đã góp phần tạo nên những giá trị chuẩn mực trong thiết kế áo dài. Vậy Trần Lệ Xuân tuy chỉ xuất hiện với tư cách là người sử dụng áo dài, nhưng quan điểm trong cách mặc của bà thể hiện rõ cá tính, vì thế đã tạo nên dấu ấn mạnh mẽ về một phong cách mặc áo dài ở những năm 1950 – 1960. Như vậy dù có thay đổi đến đâu nhưng điểm đặc biệt trong thiết kế áo dài là phần trên phải ôm sát cơ thể và 2 tà “mở” ở eo, đã tạo nên điểm nhấn về kết cấu, định hình của áo dài. Điểm xẻ này cũng là điểm cài cúc, chốt lại phần “cứng” của thân trên áo dài làm cho 2 tà áo, khi người mặc tà áo được tự do tạo theo sự chuyển động của người mặc nên đường nét mềm mại, thướt tha, thấp thoáng xen lẫn màu sắc của tấm quần mặc bên trong. Chính điểm độc đáo này mà áo dài không những che đi được khuyết điểm (nếu có) về kích thước, tỷ lệ của phần thân dưới mà còn tôn thêm dáng hình cho người mặc. - Màu sắc Do sự phát triển của công nghệ dệt vải sợi và nhuộm màu hóa học, mà hệ thống sắc độ của loại vải đã có nhiều hơn như các màu xanh: thiên thanh, xanh ngọc, xanh cỏ úa, rêu và xanh cốm; màu mỡ gà; màu trắng đục/ trắng màu vỏ trứng; màu nâu đồng, màu đồng; màu tím, tím tam giang, tím hoa cà, hồng; màu lòng tôm… Màu sắc áo dài được dùng theo lứa tuổi: Phụ nữ trung tuổi mặc áo dài màu trầm, tối như màu nâu, chàm, đen, tím, xanh đậm. Các cô gái trẻ tuổi mặc

57 màu sáng như màu trắng, màu hồng dâu, màu xanh ngọc, xanh rêu, xanh thiên thanh… Màu sắc sử dụng theo môi trường lao động và thời tiết khí hậu. Mùa đông đa phần là màu tối, trầm như màu đen; mùa hè là những màu sáng như màu trắng hay màu đa sắc. - Chất liệu và tính trang trí Giai đoạn này khoa học công nghệ đã phát triển, những máy dệt lụa tăng năng xuất đã được nhập khẩu và chúng giúp những người thợ dệt được nhiều loại lụa, đặc biệt là có hoa văn phong phú hơn thời kỳ trước đó. Cùng với nó là việc mở rộng giao thương với các nước trên thế giới đã thấy trong thị trường xuất hiệu nhiều chất liệu vải mới điển hình như vải nhung tuyết. Nhìn chung giai đoạn này đa phần áo dài được sử dụng các chất liệu lụa tơ tằm (lụa có nhiều loại như lụa trơn, lụa vân, lụa dệt nhiều mẫu hoa văn, sa…) của hàng nội địa và nhập khẩu. Chất liệu may áo dài cũng được sử dụng theo thời tiết khí hậu, mùa hè phụ nữ thường lựa chọn lụa hay các chất liệu vải mỏng, mùa đông ưa sử dụng những chất liệu vải nhung, sa tanh, gấm hay vải thô, lanh trần bông. Thời kỳ này tính trang trí trên áo dài chỉ phổ biến qua các hoa văn dệt trên lụa và đeo trang sức như chuỗi ngọc trai hay kiềng vàng, bạc. Tạo hình trang trí phổ biến là dàn trải trên bề mặt vải trong quá trình dệt. Ngoài ra còn thấy những mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật thêu tay tạo trang trí nổi bật như những mẫu áo của nhà may Dung Đakao ở Sài Gòn [PL3, H.3.12, tr 212]. Nhìn chung đặc điểm chính trong thiết kế áo dài ở giai đoạn năm 1930 đến 1980 thể hiện ở hai yếu tố. Thứ nhất là thiết kế đơn chiếc theo từng đặc điểm dáng người và yêu cầu của người mặc. Độ rộng thân thu hẹp hơn và may theo số đo của từng người. Độ rộng của thân áo ở điểm ngang hông còn được người thợ cắt theo đặc điểm dáng người. Hay người béo (mông to) thích lựa

58 chọn tà rộng che kín phần mông, người thấp lựa chọn tà hẹp so với kích thước cơ thể nhằm tạo cảm giác người cao và thanh thoát. Thứ hai là thiết kế mặc theo lứa tuổi, theo công việc/ nghề và theo khí hậu thời tiết. Như các cô thanh niên chọn may áo ôm sát người và tà dài, hay các bà trung tuổi lại chọn áo tà suông. Người lao động hay buôn bán thường mặc áo dài may rộng. Học sinh tùy từng lứa tuổi thì cắt may gọn gàng, phù hợp với hoạt động. Điểm đặc biệt là dù có thiết kế theo từng người nhưng các mẫu áo thường dùng khá thống nhất về hình dáng và kết cấu theo diễn biến của mỗi năm. Hay việc sử dụng màu sắc áo dài cũng được dùng chung như người lao động ưa thích các màu tối như nâu, đen; học sinh lại thích mặc màu sáng, trắng. Đặc biệt màu sắc áo dài cũng được dùng theo mùa: Mùa hè mặc tông màu sáng, mùa đông mặc màu trầm tối… Chính điều này đã tạo nên nét đặc trưng trong thiết kế áo dài giai đoạn năm 1930 – 1980. 2.1.2. Thiết kế áo dài giai đoạn từ sau năm 1980 đến năm 2017 Sự thay đổi thị hiếu thẩm mỹ trong xã hội hiện đại khiến các NTK áo dài không chỉ quan tâm đến vóc dáng, màu da mà còn quan tâm đến những đặc thù của môi trường nghề nghiệp. Đặc biệt, để có những nét độc đáo riêng họ còn quan tâm đến cá tính, thần thái của người mặc áo dài. Tuy nhiên ngoài yếu tố con người, các NTK còn quan tâm đến những ý tưởng sáng tạo thiết kế khác biệt, phù hợp với xu hướng thời trang đồng thời mang dấu ấn cá nhân của mình trong mỗi bộ sưu tập áo dài. Để những mẫu áo dài phù hợp hơn, các NTK đã cập nhật và áp dụng nhiều kỹ thuật, công nghệ mới nhằm cải tiến tạo sự thuận tiện, mang lại giá trị như độ bền, đẹp đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người trong xã hội hiện đại. Do đó đặc điểm thiết kế áo dài giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017 nổi bật với 2 yếu tố, thứ nhất là xây dựng qui chuẩn design, thứ hai là việc áp dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật. Những yếu tố này đã giúp các NTK tạo nên được

59 dấu ấn cá nhân cũng như đáp ứng được thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội hiện đại, đặc biệt trong bối cảnh giao thoa văn hóa toàn cầu. - Xây dựng quy chuẩn design áo dài Quy chuẩn là một khái niệm gắn với các ngành kỹ thuật, sản xuất hàng hóa, dịch vụ và môi trường. Tuy nhiên trong thiết kế/ design sản phẩm, qui chuẩn được hiểu như những tiêu chí quan trọng trong việc thiết kế một sản phẩm hoàn thiện. Có nghĩa, mỗi sản phẩm design phải đảm bảo các tiêu chí về xã hội; công năng; công thái học; sinh thái; thẩm mỹ. + Với tiêu chí xã hội, sản phẩm phải đảm bảo mức độ hội nhập và định hướng sản phẩm các tầng lớp xã hội, ứng dụng phù hợp với nhu cầu thực tế của con người. + Tiêu chí công năng, đó là tính tiện ích, dễ sử dụng cũng như độ bền của sản phẩm. + Tiêu chí công thái học (ergonomic), đó là sự phù hợp giữa sản phẩm với con người và môi trường, nhân trắc học, tâm sinh lý … + Tiêu chí thẩm mỹ, là những đánh giá về hình dáng, cấu trúc, sáng tạo, chất liệu…, trang trí, tính nghệ thuật của sản phẩm. Như vậy qui chuẩn design mang tính toàn diện từ kỹ thuật thiết kế đến gia công… đảm bảo tính thẩm mỹ và đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người. Cơ sở xây dựng qui chuẩn thiết kế áo dài được các nghệ nhân, NTK dựa vào ba yếu tố, thứ nhất là về con người trong đó các NTK phải có những kiến thức tổng hợp về cấu trúc nhân trắc học cơ thể, nắm bắt được đặc điểm hình dạng và tính cách hay tâm hồn, thần thái của người mặc áo dài. Thứ hai là nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ Việt trong xã hội đương thời. Thứ ba là đúc kết, học hỏi những kinh nghiệm thực tế trong thiết kế (quá trình sản xuất) từ đó đưa ra những phương pháp làm việc phù hợp để sáng tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cả về mỹ thuật và kỹ thuật.

60

Từ những nghiên cứu và khảo sát thực tế, NCS phân loại thiết kế áo dài thành 2 dòng chính: thứ nhất là áo dài đời thường, thứ hai là áo dài trình diễn. Mỗi dòng áo dài này lại được các NTK tạo nên những phong cách khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ trong xã hội. Điều này được hiển thị ở sơ đồ sau:

Sơ đồ 2. Phân loại thiết kế áo dài 2.1.2.1. Thiết kế áo dài đời thường Việc xác định qui chuẩn thiết kế áo dài đời thường còn dựa trên yếu tố về phong cách, điển hình như phong cách truyền thống và phong cách trẻ trung năng động. Mỗi phong cách có những đối tượng, nhu cầu và mục đích sử dụng khác nhau, đây sẽ là cơ sở cho các NTK sáng tạo, khai thác yếu tố tạo hình, thiết kế áo dài. Phong cách trẻ trung năng động: Đề cao yếu tố cách tân, thể hiện về tỷ lệ chiều dài tà áo ngắn; hình dáng và kết cấu được thiết kế linh hoạt, không theo khuôn mẫu cụ thể: có mẫu áo kết cấu tay raglan, có mẫu lại tay vai tròn hay khi tay ngắn, lúc tay dài, tay lỡ… Tông màu sắc đa dạng, đặc biệt phần phối màu được các NTK thể hiện có phần phá cách như sử dụng các màu tương phản phối cùng nhau, các màu sắc nổi bật như cam vàng, tím hồng, vàng chanh… Chất liệu vải khá đa dạng như các chất liệu mỏng: lưới, voan, ren… Nhìn chung đó là những sáng tạo, thiết kế thể hiện tính cách tân, đôi khi những sáng tạo đó còn làm mất đi những giá trị tạo hình của áo dài.

61

Phong cách truyền thống được sáng tạo thể hiện tính chuẩn mực trong tạo hình về hình dáng, kết cấu, tỷ lệ, màu sắc và trang trí. Đây cũng là phong cách đã được các NTK coi trọng, giữ gìn và đưa ra những chuẩn mực/ qui chuẩn trong sáng tạo. Từ những luận điểm trên có thể hình dung về qui chuẩn cho từng yếu tố thiết kế áo dài như sau: - Về hình dáng và kết cấu trong thiết kế áo dài Hình dáng áo dài là một yếu tố quan trọng tạo nên thẩm mỹ của áo dài, do đó các NTK, nhà may rất coi trọng những qui chuẩn về thông số, vị trí điểm cắt và lượng chiết ly. Ví dụ: Phần thân trên được thiết kế vừa vặn với kích thước cơ thể, như kích thước vòng cổ, vòng ngực, vòng eo, vai, bắp tay. Điểm xẻ tà xác định đúng vị trí phần eo, đồng thời vị trí eo cũng là điểm chiết của 4 đường ly ở 2 thân trước và sau. Tà áo buông, nhưng lại ôm khép không cong vênh. Đặc biệt tỷ lệ về chiều dài của tà áo được xác định hợp lý nhất là khoảng ngang ống chân. Tuy nhiên tùy vào phong cách người sử dụng có thể mặc áo tà dài chấm gót hay ngắn hơn. Thiết kế tay raglan là yếu tố tạo nên thẩm mỹ cho áo dài, bởi đường kết cấu trùng với vị trí chuyển động của cơ delta, đồng thời đây cũng là điểm khớp nối giữa xương cánh tay với xương đòn và xương bả vai giúp người mặc cảm thấy thoải mái khi vận động. Về mặt thẩm mỹ thì kiểu này làm giảm tối đa các nếp nhăn ở vị trí gập của phần nách. Do đó nó là một tiêu chuẩn về kỹ thuật trong thiết kế áo dài. Về kỹ thuật: Để có được thành công trong một sản phẩm, kỹ thuật thực hiện được chia theo nhiều công đoạn, trong đó có 2 công đoạn quan trọng: Thiết kế bản vẽ cắt vải và kỹ thuật ráp may. Từ bước lấy số đo kích thước cơ thể của người mặc, người thợ phải quan sát được những đặc điểm riêng. Bởi thể tạng mỗi người khác nhau như có người thì thân hình cân đối, hài hòa về kích thước, tỷ lệ. Nhưng lại có người thân hình không cân đối như lưng dài chân ngắn, hay

62 người lưng gù, người vai vuông lại có phần thân trên kích thước vòng ngực lớn, phần mông nhỏ và ngược lại. Đặc biệt có người quá gầy hay người lại quá béo… Do đó để xử lý khắc phục nhược điểm và phát huy những ưu điểm của người mặc, nhà thiết kế phải có cái nhìn tinh tế, xử lý, gia giảm về kỹ thuật sao cho hợp lý để đưa vào thiết kế đạt hiệu quả tốt nhất. Bởi vậy, NTK thường quan sát đặc điểm hình dáng hay cảm nhận về tính cách, cá tính của người mặc. Từ đó đưa ra những ý tưởng, kỹ thuật thiết kế cũng như sử dụng các yếu tố màu sắc, chất liệu vải, trang trí… phù hợp và tôn lên dáng của người mặc. Để làm được điều đó yêu cầu NTK phải có thẩm mỹ, sự nhạy bén và có sự liên tưởng nhằm tư vấn đáp ứng được nhu cầu của mỗi người sử dụng. Những phụ nữ thân hình quá gầy, NTK không thể may áo dài ôm sát với kích thước thực của cơ thể, số đo phải cộng thêm kích thước để tạo độ buông, cùng với đó thường sử dụng tông màu sáng, họa tiết hoa văn bố cục theo chiều ngang. Phụ nữ quá béo cũng không thiết kế kích thước ôm sát, mà áo vừa với số đo, tông màu trầm hay trung tính. Đây cũng chính là bí quyết thiết kế áo dài của Tuyết Nhung vào những năm 1990, chị đã chia sẻ: - Chú ý đến tông màu: không mặc áo dài tím với áo khoác vàng, đừng khoác áo xanh bên ngoài áo đỏ, và ngược lại, vì thông thường chỉ có diễn viên sân khấu chèo mới kết hợp hai tông màu nóng – lạnh như thế. - Người mập, thấp, không chọn vải bóng, xốp, may vai bồng cùng chiếc cổ cao, không chọn vải mútsơlin bó chẽn, khoét cổ sâu, không dùng màu sẫm. - Hình trang trí (nếu có): hoa dây chạy dọc, hình đuôi công, họa tiết thắt lại ở eo lưng, thích hợp với người vóc đậm. Hình hoa lá, đi mảng rộng bản về chiều ngang dành cho ai mảnh dẻ.

63

- Kiểu áo hai màu, can bốn mảnh không phù hợp với cả người mập lẫn người gầy. - Lối vẽ mảng miếng, đậm nhạt không theo nguyên tắc thẩm mỹ, tạo khối hình chóp, lục lăng, vuông nơi ngực, chạy theo ấn tượng lạ mắt, không những hỏng áo mà còn làm phí vẻ đẹp của người phụ nữ [38, tr 5, 7]. Kỹ thuật còn được coi là bí quyết của những nhà may lâu năm trở thành thương hiệu đặc trưng riêng của làng nghề may áo dài, như làng nghề Trạch Xá ở xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Ở đây, những người thợ may được truyền dạy những kỹ thuật khâu tay ở các phần như khâu gấu, khâu tà “dọc tay”, mũi chỉ khâu phải nhỏ và đều như kiểu “trong dán hồ, ngoài phô trứng nhện” gấu áo mới mềm nuột. Kỹ thuật đo và cắt cũng được những người thợ, nghệ nhân cho rằng sẽ quyết định tạo nên chiếc áo dài đẹp, kỹ thuật này được luận thành câu ghi nhớ: Cắt sao cho “ngang canh thẳng sợi”, có nghĩa khi trải vải cắt phải dóng đúng thẳng canh sợi, không chéo, không lệch, tà áo mới suôn mềm mại. Hay bí quyết phối hợp các kỹ thuật cắt - may với mỹ thuật trang trí cũng phải đồng nhất, hài hòa với nhau đảm bảo được yêu cầu chung về thẩm mỹ cũng như độ bền của sản phẩm. Như vậy qui chuẩn về kỹ thuật thiết kế áo dài là phải tôn được vóc dáng cơ thể người mặc, phù hợp với cá tính, nghề nghiệp và công năng sử dụng. Đặc biệt, xu hướng thiết kế ngày nay được các NTK quan tâm đến tính cách, tâm hồn và thần thái của người mặc. Với những phụ nữ cá tính, sôi nổi được thiết kế: Về hình dáng không mặc quá ôm sát với kích thước cơ thể, màu sắc là những tông màu có sắc mạnh hoặc màu đậm, chất liệu không dùng loại vải quá mềm, họa tiết trang trí thường lựa chọn họa tiết hình học, hay hình cách điệu có kích thước lớn gây ấn tượng thị giác hoặc không trang trí, tạo phong

64 cách tối giản… Ngược lại, những phụ nữ có cá tính nhẹ nhàng, phong thái điềm tĩnh, được NTK sử dụng các tông màu sáng, màu trung tính, chất liệu mềm mại như lụa hay vải voan mềm… - Về màu sắc trong thiết kế áo dài: Thẩm mỹ sử dụng màu sắc ở thời gian này có nhiều khác biệt hơn so với giai đoạn trước những năm 1930, đã có nhiều gam màu mới xuất hiện do những thành tựu của khoa học công nghệ nhuộm màu vải, cùng với sự cởi mở trong quan niệm dùng màu của phụ nữ. Tuy nhiên họ vẫn có những thẩm mỹ đặc trưng như màu sắc áo dài được “mặc theo mùa, theo dịp và theo cả từng lúc… và dù là màu gì thì quần cũng chỉ là màu trắng” [71]. Ngoài ra màu sắc cũng sử dụng theo lứa tuổi, theo ngành nghề. Điều này được nghệ nhân Mỹ Hào (là người có thâm niên cắt may áo dài và cũng là người sinh ra trong gia đình có nhiều thế hệ may áo dài từ trước những năm 1930 cho đến nay) cho biết: Tùy theo độ tuổi như tuổi từ 30 đến 40 thích mặc màu hoàng yến, tím than, tím huế, xanh cô ban, màu cá vàng. Những người buôn bán, lao động thích mặc màu nâu, đen. Học sinh, sinh viên mặc màu trắng. Đặc biệt là áo dài có màu sắc thế nào cũng chỉ mặc với quần màu trắng hay màu đen. Không mặc quần nhiều màu như bây giờ. Người nào béo thì mặc màu sẫm, không mặc màu sáng. Hay những người da trắng mặc những màu sắc nổi. Kể cả họa tiết hoa văn cũng tùy theo dáng, người béo mặc kẻ dọc, không mặc ca rô vuông” [Phỏng vấn nghệ nhân Mỹ Hào vào 03/ 12/ 2018]. Cách sử dụng màu sắc cũng thay đổi theo thời gian, đặc biệt từ những năm 2000 trở lại gần đây màu sắc cũng không còn là tiêu chí lựa chọn theo lứa tuổi, những cô gái trẻ tuổi vẫn thấy mặc những mẫu áo dài màu đen hay các màu sắc trầm, bởi khi những màu sắc đó phối hợp với kiểu dáng áo phù hợp như tà áo lửng mặc cùng quần ống nhỏ sẽ tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ mới. Điển

65 hình như mẫu áo dài sử dụng 2 màu trắng và đen phối hợp do Cao Minh Tiến thiết kế, trình diễn tại Festival áo dài Hà Nội năm 2016 [ PL 4, H.4.6, tr 219]. Từ những năm 2000 đến năm 2017, màu sắc trong thiết kế áo dài là yếu tố dễ thay đổi, mốc thay đổi không cố định có thể 1 năm, 2 năm hay chỉ vài tháng, thậm chí là trong một thời điểm có nhiều gam màu cùng hiện diện. Như tại lễ hội Festival áo dài Hà Nội diễn ra tại Hoàng Thành Thăng Long năm 2016, NTK Ngọc Hân sử dụng gam màu xanh – trắng [PL4, H.4.2, tr 217], Cao Minh Tiến sử dụng gam màu trắng – đen [PL 4, H.4.6, tr 218], nghệ nhân Lan Hương lại sử dụng những gam màu xanh, nâu và vàng trầm trong bộ sưu tập Cổng làng [PL 4, H.4.8, tr 220]... Bởi ở giai đoạn này, màu sắc áo dài được thiết kế dựa trên nhiều yếu tố, như màu sắc phải phù hợp đặc điểm hình dáng, màu da, thậm chí là tính cách, tâm hồn của người mặc. Bên cạnh đó, màu sắc áo dài cũng thiết kế theo xu hướng thời trang và ý tưởng của người mặc áo dài tùy vào môi trường xã hội. Đặc biệt màu sắc của quần cũng được thiết kế hợp tông với màu của áo, hay còn là nơi nhắc lại màu của họa tiết trang trí trên áo. Như vậy có thể thấy, ở giai đoạn này màu sắc áo dài đời thường được thiết kế dựa trên nguyên tắc phối màu như phối màu tương phản [PL 4, H.4.6, tr 218], phối màu tương đồng [PL 4, H.4.19, tr 226], phối đơn màu [PL 4, H.4.23, tr 228], phối màu vô sắc... Những nguyên tắc phối màu này đã tạo nên diện mạo mới cho áo dài, đáp ứng nhu cầu phong phú, thị hiếu thẩm mỹ đa dạng của phụ nữ trong xã hội. - Về chất liệu vải trong thiết kế áo dài Chất liệu vải được ví như làn da thứ hai của người mặc, với đặc trưng hình dáng và kết cấu của áo dài thì qui chuẩn về chất liệu thiết kế áo dài nên là chất liệu vải có độ mềm mại. Bởi khi mặc và di chuyển, kết cấu tà “mở” kết hợp với chất liệu vải mềm của áo sẽ tạo nên hình ảnh thướt tha, uyển chuyển cho người phụ nữ. Do đó chất liệu vải mềm là tiêu chí lựa chọn may áo dài,

66

“người ta có thể sử dụng nhiều chất liệu vải để may áo dài nhưng chúng phải có đặc tính chung là mềm mại, bởi vậy mới làm cho chiếc áo thướt tha và có dáng “bay”. Loại vải áo dành cho những phụ nữ lớn tuổi và các cụ già thường là nhung, the hoặc gấm, còn chị em trẻ may áo bằng vải sít, siu, phi bóng, và thậm chí cả mousseline!” [21]. Tuy nhiên ngày nay thị hiếu thẩm mỹ cũng có nhiều thay đổi, chất liệu vải may áo dài khá đa dạng, các NTK cũng linh hoạt biến tấu sử dụng các chất liệu vải khác nhau nhằm tạo nên những phong cách, sự mới lạ cho áo dài, như các chất liệu vải gấm, vải tơ sống, vải thô đũi, và những chất liệu vải dệt từ sợi tổng hợp có độ co giãn, dàn hồi… Đặc biệt, khi thiết kế áo dài để truyền tải được ý tưởng sáng tác các nhà thiết kế chú ý đến hiệu ứng thẩm mỹ của bề mặt vải, nên họ có thể dùng nhiều hơn một chất liệu vải để phối hợp với nhau nhằm đạt được giá trị nghệ thuật. Trong những mẫu áo dài do Vũ Việt Hà thiết kế trình diễn giới thiệu năm 2015 [ PL 4, H.4.16, tr 224], để đạt được ý tưởng NTK ngoài việc sử dụng màu sắc xanh lá và vàng chanh, anh còn khai thác hiệu ứng của chất liệu tơ tằm kết hợp với lưới móc. Hay NTK Đức Hùng cũng sử dụng 2 chất liệu là voan và nhung phối hợp với nhau trong BST Non thiêng [PL 4, H.4.31, tr 232], Lan Hương sử dụng chất liệu tơ tằm kết hợp với voan trong BST Hương sắc Việt [PL 4, H.4.17, tr 225] … Như vậy sự phối hợp đa chất liệu vải cũng là một trong những đặc trưng của nghệ thuật thiết kế áo dài trong những năm qua. - Về tính trang trí trong thiết kế áo dài Ở giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017, trang trí trên áo dài là một yếu tố được người thiết kế quan tâm, bởi nó có vai trò thể hiện ý tưởng, thông điệp của người thiết kế muốn truyền tải đến người mặc. Mỗi người thiết kế lại sử dụng những hình thức trang trí khác nhau nhằm tạo nên những nét riêng, độc đáo cho mỗi thiết kế của mình, như những mẫu áo dài của NTK Sĩ Hoàng

67 thường sử dụng kỹ thuật vẽ tay tạo họa tiết trang trí, hay mẫu áo dài của nghệ nhân Lan Hương lại sử dụng kỹ thuật thêu tay… Những hình mẫu trang trí trên áo dài đời thường còn được thiết kế phụ thuộc vào từng đặc điểm cơ thể, cá tính và môi trường xã hội của đối tượng mặc. Bởi người thiết kế đã áp dụng những nguyên tắc tạo hình trong thiết kế áo dài nhằm tạo nên hiệu ứng thị giác. Ngoài ra người thiết kế còn sử dụng trang trí như một phương tiện để tôn những ưu điểm hay che dấu, khắc phục những nhược điểm của cơ thể người mặc. Như vậy để xây dựng qui chuẩn design áo dài, NTK phải phối hợp hài hòa giữa kỹ thuật, mỹ thuật, cảm xúc và thẩm mỹ, nhằm sáng tạo nên những mẫu áo dài đáp ứng được nhu cầu thực tế của người mặc. Họ không thể dùng một khuôn mẫu thiết kế nào để áp dụng cho tất cả mọi người, mà tùy vào mỗi người để sáng tạo, thiết kế áo dài phù hợp. Điều này đã được NTK La Hằng cho biết quan điểm thiết kế áo dài như sau: Trước hết người thiết kế phải có tâm và trình độ thẩm mỹ tốt và là người phải hết sức tinh tế, sâu sắc để nhìn và cảm nhận được đối tượng mặc áo dài. Do đó tùy từng người mà thiết kế, bởi mỗi người mỗi vẻ, có người lại cần phải thiết kế đơn giản, nhưng có người lại cần đẩy hoa văn trang trí để tạo nên mẫu áo ấn tượng. Có người thì cần đẩy thiết kế bằng phom dáng, có người lại phải cho họ mặc bằng tinh thần. Tinh thần được thể hiện qua sự sang trọng, mà sự sang trọng đó là chất liệu và màu sắc. Như tùy vào nước da của người mặc mà người thiết kế sử dụng màu sắc cho hợp lý, như người da sẫm màu thì nên chọn những màu không quá chói hay quá nhạt. Nếu cần thiết thì phải đẩy cả hoa văn. Hay có người phụ nữ tính cách hiền dịu, nói năng nhẹ nhàng lại cần thiết kế toát nên sự đơn giản, bởi nó phù hợp tính cách dịu dàng của họ [Phỏng vấn vào ngày 21/08/2018].

68

2.1.2.2. Thiết kế áo dài trình diễn Thiết kế áo dài trình diễn có nhiều khác biệt so với áo dài đời thường, bởi do mục đích và yêu cầu mà những tiêu chí, qui chuẩn thiết kế có phần khác nhau. Mục đích thiết kế áo dài trình diễn là giới thiệu những sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ, nghệ thuật thiết kế áo dài với công chúng. Hay là những tư duy sáng tạo mang tính chất dự báo, đón đầu xu hướng thời trang - áo dài. Do đó tạo hình thiết kế thiên hướng nghệ thuật nhiều hơn là tính ứng dụng thường ngày. Đặc biệt thiết kế áo dài trình diễn được đặt trong không gian sân khấu/ sàn diễn có nhiều ánh sáng, không khí lễ hội. Do đó những yếu tố tạo hình hình dáng, màu sắc, chất liệu và tính trang trí được thiết kế tạo sự thu hút thị giác. Áo dài trình diễn sử dụng trong các sự kiện như: Dự tiệc khai trương, trao giải thưởng và đặc biệt là các cuộc thi sắc đẹp. Đặc biệt áo dài đã được thiết kế thành trang phục cưới của cô dâu [PL4, H.4.40, tr 239]. Đó là những môi trường có không gian lễ hội, nên mỗi thiết kế cần tạo sự khác biệt, nổi bật và thu hút thị giác. Do vậy các yếu tố tạo hình được các NTK sáng tạo vượt xa với tạo hình áo dài đời thường. Áo dài trình diễn có đặc điểm nổi bật như sau: Về hình dáng, kết cấu áo dài trình diễn được thiết kế dựa trên hình dáng, kết cấu của áo dài đời thường nhưng tỷ lệ của các chi tiết như tà áo, tay áo được biến tấu và mang tính cách điệu cao. Phần tà áo được thiết kế rộng, có xu hướng kéo dài so với tỷ lệ của người mặc, chiều dài tà trước và tà sau cũng có sự chênh lệch, tà trước ngắn hơn tà sau, nên khi di chuyển tà áo kéo quết mặt đất [PL4. H.4.39, tr 237 - 238]. Kết cấu của áo vẫn được thiết kế là dạng áo 2 tà, đôi khi thấy xuất hiện những tà áo kép nhằm tăng hiệu quả của tính trang trí. Tay áo cũng được biến tấu như tỷ lệ tay áo dài hơn tay người mặc, thêm vào đó là kết hợp với dải vải gợi lên chiếc khăn mềm mại, tăng phần duyên dáng cho người mặc [PL 4, H.4.39.a, 237]. Kết cấu tay raglan vẫn được các nhà thiết kế sử dụng, nó như một tiêu chuẩn cơ bản của mẫu áo dài.

69

Về màu sắc của áo dài trình diễn, nhận thấy các mẫu áo đều được thiết kế dựa theo nguyên tắc phối màu tương đồng và màu cùng tông như màu đỏ đậm phối với màu cam và màu vàng như mẫu áo của Trương Thị May [PL 4, H.4.39.c, tr 237] và Diễm Hương mặc [PL 4, H.4.39.b, tr 237], màu trắng phối với màu vàng như Hoa hậu Phạm Hương mặc đều do Thuận Việt thiết kế. Hay những phối màu tương phản của màu hữu sắc với màu vô sắc như trên nền áo màu đen thêu trang trí màu vàng trong mẫu áo của Cao Thùy Linh mặc do Tuấn Hải thiết kế [PL 4, H.4.39.f, tr 238]. Về chất liệu vải, đa phần các mẫu áo dài đều được phối kết hợp nhiều chất liệu khác nhau, đặt biệt là những chất liệu có chất cảm khác nhau như chất liệu có bề mặt bóng làm tăng khả năng bắt sáng khi trình diễn trên sân khấu, hay những chất liệu có bề mặt như lưới, voan mỏng, khi đặt những chất liệu vải lưới lên chất liệu vải khác, có thể nhìn thấy màu sắc ở lớp vải bên trong, đồng thời người thiết kế còn sử dụng tạo hình bề mặt vải lưới đó làm hoa văn trang trí [PL 4, H.4.39.e, tr 238]. Về tính trang trí trên áo dài trình diễn được các nhà thiết kế khai thác nhiều kỹ thuật khác nhau như thêu, đính kết, chắp ghép… Bố cục họa tiết trang trí và tỷ lệ các mảng hình trang trí khá lớn, gây ấn tượng thị giác. Như mẫu áo dài của Trương Thị May [PL 4, H.4.39.c, tr 237] có những mảng hình trang trí gần như che kín hết phần thân trước áo, những mảng trang trí tập trung ở cổ, ngực áo, tiếp đó được nhắc lại ở viền dọc tà kéo xuống gấu áo. Đặc biệt hình họa tiết hoa lá được thêu màu vàng nổi ở dưới tà gây ấn tượng, vừa do tỷ lệ hình lớn, do màu vàng tươi nổi bật được đặt trên nền màu nâu, mảng hình bên là màu đỏ và màu vàng trầm được kéo từ thân trên. Tất cả màu sắc của vải và màu của trang trí phối hợp với nhau khá hài hòa tạo nên bảng màu nóng ấm, có đủ độ sáng tối tương trợ nhau tạo hiệu ứng thị giác. Chính sự hài hòa về màu sắc, sự hợp lý vừa đủ về tính trang trí, mẫu áo dài đạt được đến giá trị nghệ

70 thuật, có lẽ đây là lý do mẫu áo được xếp thứ 4 trong Top 10 trang phục đẹp nhất tại Miss Universe 2013. Ngoài ra áo dài trình diễn còn được nhà thiết kế quan tâm đến những phụ trang phối hợp cùng như khăn đóng đội đầu, khăn choàng, trang sức giày… Những phụ trang được thiết kế tương hợp với tạo hình của áo dài, do đó chúng đóng góp một phần không nhỏ mang đến giá trị nghệ thuật trong thiết kế áo dài trình diễn. Áo dài cưới cũng là một dạng áo dài trình diễn, bởi trong tạo hình thiết kế áo dài được NTK quan tâm nhiều đến yếu tố trang trí, phối hợp chất liệu vải nhằm đẩy cao tính nghệ thuật, đôi khi còn tạo hình có phần ảnh hưởng từ trang phục dạ hội. Điểm này dễ nhận thấy trong mẫu áo của Anh Thư thiết kế áo dài cưới cho diễn viên Thúy Diễm [PL 4, H.4.40.a, tr 239] và Anh Thư cũng cho biết: “Điểm nhấn của thiết kế là hoa văn gương soi xuyên suốt đặt ở trung tâm áo, gồm mặt trước và sau dựa trên sự kết hợp ba chất liệu: gấm – lưới – ren… Nhờ cách xử lý nhiều layer (tầng lớp) mà bộ áo dài có độ phồng phần tà. Điều này khiến áo dài như áo dạ hội nếu người mặc đứng yên một chỗ. Tà hai bên được xử lý tạo hiệu ứng cho di chuyển, lúc đó mới nhận ra là áo dài” [131]. Vậy thiết kế áo dài trình diễn đề cao tính nghệ thuật, nên không có khuôn mẫu nhất định, tuy nhiên những thiết kế vẫn cần đảm bảo phù hợp với các yếu tố như văn hóa truyền thống, thẩm mỹ của dân tộc và mỹ thuật. Đặc biệt tính mỹ thuật phải thể hiện về phom dáng tôn vóc dáng, màu sắc và trang trí phù hợp với màu da, cá tính của người mặc... áo dài trình diễn được các NTK giới thiệu, truyền tải thông điệp, ý tưởng mới, quan điểm thẩm mỹ… nhằm tạo nên dấu ấn cá nhân và đề cao tính nghệ thuật trình diễn. Do đó có những BST áo dài có hình dáng, kết cấu, trang trí… còn xa rời với thị hiếu sử dụng áo dài đời thường. Tuy nhiên trên cơ sở tạo hình áo dài trình diễn, các NTK đã tiết chế,

71 sáng tạo thành những mẫu áo dài đời thường phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng trong xã hội. Không gian sống hay môi trường cũng là yếu tố quan trọng quyết định sự sáng tạo, thiết kế áo dài. Do đó thiết kế áo dài trình diễn hay áo dài đời thường là do nhu cầu, mục đích thể hiện tư duy, thẩm mỹ, cảm thụ nghệ thuật hay đón đầu xu hướng… Mỗi dòng có chức năng và vai trò khác nhau, tuy nhiên chúng đều có chung mục đích là sáng tạo nên những sản phẩm áo dài có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ và phù hợp với thị hiếu của cộng đồng người trong xã hội. Dù có thiết kế áo dài đời thường hay áo dài trình diễn thì các NTK đều cần sáng tạo, tiết chế dựa trên những yếu tố tạo hình thiết kế áo dài như hình dáng, đường nét, chất liệu vải và màu sắc. Bởi những yếu tố này sẽ là trở thành đối tượng quan trọng giúp các nhà thiết kế thể hiện những ý tưởng sáng tạo trong thiết kế áo dài.

Sơ đồ 3. Các yếu tố thiết kế trong áo dài [NCS vẽ] Tính chuyên nghiệp trong thiết kế áo dài, các NTK đã xây dựng một qui chuẩn design áo dài nhằm sáng tạo những mẫu thiết kế đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ và công năng sử dụng của phụ nữ trong xã hội hiện đại. Đồng thời không làm mất đi những giá trị tạo hình, thẩm mỹ vốn có của áo dài. Mỗi NTK đã biến đổi, sáng tạo theo cách riêng của mình tạo nên dấu ấn cá nhân, đem đến màu sắc tươi mới cho áo dài hiện đại, phù hợp với bối cảnh xã hội, trào lưu, xu hướng trang phục của thời hội nhập. Như vậy, mối quan hệ giữa nhu cầu xã hội với ý tưởng thiết kế của người tạo mẫu áo dài được hiển thị theo sơ đồ sau:

72

Sơ đồ 4. Mối quan hệ trong thiết kế áo dài [NCS vẽ] Như vậy áo năm thân cổ đứng trước những năm 1930 là tiền thân của áo dài tân thời, qua những lần tiếp biến và được định hình rõ hình dáng, kết cấu và phát triển cho đến năm 2017. Trải qua gần thế kỷ, áo dài luôn có sức sống mãnh liệt và trở thành biểu tượng trong văn hóa mặc của phụ nữ Việt. Chính những yếu tố căn cốt về hình dáng, kết cấu đã tạo cho áo dài phụ nữ Việt có sức sống trường tồn. Còn màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí là những phần phù trợ theo xu hướng thẩm mỹ đương thời, thỏa mãn nhu cầu làm đẹp của con người. Nhưng chính những yếu tố này đã trở thành đất “diễn” cho các nhà tạo mẫu sáng tạo đưa sản phẩm áo dài trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật. 2.2. Những tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài Giai đoạn những năm 1930 đến năm 2017 đã có nhiều thay đổi trong văn hóa mặc ở Việt Nam. Đặc biệt vào 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, do nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ… và giao thoa văn hóa (giữa các nền văn hóa thế giới) đã tác động tới nghệ thuật thiết kế thời trang nói chung và thiết kế áo dài nói riêng. Do đó, nghệ thuật thiết kế áo dài cũng có những thay đổi để phù hợp với tư duy và quan niệm về thẩm mỹ của người tiêu dùng đương thời.

73

Trong xã hội hiện đại, con người không chỉ sử dụng trang phục như một nhu cầu che thân – bảo vệ cơ thể mà họ còn sử dụng trang phục với nhiều chức năng khác nhau. Một trong những chức năng mới của trang phục là thể hiện cái tôi nhằm khẳng định cá tính, tạo phong cách mặc độc lập, thể hiện quan điểm thẩm mỹ riêng … Từ những quan điểm theo xu hướng mới của người tiêu dùng, các nhà thiết kế thời trang đã nắm bắt tâm lý này mà đưa ra những mẫu trang phục mới lạ, trong đó có áo dài của phụ nữ Việt cũng tiếp thu biến đổi. Từ đó nâng tầm giá trị sản phẩm áo dài thành nghệ thuật thiết kế, do được áp dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ, kỹ thuật trong việc xử lý hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu và trang trí. Những tiếp thu và biến đổi đó được minh chứng thông qua các kỳ lễ hội tôn vinh áo dài Việt – Festival áo dài tổ chức hàng năm ở các trung tâm thành phố lớn. Để thấy rõ được những tiếp thu và biến đổi trong thiết kế áo dài ở trong một diễn trình lịch sử kéo dài từ những năm 1930 đến năm 2017, NCS phân thành 2 giai đoạn như sau: Thứ nhất là giai đoạn từ những năm 1930 đến năm 1980 và giai đoạn thứ 2 từ sau năm 1980 đến năm 2017. Sự phân chia giai đoạn này dựa vào những dấu mốc lịch sử quan trọng, đó là sự biến động văn hóa lần thứ 4 vào những năm 1980 đến 1990, giai đoạn chuyển dịch từ hệ giá trị văn hóa truyền thống sang thời kỳ công nghiệp và hội nhập toàn cầu. Chính sự chuyển dịch văn hóa này đã tác động mạnh đến nhu cầu, thị hiếu của con người trong xã hội và đặc biệt là tư duy, thẩm mỹ của những người thiết kế áo dài. 2.2.1. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1980 2.2.1.1. Những tiếp thu trong thiết kế áo dài Giai đoạn 1930 đến 1980 ở Việt Nam đã có nhiều biến động về chính trị xã hội cũng như sự thay đổi về văn hóa nghệ thuật. Sự giao lưu văn hóa ở giai đoạn này khá đa dạng, nó đã tác động đến đời sống và tinh thần của con người trong xã hội. Khi tiếp xúc với nền văn hóa Phương Tây, trong lĩnh vực văn hóa

74 nghệ thuật, người Việt đã tiếp thu được những thành tựu đáng kể và vận dụng vào thiết kế áo dài. Những tiếp thu đó phải kể đến như sau: - Tiếp thu tư duy và quan điểm thẩm mỹ Trước những năm 1930, áo dài được phụ nữ mặc theo cộng đồng, đa phần phụ nữ mặc áo dài năm thân giống nhau cả về hình dáng, kết cấu và màu sắc. Tuy nhiên khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, người Việt đã có những tiếp thu về tư tưởng, quan niệm thẩm mỹ trong văn hóa mặc, thể hiện cái tôi cá nhân. Những tư tưởng này đã thúc đẩy các NTK sáng tạo dựa trên sở thích đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của từng cá nhân. Trào lưu Nghệ thuật tối giản (minimalism) phát triển mạnh những năm 1958, trào lưu hướng tới sự đơn giản (giản lược những chi tiết, màu sắc, đường nét), thông điệp, truyền tải nội dung ý tưởng và giá trị công năng sử dụng. Trào lưu nghệ thuật tối giản đã tác động đến thời trang trên thế giới và đã được tiếp thu vận dụng vào thiết kế áo dài. Phong cách thời trang hippy cũng đã được tiếp thu vào thiết kế áo dài ở những năm 1960 đến 1980. Giai đoạn này ở Phương Tây xuất hiện nhiều hình dáng trang phục khác nhau bởi chịu tác động của phong trào giải phóng phụ nữ và sự phát triển của ngành công nghiệp thời trang. Những kiểu trang phục đều được thiết kế với kỹ thuật, sáng tạo dựa trên đặc điểm cấu trúc cơ thể người mặc. Các kỹ thuật phổ biến được các nhà thiết kế sáng tạo như kỹ thuật tạo đường ly chiết, kỹ thuật cắt xéo vải, xếp ly, kỹ thuật tạo sóng (bèo nhúm), đánh nhúm… tạo hiệu ứng trang trí trên bề mặt vải [PL1, H.1.6, tr 202]. Những kỹ thuật này đã được các nhà thiết kế Việt Nam tiếp thu áp dụng sáng tạo trên áo dài. - Tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ và giải pháp thiết kế Thế kỷ XX là thế kỷ có nhiều thành tựu khoa học công nghệ liên quan đến sự phát triển của thời trang. Và việc tiếp thu những thành tựu khoa học và

75 kỹ thuật công nghệ vào thiết kế áo dài đã trở thành một xu hướng tất yếu. Tác giả Đỗ Huy đã cho rằng: Tính khoa học xác định sự hợp lý của “mốt”. Nó không cho là đẹp những “mốt” cổ hủ hoặc những “mốt” lố lăng. Khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo cao cả nhằm mang lại hạnh phúc tối đa cho con người. Nó chỉ cho là đẹp những “mốt” nào phù hợp với sự phát triển lành mạnh của xã hội, làm tôn thêm vẻ đẹp trong sáng của đời sống tập thể và mỗi con người. Tính khoa học đó dựa trên quy luật hài hòa giữa con người và tự nhiên, giữa cá nhân và xã hội, trong bản thân từng người [26, tr 421]. Những công nghệ kỹ thuật được tiếp thu vào thiết kế áo dài chủ yếu là những công nghệ dệt vải, nhuộm màu vải và in họa tiết hoa văn trên vải… Thứ nhất là công nghệ dệt vải: Công nghệ dệt vải phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra. Ngoài thành công tạo nên những tấm vải có khổ lớn (kích thước rộng ngang phổ biến từ 1.3m, 1.5m và 1.7m…), người ta còn tạo nên những tấm vải có hoa văn từ quá trình dệt, công nghệ này cũng đã được các nghệ nhân làng dệt lụa Vạn Phúc - Hà Đông tiếp nhận ứng dụng vào dệt lụa vân, nghệ nhân Nguyễn Thị Tâm cho biết : “Khi vào Sài Gòn buôn bán thấy trong đó bán đầu máy Hồng Kong (đầu máy dệt hoa văn) thì các cụ làng tôi mua về, sau này mới biết đó là đầu máy Jaka được người Hồng Kong nhập từ Phương Tây. Đầu máy này có thể tạo ra nhiều mẫu hoa phức tạp. Từ đó trên lụa xuất hiện nhiều mẫu hoa văn mới, năng xuất lao động cao hơn so với dệt bằng tay’’ [Phỏng vấn vào ngày 30/ 7/ 2018]. Lụa vân vốn là loại lụa có hoa văn nổi tiếng từ thời Phong kiến nhưng với kỹ thuật thủ công nên còn hạn chế về mẫu hoa văn, cùng với đó là năng xuất không cao. Tuy nhiên khi tiếp thu công nghệ dệt vải mới, năng xuất dệt

76 cao hơn trước. Do đó lụa vân trở nên phổ biến và đa dạng mẫu hoa văn. Đây cũng là loại lụa được ưa chuộng dùng để may áo dài. Đặc biệt công nghệ pha chế nguyên liệu tự nhiên với các hoạt chất hóa học, cũng như các cách thức dệt vải (dệt sợi dọc, dệt sợi ngang, dệt sợi chéo…) đã giúp con người sáng tạo ra nhiều loại vải mới vừa đảm bảo về thẩm mỹ và độ bền. Một số loại vải sản xuất công nghệ dệt mới dùng may áo dài là vải satin, vải lụa công nghiệp, vải tơ sống… Thứ hai là công nghệ nhuộm màu vải: Sự phát triển của công nghệ nhuộm màu bằng các hóa chất công nghiệp giúp cho độ bền của vải tốt hơn, cũng như màu sắc khó pha. Bảng màu sắc trở lên đa dạng, họ đã nhuộm vải có nhiều sắc độ khác từ màu trầm đến trung tính và rực rỡ. Những tấm vải được nhuộm màu đã góp phần tạo nên sự phong phú, sáng tạo cho ngành thiết kế thời trang trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Thiết kế áo dài ở giai đoạn này đã tiếp thu những thành tựu đó, vì thế từ những năm 1960 trở lại đây màu sắc của áo dài khá phong phú. Những năm 1950 công nghệ in trục lưới quay tạo họa tiết hoa văn đã mang lại sự phong phú cho chất liệu vải. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, công nghệ in vải rất phát triển như công nghệ in chuyển nhiệt, nên nó đã tác động mạnh đến thiết kế áo dài. NTK khai thác những công nghệ in mới để thỏa mãi những ý tưởng sáng tạo. Ưu điểm của công nghệ in vải đó là sản xuất nhanh, sản xuất số lượng lớn, độ bền cao và giá thành rẻ hơn so với kỹ thuật khác. Thứ ba là phương pháp thiết kế: Từ những năm đầu thế kỷ XX, những người thợ may trang phục đã dùng thước để đo kích thước các vòng trên cơ thể. Thước đo là sản phẩm của người Phương Tây, dùng để đo chiều dài, độ rộng của cơ thể và cho ra những thống số chính xác. Do đó người thợ may đã tiếp nhận và sử dụng thay thế cách đo ước lượng của thời kỳ trước. Ngoài ra họ còn học cách thiết kế bản vẽ chia thành 2 thân chính (trước và sau), trên cơ sở tính

77 trung bình cộng và chia đều cho 4 thân (thân trước 2, thân sau 2) của từng vòng đo. Tiếp tục lấy số chia trung bình đó cộng với số lượng cử động (thân trước cộng lượng cử động lớn hơn thân sau), mỗi vòng có số lượng cử động khác nhau: vòng ngực và vòng hông cộng cử động 6cm chia 4 (4 thân), vòng eo cộng cử động 4cm hoặc 5cm và chia 4 (4 thân). Công thức tính rất cần số đo chính xác, do đó chiếc áo có đẹp, có vừa với cơ thể người mặc hay không là phần lớn do người thợ đo, người cắt áo gia giảm lượng cử động và thiết kế theo công thức [PL4, H.4.49, tr 243]. Quan điểm này cũng được nghệ nhân Mỹ Hào cũng cho biết: “Để may được áo dài đẹp, kỹ thuật đo kích thước các vòng của từng phần cơ thể là quan trọng. Những người thợ ‘‘non’’ đo, sản phẩm thường hay phải sửa chữa, thợ ‘‘cứng’’ đo là ‘‘ăn ngay’’. Hay kỹ thuật tạo ly cũng thế, độ dài của ly xác định phụ thuộc vào người lưng ngắn hay lưng dài. Độ rộng của ly cũng được xác định theo vòng ngực và vòng hông’’ [Phỏng vấn vào ngày 03/ 12/ 2018]. Công thức tính được những người thợ, nhà may áp dụng và dần hoàn thiện theo kinh nghiệm thực tế, nó được vận dụng linh hoạt theo từng kiểu mẫu áo, từng dáng người. Có lẽ chính cách thức này mà một số nhà may đã sáng tạo ra những kết cấu áo dài mới, như thiết kế tay raglan năm 1958 của nhà may Dung Đakao. Cho đến ngày nay kiểu tay raglan vẫn được các nhà thiết kế sử dụng và hoàn thiện dần công thức theo kinh nghiệm thiết kế để ứng dụng với từng đặc điểm cơ thể của người mặc. Cụ thể như các kiểu áo dài được bà Trần Lệ Xuân mặc những năm 1958 - 1960 đã được thiết kế có các đường ly chiết eo và tay raglan, do đó phần trên thân áo ôm sát cơ thể, phần tà mở rộng tạo xu hướng hình chữ A. 2.2.1.2. Những biến đổi trong thiết kế áo dài Tiếp thu những kiến thức, quan điểm thẩm mỹ và thành tựu khoa học của người Việt trong quá trình giao lưu tiếp biến đã cho thấy một tinh thần cởi mở,

78 ham học hỏi của người Việt. Trong tư duy thiết kế của người Việt những tiếp thu ấy đã được chắt chọc, biến đổi nhằm tạo ra những sản phẩm vừa thể hiện được giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời vẫn mang được tinh thần hiện đại phù hợp với thẩm mỹ con người trong xã hội. Do đó những biến đổi trong thiết kế áo dài được thể hiện ở 2 vấn đề dưới đây: - Biến đổi về tư duy và quan điểm thẩm mỹ Với sự hình thành Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và sự xuất hiện của tờ báo Phong Hóa, đã tạo cơ hội cho tầng lớp trí thức Việt Nam thể hiện tài năng và cái tôi cá nhân. Đầu tiên phải kể đến họa sỹ là Nguyễn Cát Tường là những người đã có đóng góp vào sự thay đổi diện mạo của áo dài. Họ đã sáng tạo ra những mẫu áo dài dựa trên nền kết cấu áo năm thân. Những mẫu thiết kế đó đã thể hiện được quan điểm thẩm mỹ mới, từ kiểu dáng, màu sắc và phụ trang đi cùng phù hợp với xã hội hiện đại. Nguyễn Cát Tường là họa sỹ được đào tạo ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông cũng là một trong những thành viên nhóm Tự lực văn đoàn của tờ báo Phong Hóa. Ông được phân công phụ trách mảng mỹ thuật, vẽ minh họa và viết bài, ông thường có những bài viết liên quan đến tư vấn làm đẹp cho phụ nữ thời bấy giờ. Bài viết “Y phục của phụ nữ” đăng trên Báo Phong hóa 1934, đã khởi đầu cho một tư tưởng đổi mới về trang phục. Nội dung bài viết ông đưa ra những nhận định vì sao mà người ta cần phải mặc đẹp, trang phục không chỉ dùng để che thân như các cụ tổ đời xưa, mà cái đẹp bây giờ phải khác, phải theo thời đại. Đồng thời ông cũng so sánh về cách mặc của người Việt lúc đó với cách mặc của người Phương Tây: “Y phục của các nước Âu, Mỹ không những gọn gàng, hợp với khí hậu xứ họ, mà kiểu mẫu lại rất nhiều và đẹp. Như thế đủ tỏ ra rằng họ có một cái trình độ tri thức rất cao, một nền văn minh rất rõ rệt và luôn luôn tiến bộ” [84]. Như vậy, theo ông một bộ trang phục đẹp cần phải gọn gàng và hợp với khí hậu, với dáng người. Những bộ

79 trang phục phải được thay đổi khác nhau, chứ không phải quanh năm chỉ mặc một kiểu áo. Do đó ông đã đưa ra những tư vấn “sống thời buổi nào, theo thời buổi ấy”, và ông cho rằng kiểu mẫu trang phục (áo dài năm thân) của phụ nữ đang mặc nó tạo sự bất tiện và hơi thừa do kiểu dáng quá rộng: Chính cái cổ áo là cái thừa, hai ống tay bất tiện. Cúc cổ áo chẳng bao giờ xài thì cái cổ, nữa là xứ ta khí hậu nóng. Còn hai ống tay thì…thì các bạn cứ thử co tay lại vuốt mái tóc mà xem. Có phải nó chật quá không?...nó khó chịu và bất tiện lắm không? Mà người ta giám co tay vào, duỗi tay ra thì mất hết vẻ tự nhiên, mềm mại, yểu điệu của trời phú riêng cho từng phụ nữ không?... Trời sinh ra người, vốn sẵn dành cho các hình dáng riêng, chỗ nở, chỗ thắt hợp với đủ phương diện mỹ thuật chứ chẳng phải là trơn tuột như cái hộp kẹo sìu hay ống bột Nét – lê. Bởi vậy, áo mặc phải ăn với người, phải có đường lối văn minh thì vẻ đẹp ấy mới có thể lộ ra ngoài được. Sau nữa kiểu mặc phải theo tùy người mà thêm bớt [84]. Điều này cho thấy, ông là một họa sỹ đã có những cái nhìn về thẩm mỹ trang phục rất mới, do ảnh hướng lớn từ những quan điểm hội họa của Phương Tây. Những quan điểm này được hình thành trong quá trình ông đã được đào tạo từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tiếp cận phương pháp tạo hình của Phương Tây và cùng với những tư tưởng, tôn chỉ làm việc ở tờ Báo Phong hóa, nhằm làm đổi mới tư duy của con người đã sống trong xã hội cũ. Nhóm tự lực văn đoàn luôn có những cái nhìn không mấy thiện cảm với các kiểu mẫu trang phục: áo tứ thân, áo năm thân, áo the khăn đóng. Khi Nguyễn Cát Tường khai trương cửa hiệu may áo dài, ông đã vẽ hàng nghìn mẫu áo dài và trang phục mới cùng với các phụ kiện như nón, giầy xăng đan gót nhọn… theo phong cách Phương Tây.

80

Tuy những mẫu vẽ áo dài của Nguyễn Cát Tường đã được nhiều người ủng hộ về sự sáng tạo, thẩm mỹ và duyên dáng. Nhưng bên cạnh đó, áo dài Lemur cũng bị những phản đổi kịch liệt như: “… có người lén cầm kéo cắt vạt áo dài của các cô tân thời. Lại nữa, trong nhiều gia đình quá cổ điển, ông bà, bố mẹ cấm con gái, con dâu, cháu, chắt… không cho mặc áo tân thời Lemur” [56, tr 39]. Hay những bình luận của độc giả về việc chê những mẫu áo dài Lemur thiếu vẻ giản dị, thiếu tính cách Việt Nam… [56 ]. Trong dòng chảy hình thành áo dài những năm 1930, 1940 những mẫu áo dài được thể hiện trên những tác phẩm hội họa của Họa sỹ Lê Phổ đã góp phần hình thành hình dáng của áo dài phụ nữ Việt. Ông là họa sỹ đã tiếp thu những kiến thức, kỹ thuật và phong cách của cả Phương Tây (Pháp) và Phương Đông (Trung Hoa), và vận dụng một cách linh hoạt vào trong các tác phẩm của mình. Kiểu mẫu áo dài trên tranh của Lê Phổ thể hiện thẩm mỹ vừa mang giá trị tạo hình truyền thống (bóng dáng của áo năm thân) vừa mang giá trị tạo hình hiện đại (thân áo ôm gọn người và tay vai tròn). Tuy ông không trực tiếp tham gia vào thiết kế áo dài, nhưng qua những hình ảnh các thiếu nữ mặc áo dài trong tranh của họa sỹ đã tạo nên một dấu ấn về tạo hình, thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Có lẽ chính điều này mà ngày nay người ta vẫn đặt tên ông cho kiểu áo dài mang phong cách truyền thống – áo dài Lê Phổ. Như vậy, quan điểm thẩm mỹ của họa sỹ Nguyễn Cát Tường đã tạo nên những dấu ấn mới, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc hình thành áo dài ngày nay. Họa sỹ có những quan điểm thẩm mỹ và ứng dụng vào thiết kế nhiều mẫu áo dài khác nhau, có mẫu nổi bật với những ý tưởng thiết kế mang phong cách Phương Tây (ông có tham vọng muốn thay đổi hoàn toàn cách mặc của phụ nữ thời đó). Những sản phẩm sáng tạo của họa sỹ cho thấy, ông đã tiếp nhận và phát huy kiến thức cơ sở tạo hình theo hướng mỹ thuật ứng dụng, và áp dụng kiến thức mỹ thuật đó vào những sản phẩm mang tính thiết thực với

81 cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những mẫu áo dài thiên hướng mang phong cách truyền thống [PL3, H.3.5, tr 209]. Những chuẩn mực trong tạo hình được xây dựng trên giá trị truyền thống và giao lưu tiếp biến với tư tưởng hiện đại Phương Tây. Có thể nói, hai luồng tư tưởng mới này chính là sự khởi đầu cho những cải cách trong văn hóa mặc của Việt Nam trước thời kỳ hội nhập. Ngoài họa sỹ mang tư cách của người thiết kế áo dài, còn có những phụ nữ họ đã trực tiếp sử dụng áo dài, khi bước vào một kỷ nguyên mới họ đã có những tiếp thu tư tưởng hết sức cởi mở với các làn sóng văn hóa mặc trên thế giới. Họ còn là những người trực tiếp tham gia vào công cuộc thay đổi tư duy thẩm mỹ của xã hội. Tác giả Đỗ Huy đã có bài viết đăng trên Tạp chí Triết học số 3 – 1976 và được tái bản trong tác phẩm Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật, năm 2002 về những quan điểm thẩm mỹ mới trong xã hội Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước như sau: … Mốt không phải là cái gì nhất thành, bất biến. Mốt có sự vận động trong không gian và thời gian thể hiện khá rõ quy luật tất yếu của sự phát triển. Sự mất đi của một kiểu tóc hay sự xuất hiện của một lối may mặc là do những điều kiện khách quan và chủ quan gắn liền với thời đại, dân tộc và giai cấp. Cái hàm răng đen nhức như hạt na của các cô gái ngày xưa, ngày nay không còn “đáng trăm quan tiền” nữa. Còn cách để tóc dài của nam giới nước ta trong thời phong kiến cũng đã ngắn lại và bao lần đổi dạng với thời gian. Cái lối chài đầu, búi tóc nào đó của nữ giới quá cầu kỳ, lố bịch biểu hiện cách ăn chơi đàng điếm bụi đời không trang nhã thì cho dù đó là cách chài đầu “tân kỳ” nhất cũng đối lập với thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh của xã hội [26, tr 403]. Và tác giả cũng khẳng định một thị hiếu thẩm mỹ tốt phải phù hợp với xã hội hiện đại, gắn liền với với tính khoa học:

82

Thị hiếu thẩm mỹ tốt nhất của thời đại là thị hiếu gắn liền tình cảm và lý trí, gắn tính dân tộc với tính hiện đại. Thị hiếu đó đứng trên đỉnh cao của văn minh nhân loại, tiếp thu những cái tốt đẹp của quá khứ, của truyền thống dân tộc mà cảm thụ cả sáng tạo cái đẹp. Bắt nguồn từ cái thật, cái đúng, cái tốt, thị hiếu ấy đòi hỏi mọi “mốt” hiện nay phải có tính khoa học [26, tr 420 – 421]. Như vậy thị hiếu thẩm mỹ đã thay đổi theo thời gian và bị tác động rất lớn của các yếu tố khách quan mang lại. Tuy nhiên để những thiết kế áo dài có giá trị lâu dài cũng phải dựa trên nền của yếu tố truyền thống mới được mọi người trong xã hội yêu thích và công nhận. - Biến đổi trong ứng dụng thành tựu khoa học và phương pháp thiết kế trong thiết kế áo dài Thứ nhất là về hình dáng và kết cấu: Sự tiếp thu những thành tựu của người Phương Tây giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XX đã để lại những dấu ấn quan trọng trong thiết kế áo dài hiện đại. Từ áo dài có kết cấu năm thân dáng suông rộng đã được biến đổi thành áo dài hai thân ôm sát cơ thể. Việc áp dụng phương pháp thiết kế mới đã giúp các NTK sáng tạo ra những mẫu áo dài có kích thước, tỷ lệ phù hợp, đặc biệt tôn lên vóc dáng của người phụ nữ. Kết cấu vai tròn của áo dài do Nguyễn Cát Tường thiết kế đã tạo nên một dấu ấn mới, nó khắc phục được những nếp nhăn ở vòng nách so với áo có điểm nối tay của áo năm thân. Những năm 1958 - 1960 một lần nữ áo dài lại được biến đổi về cả về hình dáng, kết cấu trên thân áo có các đường ly chiết ở giao điểm từ bầu ngực xuống eo và từ eo xuống hông đã khiến kích thước của áo ôm sát cơ thể hơn. Tỷ lệ tà áo kéo cao (chiều dài tà áo qua gối) được mặc kết hợp với quần dài - rộng, tay áo lửng và bản cổ nhỏ cắt ôm khít. Mẫu áo như vậy được gọi là áo dài miniraglan. Đến những năm 1968, tiếp tục xuất hiện kiểu áo dài tà ngắn, nhưng

83

áo được may với những chất liệu vải nhẹ mềm và có màu sắc sặc sỡ với những họa tiết đa dạng như hoa là, kẻ sọc, hình kỷ hà [PL 3, H.3.19, tr 216]. Kiểu mẫu này đã trở thành trào lưu của các cô gái thành thị lúc bấy giờ. Sự biến đổi thiết kế tỷ lệ tà áo và tay áo thể hiện một tư duy hiện đại, đáp ứng nhu cầu của nữ thanh niên trẻ có cá tính, năng động và dễ tiếp thu với văn hóa ngoại lai. Tuy nhiên kiểu áo dài miniraglan này chỉ thịnh hành trong một thời gian ngắn và nó được thay thế bởi một kiểu mẫu áo dài tà rộng và dài hơn. Thứ hai là về chất liệu vải: Chất liệu vải là một yếu tố quan trọng trong cuộc cách mạng biến đổi áo dài ở những năm 1930, sự ra đời của vải khổ rộng đã tác động đến biến đổi kết cấu áo dài từ bốn thân thành hai thân. Sự đa dạng về chất liệu vải đã giúp các nhà thiết kế có nhiều lựa chọn và đưa ra khái niệm là chất liệu vải sử dụng theo thời tiết. Mỗi mùa có chất liệu vải phù hợp, do đó Nguyễn Cát Tường đã nắm bắt được thuận lợi này nên ông đã thiết kế những mẫu áo phù hợp. Với mùa hè ông thiết kế may chất liệu lụa mềm, còn mùa thu, mùa đông ông dùng chất liệu vải có phần dày dặn hơn. Loại vải ông dùng cho mùa thu đông nó gần tựa như vải thô đũi ngày nay và giống vải Tweed (là một dạng vải dệt chéo) được thịnh hành ở Phương Tây lúc bấy giờ. Ngoài ra, mùa thu đông ông thiết kế thêm kiểu áo khoác nhẹ bên ngoài, hoặc thêm chiếc khăn choàng ở vai trông thật lạ mắt. Những năm từ 1950 đến 1970 do công nghệ dệt vải cũng đã phát triển, đặc biệt dòng vải lụa được sản xuất ở Việt Nam như lụa Vạn Phúc ở Hà Đông, lụa Nha Xá ở Hà Nam, lụa Bảo Lộc ở Lâm Đồng… những chất liệu được dệt từ tơ tằm đã phổ biến rộng rãi và dùng may áo dài. Thứ ba là về màu sắc: Sự tiếp thu lý thuyết khoa học màu sắc ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống, đặc biệt tác động đến công nghệ nhuộm vải, thẩm mỹ người thiết kế và người tiêu dùng… đã khiến màu sắc áo dài trở nên đa dạng hơn. Thẩm mỹ của người Việt ưa thích sự hài hòa, nhã nhặn do đó

84 những màu sắc thuộc màu phản quang, màu chói thường không sử dụng may áo dài. Những màu phổ biến sử dụng may áo dài là màu vàng nhạt, xanh da trời, xanh cốm, tím… Thẩm mỹ sử dụng màu sắc đã thay đổi, họ không dùng chung màu sắc ở các lứa tuổi như thời trước năm 1930 mà đã biến đổi, màu sắc được sử dụng theo các độ tuổi khác nhau, các cô gái trẻ mặc áo dài những tông màu sáng như màu xanh da trời, màu vàng hoa mơ, màu cam trắng… Người lớn tuổi mặc tông màu trầm như nâu, xanh đậm, cam đậm, tím đậm. Thứ tư là về tính trang trí: Ở giai đoạn 1930 – 1980 tính trang trí trên áo dài đã có nhiều dấu ấn. Dấu ấn đầu tiên phải kể đến thiết kế của Nguyễn Cát Tường, ông đã tiếp thu những kỹ thuật may tạo đường xếp ly, bèo nhúm, cắt xéo vải để tạo nên điểm nhấn trang trí áo dài. Vị trí tạo điểm nhấn được ông sắp đặt ở phần cổ, ống tay, tà gấu áo. Dấu ấn thứ hai là giai đoạn những năm 1950, khi công nghệ dệt vải tạo hoa văn trên nền vải phát triển, được các nghệ nhân nghiên cứu tạo ra những mẫu hoa văn đa dạng. Lúc này áo dài hầu như không còn sử dụng những kỹ thuật xếp ly đánh nhúm như của Nguyễn Cát Tường đã sử dụng chính hoa văn trên nền vải để trang trí. Những mẫu hoa văn phổ biến như hoa chanh, hoa mai, chữ triện, chữ thọ... Mẫu hoa văn được dệt nổi tạo nên hiệu ứng thị giác tinh tế, nền vải và hoa văn có chung tông màu nhưng lại có sự chênh lệch về độ nên không quá nổi bật, điển hình như hiệu ứng “mình khô hoa ướt” trên vải lụa tơ tằm [PL3, H.3.17, tr 215]. Tính trang trí giai đoạn này thể hiện qua hình thức đeo trang sức, phụ nữ thường đeo những chuỗi hạt ngọc trai, hay một cái cài áo đính đá lấp lánh ở vị trí ngực áo. Đây chính là những sản phẩm được tạo ra từ vật liệu công nghiệp. Như vậy giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1980, đã có nhiều tiếp thu những văn minh của người Phương Tây từ văn hóa nghệ thuật đến tư duy thẩm

85 mỹ và những khoa học công nghệ, kỹ thuật. Trên tinh thần tiếp thu đó người Việt đã biến đổi nhằm phù hợp với văn hóa, thẩm mỹ của dân tộc. 2.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1980 đến năm 2017 Giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI là giai đoạn có rất nhiều biến động trong văn hóa Việt Nam nói chung cũng như trong văn hóa mặc nói riêng. Bởi đây là giai đoạn mà theo tác giả Trần Ngọc Thêm: Từ những năm 1980 đến 1990 là điểm mốc đánh dấu sự biến động văn hóa lần thứ 4 - lần cuối cùng: là sự chuyển biến từ hệ giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá trình xã hội chủ nghĩa hóa sang hệ giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự biến động này bắt đầu diễn ra vào nửa cuối những năm 1980, khi công cuộc Đổi mới ở Việt Nam bắt đầu, cũng là lúc quá trình toàn cầu hóa đi vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới nhờ có những thành tựu vượt bậc về viễn thông và công nghệ thông tin, mạng thông tin toàn cầu WWW hình thành [66, tr 140]. Như vậy từ những nhận định trên của tác giả Trần Ngọc Thêm, sự biến động văn hóa giai đoạn này đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa mặc của phụ nữ Việt. Đặc biệt năm 1988 xuất hiện lần đầu tiên về cuộc thi sắc đẹp - Hoa Hậu Việt Nam trên phạm vi toàn quốc, diễn ra ở Hà Nội do Báo Tiền Phong tổ chức định kỳ 2 năm một lần. Nhưng một năm sau – 1989 tiếp theo sự thành công của năm trước, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức cuộc thi Hoa Hậu áo dài do Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Lần thứ hai diễn ra vào trung tuần tháng 12 năm 1995, đây cũng là cuộc thi cuối cùng vì nhiều lý do khách quan mà không thể tiếp tục tổ chức. Với mục đích và ý nghĩa của cuộc thi đã tạo đà hứng khởi cho một xu hướng thẩm mỹ của giới trẻ hướng tới sự thịnh hành và phát triển trang phục truyền thống dân tộc - áo dài trong bối cảnh toàn cầu hóa. Do đó trong các cuộc thi sắc đẹp luôn có phần thi áo dài và những câu

86 hỏi liên quan đến văn hóa mặc truyền thống dân tộc của ban tổ chức đặt ra cho các thí sinh. Dấu hiệu quan trọng tiếp theo đó là áo dài đã trở thành đề tài trong sáng tạo của những người làm thiết kế thời trang phục vụ cuộc sống. Điều đó có nghĩa áo dài sẽ được mọi người trong xã hội tiếp cận với nhiều diện mạo hay gọi là những mẫu thiết kế mới, đa dạng hơn giai đoạn trước. Những năm cuối 1990 và đầu thế kỷ XXI, đại diện cho những nhà thiết kế tiên phong đưa ra những thiết kế áo dài mới đó là Minh Hạnh và Sĩ Hoàng. Hai nhà thiết kế đã trình diễn những bộ sưu tập đã để lại dấu ấn và tác động đến thị hiếu thẩm mỹ của mọi người trong xã hội hiện đại. NTK Minh Hạnh khai thác những yếu tố về văn hóa trang phục (hoa văn thổ cẩm) của tộc người thiểu số tạo tính trang trí trên áo dài. NTK Sĩ Hoàng lại đưa những yếu tố từ hội họa như những vệt màu sắc, hình dáng, đường nét... bố cục trang trí, tạo nên trên tà áo dài, biến áo dài như những tác phẩm hội họa. Những năm đầu của thế kỷ XXI, NTK Minh Hạnh và Sĩ Hoàng tiếp tục đưa quan điểm thẩm mỹ cá nhân vào thiết kế áo dài. Có thể nói họ là những người tạo nguồn cảm hứng cho những nhà thiết kế trẻ, mạnh bạo đưa những quan điểm thẩm mỹ mới vào thiết kế áo dài. Từ đây áo dài đã có những diện mạo mới về hình dáng, màu sắc, trang trí và đặc biệt là về chất liệu vải… phù hợp với xu hướng thẩm mỹ hiện đại của xã hội trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu như hiện nay. Cũng chính từ đầu thế kỷ XXI, áo dài đã được các NTK sáng tạo và phân thành hai dòng: áo dài trình diễn và áo dài đời thường. Mỗi dòng, được thiết kế với những tiêu chí khác nhau, như áo dài trình diễn được thể hiện phóng khoáng hơn trong tư duy sáng tạo về hình dáng, kết cấu, màu sắc và đặc biệt là tính trang trí. Những điều đó nhằm thể hiện sáng tạo nghệ thuật và tư duy bứt phá, tìm kiếm những ý tưởng mới lạ, thể hiện “cái tôi” của NTK. Dòng áo dài đời thường lại được các NTK quan tâm đến những tiêu chí

87

(xu hướng mốt thời trang) và quy chuẩn / tiêu chuẩn trong sáng tác (xã hội, môi trường, tính cộng đồng, con người, đạo đức, tính khoa học…). Cụ thể như những sản phẩm áo dài thiết kế được dựa trên nhu cầu thực tế, trên vóc dáng của người mặc, môi trường sống … Ngoài ra khi người phụ nữ mặc áo dài phải toát lên được thần thái, cá tính và tương đồng với thẩm mỹ của cộng đồng trong xã hội. Như vậy, sự thay đổi trong tư duy thiết kế áo dài của các NTK đã rất rõ. Tùy vào từng dòng thiết kế áo dài trình diễn và áo dài đời thường, mà các NTK phải có những sáng tạo, tiết chế sao cho hợp lý. 2.2.2.1. Những tiếp thu trong thiết kế áo dài Ở giai đoạn này không chỉ tiếp thu những kiến thức, văn minh của Phương Tây giống giai đoạn 1930 – 1980, mà còn tiếp thu cả kiến thức của các nền văn minh khác trên thế giới với một tâm thế cởi mở, giao lưu và hội nhập văn hóa. Đặc biệt ngày nay tại các trường đào tạo ngành thiết kế thời trang đã giảng dạy các học phần cơ sở ngành và chuyên ngành gắn kết với nhau cung cấp những kiến thức ngành có hệ thống và toàn diện. Về cơ sở ngành có học phần Giải phẫu, Cơ sở tạo hình, Cơ sở thẩm mỹ có những kiến thức về khoa học màu sắc, bố cục, trang trí… và những học phần chuyên sâu về thiết kế thời trang. Những kiến thức giải phẫu cơ thể người giúp nhà thiết kế xác định các điểm cắt và nối ghép tạo kết cấu trên thân áo, tạo sự vừa vặn, đồng thời giảm được các đường nhăn trên thân áo do đặc điểm cấu trúc cơ thể. Chính điều này đã hình thành nên tính chuyên nghiệp trong thiết kế áo dài giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017. Do đó ta có thể thấy rõ những kiến thức, tiếp thu, áp dụng vào thiết kế áo dài nổi bật những yếu tố sau: - Tiếp thu tư duy và quan điểm thẩm mỹ Xu hướng thẩm mỹ đưa nghệ thuật trang trí vào thiết kế trang phục đã được các nhà thiết kế trên thế giới quan tâm ở những thập niên gần đây, điều

88 này đã tác động rất lớn đến thiết kế áo dài ở Việt Nam. Các NTK đã chủ động khai thác những ý tưởng thiết kế và truyền tải bằng ngôn ngữ hội họa, mang đến diện mạo mới cho áo dài. Cùng với đó là những họa sỹ thiết kế hoa văn trên vải đã nhanh chóng cập nhật, nắm bắt xu hướng, kết hợp với các NTK đã góp phần tạo nên những bộ áo dài như một tác phẩm nghệ thuật. Thập niên gần đây thiết kế áo dài đã tiếp thu những xu hướng thời trang như xu hướng sử dụng chất liệu vải mỏng (hay còn gọi là xu hướng xuyên thấu), xu hướng sử dụng màu đơn sắc (xu hướng monochom) … những xu hướng được biểu hiện thông qua chất liệu vải, màu sắc và họa tiết trang trí. Điển hình xu hướng xuyên thấu được tiếp thu trong BST Non thiêng của NTK Đức Hùng. Như vậy ở giai đoạn năm 1980 đến 2017 đã có nhiều xu hướng thời trang được tiếp thu ứng dụng vào thiết kế áo dài, điển hình là đưa nghệ thuật trang trí như một điểm nhấn trong thiết kế. Vì nghệ thuật trang trí cũng là một phần ngôn ngữ biểu hiện những ý tưởng của các NTK, điều này đã phát huy sự sáng tạo mang lại cho những bộ sưu tập áo dài của họ đa phong cách và mang giá trị nghệ thuật. - Tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ, giải pháp thiết kế Ở giai đoạn này, những công nghệ mới trong ngành may mặc vẫn được phát triển từ tiền đề của giai đoạn từ năm 1930 – 1980. Những công nghệ, kỹ thuật mới được tiếp thu mạnh mẽ như công nghệ dệt vải, nhuộm màu và sự đa dạng trong kỹ thuật xử lý tạo họa tiết trang trí. Thứ nhất là lý thuyết khoa học màu sắc và khoa học giải phẫu: Lý thuyết khoa học màu sắc “Bánh xe màu” của nhà vật lý Isaac Newton và lý thuyết của nhà vật lý người Anh - Thomas Young đã được những họa sỹ, các nhà thiết kế áp dụng vào các ngành nghệ thuật khác như kiến trúc, nội thất, đồ họa, nhuộm màu vải, phối màu trong thiết kế thời trang và thiết kế áo dài. Giai đoạn này xuất hiện các cụm từ chỉ cách thức pha phối màu trên áo dài như màu cùng

89 tông, màu tương đồng, màu tương phản, hay màu vô sắc. Do đó màu sắc áo dài khá phong phú, những bộ sưu tập áo dài được sử dụng tông màu có sự đồng nhất về sắc nhưng đa dạng về độ màu, tạo nên bảng màu đẹp mắt. Nghiên cứu và áp dụng kiến thức khoa học giải phẫu cơ thể vào thiết kế áo dài dựa trên số đo cơ thể người mặc là một trong những thành công lớn để tạo nên hình và dáng của áo dài hiện đại. Khi tiếp nhận kiến thức giải phẫu cơ thể người, người thiết kế đã tạo ra những đường kết cấu, các điểm nối trên áo dài trùng với các khớp, các cơ của cơ thể nhằm tạo sự thoải mái cho người mặc trong quá trình vận động. Đặc biệt những kiến thức giải phẫu cơ thể còn giúp các nhà thiết kế định hình cấu trúc cơ thể từ đó đưa ra giải pháp khắc phục nhược điểm và tôn vinh những ưu điểm của cơ thể từng người. Thứ hai là công nghệ dệt vải và nhuộm màu: Cùng với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp thời trang, chất liệu vải trong thiết kế áo dài cũng trở nên đa dạng hơn. Ngoài những chất liệu vải được dệt thủ công như lụa, ngày nay người ta còn áp dụng những kỹ thuật công nghệ mới trong dệt vải lụa hay sử dụng những nguyên liệu mới khác như là tơ sen. Hay kỹ thuật dệt vải từ những sợi tổng hợp như visco, sợi polymer… tạo hiệu quả về độ bền, đẹp (không nhàu, bóng mịn và màu sắc rõ nét…). Đặc biệt khi áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao trong dệt vải sẽ tăng năng xuất và giảm giá thành cho sản phẩm. Điển hình như loại lụa 2 da, là loại lụa có sự kết hợp tơ tự nhiên và tơ nhân tạo (sợi dọc là tơ tằm tự nhiên, sợi ngang là tơ nhân tạo), do đó giá thành thấp hơn với loại lụa sử dụng 100% tơ tằm. Thợ nhuộm lụa Đỗ Văn Minh ở làng nghề Vạn Phúc cho biết: Tuy dùng hóa phẩm công nghiệp để nhuộm màu nhưng mỗi màu được tạo ra hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm pha chế tỷ lệ hóa phẩm, hay việc dùng các chất dẫn để giúp quá trình tạo màu hiệu quả. Chứ không dập khuôn theo công thức tạo màu. Ví như khi nhuộm lụa mà

90

có 2 chất liệu như sợi tơ tằm tự nhiên và sợ nhân tạo, hay còn gọi là lụa 2 da. Để tạo nên màu sắc cho 1 mặt là màu vàng, mặt còn lại là màu nâu, thì trong quá trình nhuộm bắt buộc phải cho soda (soda vốn là một dạng thuốc dùng để tẩy sạch trước khi nhuộm màu). Bởi mỗi sợi (sợi dọc là tơ tằm, sợi ngang là tơ nhân tạo) có đặc tính hấp thụ màu khác nhau và cho kết quả là mỗi mặt vải có một màu... [Phỏng vấn vào ngày 22/ 4/ 2019]. Ngày nay quá trình tạo màu vải vẫn được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau như nhuộm tạo màu sơ sợi trước quá trình dệt vải và tạo màu vải sau khi hoàn thành công đoạn dệt. Nguyên liệu nhuộm màu có thành phần hóa học công nghiệp để tạo độ bền màu và cho ra nhiều sắc độ màu, đa dạng hơn những nguyên liệu nhuộm màu thủ công truyền thống. Quá trình nhuộm màu, đã được người thợ pha chế với những liều lượng từ các màu cơ bản, và kết hợp với các chất dẫn như: Acid citric - C6H807, soda, muối… và nhiệt độ hợp lý cho ra những màu sắc như mong muốn. Thợ nhuộm Đỗ Văn Minh còn cho biết thêm: “Có những màu khi pha chế thuốc nhuộm với các chất dẫn và xử lý nhiệt độ (thông thường 80 độ C) theo đúng công thức thì ra, nhưng có màu làm đúng công thức không tài nào ra nổi. Đến khi thử nghiệm làm ngược lại qui trình thì ra, ví như tạo màu vàng - nâu ở lụa 2 da. Do đó khi nhuộm không hoàn toàn là theo công thức chuẩn mà còn phải kết hợp kinh nghiệm” [Phỏng vấn vào ngày 22/ 4/ 2019]. Công nghệ dệt vải phát triển còn cho ra đời những chất liệu vải có những hình thức/ chất cảm khác nhau như: satin, ren lưới, chiffon, voan và một số vải dệt có pha sợi tổng hợp tạo độ co giãn đàn hồi khi mặc hay chất liệu vải dệt kim. Những chất liệu vải may áo dài có những đặc tính mềm, có độ rủ… xuất hiện khá phổ biến trên thị trường ở những thập niên gần đây. Ngoài ra mỗi chất liệu lại có hiệu ứng bề mặt đặc trưng do tính chất vật lý và hóa học tạo nên,

91

điều đó đã tạo hiệu quả thẩm mỹ riêng. Như vải voan đặc trưng là mỏng có thể nhìn xuyên qua nền vải, vải ren có đặc trưng thiết kế tạo họa tiết rỗng, vải chiffon mềm rủ, satin bóng mịn… Chính những đặc tính trên bề mặt của chất liệu vải tạo tính thẩm mỹ riêng và giúp các NTK thỏa sức sáng tạo, thể hiện những ý tưởng trong thiết kế áo dài. Thứ ba là công nghệ, kỹ thuật tạo họa tiết trang trí: Công nghệ và kỹ thuật hiện đại đã được các NTK áo dài tiếp thu trong tạo họa tiết trang trí áo dài là công nghệ in và công nghệ thêu vi tính. Công nghệ in, phổ biến là 3 phương pháp in đó là công nghệ in lụa (in lưới), in chuyển nhiệt và in kỹ thuật số. Những phương pháp in hiện đại này ngoài việc cho phép các NTK thể hiện ý tưởng tạo họa tiết hoa văn trang trí, còn có thể in màu nền của họa tiết trang trí trên vải (tức là có thể làm thay đổi màu gốc ban đầu của vải). Công nghệ in chuyển nhiệt và in kỹ thuật số giúp cho hình hoa văn trang trí sắc nét hơn về hình cả về màu và đặc biệt có độ bền màu cao hơn kỹ thuật tạo màu thủ công truyền thống. Công nghệ thêu vi tính phát triển trên thế giới từ những năm 1970 – 1980, nhưng đến những năm 1990 mới xuất hiện ở Việt Nam, và đã được áp dụng vào sản xuất trong may mặc. Ưu điểm là có thể tạo ra nhiều mẫu thêu khác nhau khi xử lý thao tác trên máy tính, và cũng có thể cho ra nhiều bản sao giống nhau cùng một thời điểm, nhanh và chính xác. Công nghệ thêu vi tính được sử dụng thêu trên lưới, tạo nên mẫu vải ren mới lạ. Những mẫu hoa văn của vải ren khá đa dạng và đẹp, do đó thường được dùng may áo dài. Ngoài ra người thiết kế còn tách các hoa văn trên lưới gắn trang trí trên áo dài. Kỹ thuật này thay thế cho kỹ thuật thêu thủ công, do đó giá thành phẩm thấp hơn so với thành phẩm áo dài sử dụng thêu thủ công. Ngoài ra, việc thiết kế hoàn thiện trong sản xuất áo dài còn sử dụng những vật liệu may từ chất liệu tổng hợp như nhựa, kim loại, đá nhân tạo kết

92 hợp với những công nghệ tạo nên nguyên phụ liệu như khóa, hạt cườm, kim sa… Điển hình như chiếc khóa kéo giọt lệ bằng nhựa thay cho khuy cài, tạo thuận tiện trong quá trình sử dụng. Như vậy tiếp thu và áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ trong thiết kế áo dài thể hiện rõ nhất trong tạo màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí. Sự phát triển máy công nghiệp hiện đại như máy in, máy thêu vi tính, máy cắt họa tiết trên vải đã tác động đến ý tưởng thiết kế họa tiết trang trí và màu sắc áo dài hiện đại. Ngoài ra nguyên phụ liệu như hạt cườm, ngọc trai, đá, ruy băng, kim sa… cũng là yếu tố quan trọng để các NTK thể hiện ý tưởng sáng tạo thiết kế áo dài. Việc tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật trong thiết kế áo dài giúp các NTK thể hiện ý tưởng sáng tạo, và bắt nhịp với xu hướng thời trang trên thế giới. 2.2.2.2. Những biến đổi trong thiết kế áo dài Giai đoạn từ sau năm 1980 đến năm 2017, là một giai đoạn có nhiều sự biến đổi trong thiết kế áo dài. Biến đổi đầu tiên phải kể đến là tính chuyên nghiệp trong thiết kế. Các NTK đã coi áo dài vừa là một sản phẩm thời trang hiện đại, vừa là một sản phẩm văn hóa cần được bảo tồn giá trị và quảng bá văn hóa mặc của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Do đó áo dài đã được tôn vinh thông qua các buổi trình diễn trong và ngoài nước, được bạn bè trên thế giới biết đến. Những năm 1989, mẫu thiết kế áo dài của NTK Minh Hạnh và Sĩ Hoàng thiết kế đã để lại nhiều dấu ấn, gợi mở một giai đoạn phát triển mới cho áo dài hiện đại. Mẫu áo do Sĩ Hoàng thiết kế là sự kết hợp của hình dáng áo dài tà rộng với kết cấu vai raglan, tà rộng dài và đã được công chúng đón nhận, yêu thích cho tới ngày nay. Và một số nhà may ở Hà Nội như Mỹ Hào, Tuyết Nhung, Ngân An… cũng theo xu thế đổi mới sáng tạo những mẫu áo phù hợp với nhu cầu của xã hội.

93

Tính chuyên nghiệp trong thiết kế áo dài thể hiện ở qui trình thiết kế. Nó rất khác biệt với các thiết kế của giai đoạn 1930 – 1980. – Biến đổi trong tư duy và quan điểm thẩm mỹ Đầu tiên phải kể đến là việc xây dựng ý tưởng thiết kế cho bộ sưu tập áo dài. Thiết kế bộ sưu tập nhằm thể hiện tư duy sáng tạo có hệ thống và thể hiện tính đồng bộ trong sáng tác. Những mẫu áo dài được thiết kế có chung ý tưởng sáng tạo, chung tông màu, chất liệu vải và hoa văn trang trí. Tuy nhiên mỗi mẫu áo dài đó lại có những bố cục sắp đặt mảng màu, đường nét, hoa văn trang trí… ở các vị trí khác nhau, tạo sự linh hoạt và sáng tạo riêng cho mỗi mẫu thiết kế nhưng vẫn đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất các yếu tố thiết kế tạo nên phong cách đặc trưng bộ sưu tập. Ý tưởng thiết kế khá đa dạng, được lấy từ nhiều nguồn cảm hứng khác nhau, có ý tưởng hữu hình, có ý tưởng vô hình được chọn lọc từ thiên nhiên, kiến trúc cổ, kiến trúc hiện đại, hiện tượng tự nhiên... Như lễ hội Festival Huế 2014 với chủ đề “Thế giới trong tà áo dài Việt Nam” hướng tới sự giao lưu giữa các nền văn hóa các quốc gia, 18 bộ sưu tập được các nhà thiết kế sáng tạo trên ý tưởng về hình ảnh, hoa văn họa tiết của 17 quốc gia. Phần lớn các mẫu áo dài được sử dụng công nghệ in hiện đại tạo họa tiết trang trí. Mỗi nhà thiết kế đều có lựa chọn ý tưởng độc đáo cho bộ sưu tập của mình, như nghệ nhân Lan Hương ý tưởng về hoa Tulip của đất nước Hà Lan, Phan Quang Tân ý tưởng về kiến trúc của nước Anh, Chu La ý tưởng từ đất nước Tây Ban Nha, Quang Huy lấy ý tưởng búp bê Matryoshka và cung điện Kremli của đất nước Nga [PL 4, H.4.22, tr 227]...

Hay tại Festival áo dài Hà Nội 2016, với chủ đề “Tinh hoa Áo dài Việt Nam”, các NTK đã dựa trên tinh thần của chủ đề để sáng tạo những màu sắc riêng cho bộ sưu tập của mình. Như NTK Ngọc Hân chọn ý tưởng cho bộ sưu tập là những tác phẩm tranh thờ Hàng Trống [PL 4, H.4.3, tr 218], Vũ Việt Hà

94 lại lấy ý tưởng về Sen Tây Hồ, Lan Hương lấy ý tưởng về hình ảnh kiến trúc của cổng làng ở các vùng quê Việt Nam [PL 4, H.4.8, tr 220], Hiền Minh lấy hình ảnh từ hoa văn cổ cung đình, hay Công Huân lấy ý tưởng từ kiến trúc chùa… đó là những ý tưởng đã được các NTK chọn lọc mang đặc trưng trong văn hóa Việt Nam đưa vào thiết kế áo dài. Như vậy, ý tưởng thiết kế đã được các NTK khác thác ở nhiều đề tài, góc nhìn khác nhau tạo nên chủ đề của mỗi BST áo dài. Từ ý tưởng thiết kế, NTK chọn lọc những tạo hình đặc trưng của ý tưởng, có thể là màu sắc, là đường nét, hình khối hay những tạo hình đặc trưng của ý tưởng đã khơi gợi về một chất liệu thiết kế mới. Do đó, ở giai đoạn này những BST áo dài thường được nghiên cứu sáng tác dựa trên chủ đề cụ thể, ý tưởng thiết kế như kim chỉ nam giúp các NTK định hướng sáng tạo và không lan man, nhầm lẫn hay sao chép sáng tạo của người khác. Festival Huế năm 2012 với chủ đề của lễ hội áo dài “Hoa Sen trong hội họa”, đã được các nhà thiết kế khai thác ở nhiều trạng thái của hoa Sen bằng những kỹ thuật, thủ pháp nghệ thuật khác nhau tạo nên muôn hình vạn trạng trên tà áo dài. Có nhà thiết kế dùng kỹ thuật chắp ghép tạo họa tiết trang trí nổi, có người lại dùng kỹ thuật in tạo những mảng hình hoa văn trên áo. Trong đó có kỹ thuật tạo hình khối 3D của hoa và lá Sen trong BST áo dài do Quỳnh Paris thiết kế [PL 4, H.4.15, tr 224]. Hình dạng của lá Sen được chuyển hóa thành những đường bèo nhún lượn sóng ở tay áo, viền tà, có mẫu lại xuất hiện ở vị trí trọng tâm ngực áo. Hình hoa và lá đan xen tạo thành những khối chuyển động trên áo dài. Những đường vân trên lá và hoa hay màu sắc cũng được NTK khai thác góc độ cách điệu tạo nên những điểm nhấn ấn tượng cho mẫu áo. Bộ sưu tập hướng tới nghệ thuật trình diễn, do đó những yếu tố tạo hình có phần phá cách vượt ra ngoài khuôn mẫu chuẩn mực của áo dài đời thường. Sự kết hợp thủ pháp nghệ thuật cách điệu và tả thực được đan xen trong hầu hết các mẫu áo dài đã tạo nên giá trị nghệ thuật.

95

Khai thác nghệ thuật phối màu nhằm lột tả ý tưởng thiết kế, điển hình như BST áo dài của NTK Vũ Việt Hà, ý tưởng thiết kế từ hoa Lan [PL 4, H.4.19, tr 226]. Tác giả dùng các sắc độ của gam màu xanh và vàng phối hợp với nhau tạo nên một bảng màu tươi mới, chủ đạo cho BST áo dài. Bên cạnh đó NTK có sử dụng họa tiết trang trí, nhưng chỉ có vai trò tương hỗ, do đó màu sắc không quá nổi bật. Họa tiết được sắp đặt đứng trong một tổng thể gam màu xanh vàng, tạo sự vừa mắt, hài hòa, đồng thời BST đó vẫn gây ấn tượng thị giác. Có mẫu sử dụng 3 xanh lá non, xanh lá già và vàng cốm phối với nhau như NTK muốn miêu tả các trạng thái phát triển của hoa Lan, mỗi tà áo là 1 lớp màu được phủ lớp màu khác tạo nên các lớp màu gợi như những cánh hoa, có sự chuyển động cả về hình và về màu. Có mẫu lại dùng những gam màu khác như cam, xanh và vàng. Tuy nhiên các mẫu đều có tạo hình thống nhất về hình dáng, kết cấu cũng như dùng các sắc độ của màu để gợi tả vẻ đẹp đặc trưng của hoa Lan. Hay việc chọn lọc những đường nét của ý tưởng tạo họa tiết hoa văn trang trí trong BST áo dài của Ngọc Hân thiết kế ý tưởng từ tranh Đông Hồ [PL 4, H.4.3, tr 218]. Những đường nét được Ngọc Hân lựa chọn dựa trên những hình ảnh của hoa lá và chim Công. Với lối bố cục tự do kết hợp với nguyên tắc tạo tỷ lệ, nhịp điệu, các mảnh hình và đường nét được sắp đặt hài hòa tạo nên sáng tạo mới lạ cho những mẫu áo dài. Các mẫu thiết kế có sự thống nhất về hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và hình thức trang trí tạo nên tính đồng bộ xuyên suốt trong bộ sưu tập. Thiết kế bộ sưu tập áo dài được các NTK giới thiệu với công chúng qua các buổi trình diễn có quy mô và mang tính nghệ thuật, điển hình như lễ hội áo dài, Festival áo dài… Những buổi trình diễn có qui mô góp phần lan tỏa hình ảnh áo dài trong xã hội, cũng như những mẫu thiết kế mới, giúp phụ nữ trong xã hội tiếp cận trực tiếp hay gián tiếp nghệ thuật thiết kế áo dài một cách dễ dàng hơn giai đoạn trước.

96

Thứ hai là biến đổi trong sử dụng màu sắc: Màu sắc áo dài đã có nhiều biến đổi, trước đây quan điểm dùng màu sắc gần với màu của môi trường lao động, môi trường thiên nhiên, phổ biến là màu trắng, màu nâu, màu chàm, màu đen… Khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây, từ những năm 1950 màu sắc áo dài đã thay đổi, thấy xuất hiện những tông màu như cam, xanh lam, xanh lá cây, vàng và tím. Giai đoạn từ sau năm 1980 đến năm 2017, màu sắc áo dài được biến hóa đa dạng, màu sắc áo dài đã được sử dụng vừa thể hiện cá tính, vừa tôn lên màu da, vóc dáng của người mặc và đặc biệt ngày nay phụ nữ còn sử dụng màu sắc thể hiện gu thẩm mỹ. Nắm bắt được điều này, các NTK đã không ngừng nghiên cứu sáng tạo và thiết kế những hòa sắc áo dài đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người mặc. Do đó giai đoạn này, màu sắc áo dài phong phú và thay đổi theo xu hướng thời trang, sự xuất hiện các tông màu mới, lạ được khai thác từ nhiều nguồn ý tưởng khác nhau. Đặc biệt ở giai đoạn này áo dài được thiết kế sử dụng nghệ thuật phối màu như phối màu tương đồng, phối màu đơn sắc, phối màu tương phản, phối màu vô sắc. Nghệ thuật phối màu được đặt trong không gian giữa thân áo với quần, màu áo với màu của hình trang trí. Hay việc sử dụng chính những mảng hình kết cấu phối màu với nhau tạo nên diện mạo vừa lạ vừa quen điển hình như mẫu áo dài của NTK Minh Hạnh năm 2012 [ PL4, H.4.5, tr 219]. Cái lạ là ở kết cấu tay raglan được NTK dùng một màu khác với màu của áo làm nổi bật kết cấu trên hình dáng truyền thống. Cái quen ở phần kết cấu tay raglan đã có từ những năm 1960 thế kỷ XX, do đó từ cái cũ mà NTK đã sử dụng nghệ thuật phối màu để làm mới cho áo dài. Đặc biệt màu sắc của tay áo được sử dụng màu của một trong những mảng màu họa tiết ở tà áo như một sự nhắc lại màu, có tỷ lệ to nhỏ khác nhau đã gây ấn tượng thị giác. Kiểu phối màu giữa các mảng hình kết cấu trên áo dài cũng đã được nhiều NTK khai thác ở những năm gần đây và cho hiệu quả thẩm mỹ nhất định.

97

Thứ ba là biến đổi hình dáng và kết cấu áo dài: Hình dáng và kết cấu được biến đổi theo phong cách khác nhau như: Phong cách cổ điển/ truyền thống được các NTK khai thác hình dáng và kết cấu theo kiểu dáng của áo dài tà thụng và kết cấu tay raglan. Phong cách hiện đại được các NTK sáng tạo linh hoạt về kích thước và tỷ lệ dài ngắn của áo. Hay phong cách hỗn dung giữa cổ điển truyền thống với phong cách hiện đại. Mỗi phong cách được người thiết kế dựa trên ý tưởng, nhu cầu sử dụng áo dài trong những môi trường sống khác nhau. Vai trò của những phong cách là thể hiện tính cá nhân hay tính cộng đồng trong mặc áo dài phù hợp với môi trường sống. Ngoài ra kết cấu và hình dáng của áo dài còn được thiết kế theo đặc điểm nhân trắc của người mặc. Mỗi người mỗi tạng, do đó NTK phải có sự tinh tế và thẩm mỹ thiết kế nhằm sáng tác những mẫu áo dài phù hợp với mỗi tạng người khác nhau. Do đó sự biến đổi hình dáng và kết cấu biểu hiện không rõ ràng theo từng năm như giai đoạn năm 1930 -1980, mà được các NTK sử dụng linh hoạt theo nhu cầu, phong cách, cá tính, hình dáng người mặc… hay theo nhiều xu hướng khác nhau. Bởi vậy, giai đoạn này hình dáng và kết cấu của áo dài khá đa dạng. Sự xuất hiện đan xen những mẫu áo có tay sơ mi/ vai tròn (giống thiết kế tay của Nguyễn Cát Tường) với tay raglan trong thiết kế áo dài đã tạo sự đa dạng về kết cấu như: Mẫu số 1 trong BST Hương Sắc Việt của NTK Lan Hương [PL 4, H.4.17, tr 225] , hay những mẫu áo trong BST áo dài Vương Triều của NTK Sĩ Hoàng [PL4, H.4.7, tr 220]… Thứ tư là biến đổi trong phối hợp áo dài với nhiều dáng quần khác nhau: Áo dài được phối với dáng quần cũng được phân theo phong cách, phong cách truyền thống thường phối hợp với quần ống rộng, phong cách năng động hiện đại phối hợp với quần ống nhỏ, nhiều dáng dài ngắn khác nhau. Những kiểu phối này là do chịu tác động của các yếu tố như xu hướng thời trang, môi trường làm việc và thị hiếu thẩm mỹ…

98

Những năm gần đây như năm 2017 có người còn thiết kế, phối áo dài với quần ống rộng (dáng quần giả váy), hay phối với chân váy xòe. Thứ năm là biến đổi thiết kế tùy thuộc vào từng dòng/ thể loại áo dài: Sự biến đổi trong thiết kế áo còn phụ thuộc vào từng dòng áo dài đời thường hay áo dài trình diễn. Do đặc trưng của mỗi dòng áo dài được sử dụng trong môi trường khác nhau, nên người thiết kế lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật trong tạo hình, chất liệu thiết kế và kỹ thuật phù hợp nhằm tạo nên những sản phẩm áo dài có giá trị. Hình dáng, kết cấu áo dài trình diễn có xu hướng cách điệu về tỷ lệ và kích thước, tạo hình khác xa với áo dài đời thường. Bởi áo dài trình diễn đề cao giá trị nghệ thuật hơn giá trị ứng dụng, do đó những tư duy táo bạo được thể hiện trong tạo hình. Như những mẫu áo dài trong BST Fusion của NTK Quỳnh Paris giới thiệu công chúng năm 2014 [ PL4, H.4.36, tr 234]. Những kỹ thuật đánh nhún, xếp bèo nổi khối 3D đã tạo nên nét chấm phá trong hình dáng và kết cấu áo dài. Ngoài ra BST là sự kết hợp tinh tế của những chất liệu lụa, lụa crepe, satin, lụa gaza, metallic, brocard silk với màu sắc tạo nên giá trị nghệ thuật. - Biến đổi trong ứng dụng thành tựu khoa học và giải pháp thiết kế Mỗi nhà thiết kế sẽ có những tư duy sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ vào thiết kế cho từng bộ sưu tập áo dài khác nhau và tạo nên những dấu ấn riêng biệt. Những mẫu thiết kế đó đã đáp ứng được nhu cầu về thẩm mỹ, công năng sử dụng và có độ bền, thuận lợi trong quá trình sử dụng… Sự lựa chọn những giải pháp hiện thực hóa ý tưởng phụ thuộc vào tư duy thiết kế khác nhau phù hợp với mục đích sáng tạo ban đầu của từng NTK. Như cùng chủ đề ý tưởng về hoa lá trong thiên nhiên, có người lại lựa chọn giải pháp dùng công nghệ in (như Hoa Phăng của NTK Đức Hải), có người lại sử dụng kỹ thuật vẽ thủ công (Quốc hoa sử dụng kỹ thuật vẽ tay của NTK Sĩ Hoàng),

99 người lại dùng kỹ thuật thêu thủ công như nghệ nhân Lan Hương [PL 4, H.4.30, tr 231]. NTK còn chủ động kết hợp áp dụng các kỹ thuật thủ công và công nghiệp với nhau nhằm tạo nên những hiệu ứng mới trong trang trí. NTK Hương Giang cho biết: Chị kết hợp rất nhiều kỹ thuật vào làm họa tiết trang trí, như một mẫu áo dài có thể vừa kết hợp đắp vải tạo mảng hình, cùng với đó là thêu tay tạo nét viền quanh các mảng hình đó, tiếp tục đính đá, hạt cườm đè nên tạo độ sáng lấp lánh và cuối cùng là vẽ điểm chấm màu xung quanh tạo nên hiệu ứng lan tỏa màu sắc từ mảng hình trọng tâm tới các vị trí xung quanh [Phỏng vấn vào ngày 23/ 4/ 2019]. Ngoài ra tuy vào mục đích sử dụng mà mỗi NTK lựa chọn ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật vào thiết kế áo dài như có mẫu thiết kế đáp ứng được công năng về sự tiện lợi khi mặc áo, họ sẽ chú trọng đến công nghệ tạo chất liệu vải may áo (như mềm, nhẹ, thoáng mát, dễ vệ sinh…) mang lại cho người mặc cảm giác dễ chịu, thuận tiện. Hay như việc cải tiến sử dụng khóa kéo để may áo dài đã giúp người sử dụng dễ dàng hơn trong việc mặc. Như vậy từ sau năm 1980 đến năm 2017 là giai đoạn có nhiều biến đổi trong tư duy thiết kế của các NTK, thợ may, nghệ nhân. Có những biến đổi được công chúng đón nhận, ca ngợi vừa có giá trị truyền thống, vừa sáng tạo và mang hơi thở hiện đại phù hợp với đời sống của con người trong xã hội. Nhưng cũng không ít những biến đổi còn xa rời với thị hiếu thẩm mỹ và giá trị truyền thống dân tộc, do đó đã bị công chúng, xã hội phê phán. Điều dễ nhận thấy ở giai đoạn này, những biến đổi trong thiết áo dài đã chịu nhiều tác động của yếu tố khoa học công nghệ, kỹ thuật và tư duy thẩm mỹ hiện đại trong nghệ thuật. Những biến đổi trong thiết kế áo dài ở giai đoạn này cũng được NTK Sĩ Hoàng bày tỏ:

100

Theo tôi, nên tiếp nhận những ý tưởng sáng tạo mới, nhưng phải làm sao để người mặc đẹp hơn, kể cả tâm hồn lẫn hình thức. Người làm áo dài cần nắm được thiết kế của mình và biết tiết chế, chừng mực, không đi đến lố lăng… Khi tiếp nhận cái mới về mặt kỹ thuật cũng cần có giới hạn và phải biết làm cách nào để không bị phô. Áo dài nguyên thủy dùng dây cột ở cánh tay, sau đó đến nút thắt, rồi cúc bấm. Bây giờ là khóa kéo. Khách hàng chuộng khóa kéo vì nó chắc chắn và đảm bảo không xảy ra sự cố. Nhưng khóa kéo cũng phải vừa đủ. Nếu khóa kéo đến tận lưng sẽ bị cộm, sượng và cứng. Tôi chỉ sử dụng dây kéo sau cổ và ở phần eo để đảm bảo sự thoải mái, dễ sử dụng và giữ lại nét mềm mại cho áo dài. Theo nguyên tắc, nếu chất vải quá mỏng thì cần có thêm lớp lót [136]. Sĩ Hoàng là người chủ động trong ý thức tìm kiếm sự giao lưu cải cách, hội nhập áo dài với nền văn hóa trên thế giới, tuy nhiên những tiếp nhận cái mới đó có chừng mực sao cho không qua lố mà mất đi giá trị văn hóa vốn có của áo dài. Như vậy những tiếp thu và biến đổi trong thiết kế áo dài giai đoạn từ sau năm 1980 – 2017 đã hình thành nhiều phong cách, xu hướng khác nhau, từ màu sắc, hình dáng, kết cấu, tính trang trí và chất liệu vải được các NTK nghiên cứu sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội, đồng thời thể hiện được cái tôi, quan điểm thiết kế riêng. Chính điều này đã khiến áo dài trở thành một sản phẩm sáng tạo đầy tính nghệ thuật. 2.3. Yếu tố tác động đến sự tiếp biến trong thiết kế áo dài Khi có sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây (Pháp, Mỹ và một số nước Bắc Âu) ở những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đến nay, qua nhiều phương thức khác nhau văn hóa Việt Nam đã ảnh hưởng đáng kế. Trong xã hội

101 xuất hiện những xu hướng tiếp nhận, ứng xử với văn hóa ngoại lai như: Xu hướng thứ nhất là chống lại ảnh hưởng của văn hóa Tây của giới tri thức nho học Việt Nam bắt nguồn từ sự trung thành với văn hóa truyền thống. Xu hướng thứ hai là chấp nhận tích cực văn hóa Phương Tây của tầng lớp tri thức tây học. Xu hướng thứ ba là những người có tham vọng đổi mới tư duy tiến bộ, nâng cao tri thức nên họ tiếp thu các giá trị tinh hoa của văn hóa Phương Tây. Tiêu biểu cho xu hướng này là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Do vậy những yếu tố tác động đến sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài được xác định là bởi những yếu tố như sau: Thứ nhất là bối cảnh chính trị xã hội, thứ hai là yếu tố khoa học công nghệ kỹ thuật, thứ ba là giao thoa văn hóa. Đây chính là 3 yếu tố tác động đến sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại, khác hẳn với những yếu tố nội sinh hình thành nên thiết kế áo dài truyền thống (như các yếu tố môi trường địa lý, môi trường thiên nhiên – khí hậu, văn hóa, quan niệm, tín ngưỡng nhân sinh …). Nói như vậy, không hẳn những yếu tố môi trường xã hội, tự nhiên và văn hóa tín ngưỡng … không tác động đến sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại mà những yếu tố này được dung hòa với những yếu tố ngoại sinh để tạo nên sự biến đổi. Do đó những biến đổi trong văn hóa nghệ thuật nói chung và trong nghệ thuật thiết kế áo dài nói riêng được xã hội chấp nhận. Nó phải vừa mang giá trị văn hóa mới – hiện đại phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa nhưng đồng thời vẫn đáp ứng được giá trị thẩm mỹ, văn hóa truyền thống. Chính điều này đã khiến những mẫu thiết kế áo dài mới có sức sống lâu bền. 2.3.1. Yếu tố chính trị xã hội Sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVI khi người Bồ Đào Nha đến Việt Nam với tư cách là giao thương buôn bán, tiếp đó là người Hà Lan và người Anh. Tuy nhiên sự tiếp xúc này chưa để lại dấu ấn

102

đáng kế với nền văn hóa của Việt Nam. Phải đến khi tiếp xúc với Pháp từ năm 1858, và với Âu Mỹ ở thế kỷ XX mới để lại dấu ấn quan trọng trong văn hóa – nghệ thuật Việt Nam. Người Phương Tây đến Việt Nam dưới nhiều phương thức khác nhau như giao thương buôn bán, chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, ngoại giao hợp tác kinh tế, đào tạo giáo dục… Thời gian người Phương Tây đến Việt Nam diễn ra khá dài và liên tục đã tạo ra những dấu ấn về các sự kiện chính trị xã hội và văn hóa khác nhau. Qua những tư liệu lịch sử và dựa trên những sự kiện văn hóa, NCS chia khoảng thời gian tiếp xúc văn hóa Phương Tây thành các mốc sau: Giai đoạn 1: Từ năm 1858 – 1945 Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã xác lập nền cai trị trên đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội Phong kiến độc lập sang xã hội tư bản thuộc địa. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến tư duy, văn hóa và đặc biệt là đến thẩm mỹ của người Việt Nam. Phương thức kinh tế tư bản du nhập vào Việt Nam đã tác động mạnh vào quá trình đô thị hóa, các trung tâm thương mại được quy hoạch, các thành phố được hình thành. Những năm 20 của TK XX, cư dân ở thành thị là những tiểu thương, những công nhân của các nhà máy, đặc biệt là những người làm việc trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Theo tác giả Đào Duy Anh: Xã hội Việt Nam bắt đầu có sự phân hóa và hình thành thêm các giai cấp như công nhân, tư sản, trí thức, và tiểu tư sản thành thị. Một cơ cấu xã hội mới được hình thành và phát triển trong bối cảnh văn hóa phức tạp, đây là thời kỳ khởi đầu cho sự tiếp xúc văn hóa cổ truyền Việt Nam với nền văn hóa Phương Tây, thông qua văn hóa Pháp du nhập có tính cưỡng bức, vừa có tính tự nguyện [1].

103

Năm 1930, sau khi phong trào Việt Nam quốc dân Đảng bị tan rã, do sự đàn áp của thực dân Pháp, ngọn cờ giải phóng dân tộc đã chuyển sang xu hướng mới do đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Giới trí thức tiểu tư sản thành thị mất dần chỗ dựa về chính trị đã tìm được lối thoát trong văn hóa và nghệ thuật. Xuất hiện chức nghiệp mới - văn nghệ sĩ. Lần lượt các tờ báo Phong Hóa (ra đời 1932), tờ Ngày Nay (ra đời 1935). Hai tờ báo này đã có những ảnh hưởng sâu rộng một thời gian dài trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Hà Nội trở thành trung tâm chính trị của Đông Dương và xứ Bắc kỳ, các trụ sở hành chính thuộc bộ máy chính quyền của thực dân được dựng lên ở Hà Nội, nhiều công ty nước ngoài được đặt ở Hà Nội, các trường Cao đẳng, Đại học được xây dựng. Trong giai đoạn này, xuất hiện những tầng lớp trí thức được học và đào tạo theo tri thức, giáo dục của Phương Tây – Pháp. Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được hình thành, đã đánh dấu một thời kỳ mới cho nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Ở giai đoạn tiếp xúc văn hóa Phương Tây, có 2 sự kiện lớn trong xã hội ảnh hưởng đến văn hóa mặc của người Việt Nam. Thứ nhất là sự ra đời của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925 – 1945), thứ hai là sự ra đời của tờ báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực Văn Đoàn (1932 – 1936). Sự kiện thứ nhất: Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương chính thức được ký Nghị định thành lập vào tháng 10 năm 1924, do ông Victor Tardieu làm giám đốc. Sau một năm chuẩn bị cơ sở vật chất, năm 1925 trường chính thức đi vào hoạt động đào tạo khóa đầu tiên. Trường hoạt động đào tạo đến năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp thì đóng cửa. Mục tiêu đào tạo của trường: đào tạo những kiến thức và kỹ thuật cho những nghệ sỹ Đông Dương thông qua sự tương hợp giữa nghệ thuật truyền thống của các nước Đông Dương với nhau, song song với việc hướng các nghệ sỹ bản địa tìm hiểu những kỹ thuật cũng như giá trị thẩm mỹ mới của Phương Tây nhằm hỗ trợ họ phát huy bản sắc và

104 giá trị truyền thống của đất nước mình. Ngoài ra trường còn định hướng tư duy sáng tạo mang tính thực tiễn và ứng dụng của các nghệ sỹ bản địa. Victor Tardieu là một người quản lý, một họa sỹ và một người thầy có tài, ông đã nhìn thấy được tâm hồn đầy chất nghệ sỹ và bàn tay khéo léo của các họa sỹ Việt Nam. Do đó ông đã hướng đào tạo sinh viên tiếp thu những kiến thức cơ sở tạo hình của Phương tây, đồng thời kết hợp với thế mạnh của đặc điểm tạo hình dân tộc để tạo nên những tác phẩm vừa mang tính quy phạm hàn lâm lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Do vậy, các sinh viên đã nhanh chóng tìm được hướng đi phù hợp cho mình và tạo nên được phong cách riêng. Những họa sỹ nổi bật với phong cách và chất liệu vẽ như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn thành công với chất liệu sơn dầu, chất liệu lụa có Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lương Xuân Nhị, Mai Trung Thứ, chất liệu sơn mài có Nguyễn Gia Trí… Như vậy Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương là trung tâm đào tạo họa sỹ một cách chính quy, bài bản. Các họa sỹ Việt Nam được tiếp cận với nghệ thuật tạo hình Phương Tây, hội họa Phương Đông (Nhật Bản – tranh khắc gỗ và tranh lụa, Trung Quốc – tranh lụa). Cũng chính từ giai đoạn này, nền hội họa Việt Nam đã chuyển sang một trang mới. Qua những tác phẩm hội họa, các tác giả đã thể hiện được sự hiểu biết về khoa học (khoa học màu sắc, không gian, luật xa gần, giải phẫu cơ thể) và sự giao thoa nền văn hóa Đông Tây, cũng từ đây nền hội họa Việt Nam đã mở ra cơ hội hòa nhập vào hội họa đương đại chung của thế giới. Như vậy, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã đào tạo ra một thế hệ họa sỹ đã được tiếp thu nền mỹ thuật, kỹ thuật của Phương Đông và Phương Tây. Đặc biệt là sự tiếp thu luồng tư tưởng mới kết hợp với yếu tố truyền thống đã góp phần tạo nên một diện mạo lớn cho nền mỹ thuật Việt Nam. Điển hình có hai họa sỹ là Nguyễn Cát Tưởng và họa sỹ Lê Phổ, cả hai đã có những đóng

105 góp về sự thay đổi tư duy thẩm mỹ không chỉ về hội họa mà còn về trang phục vào những năm 30 của TK XX. Sự kiện thứ hai: là sự ra đời của tờ báo Phong Hóa, đứng đầu báo là Nguyễn Tường Tam, bút danh Nhất Linh, ông đỗ cử nhân khoa học ở Pháp, Nhất Linh đã quy tập Nguyễn Tường Long, Nguyễn Tường Lân, Trần Khánh Giư, Nguyễn Thứ Lễ, Hồ Trọng Hiếu, Tô Ngọc Vân, Ngô Xuân Diệu, Cù Huy Cận, Nguyễn Cát Tường…thành nhóm Tự lực văn đoàn. Đây là nhóm thế hệ mới, sinh sau những năm 1900, nên vốn tiếng Hán không nhiều, họ là những người tiếp thu kiến thức chủ yếu là văn hóa Phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp, nên họ sử dụng những chuẩn mực mới, những chuẩn mực của xã hội tư sản Phương Tây để đả kích xã hội cũ. Báo Phong Hóa công bố các sáng tác có giá trị của các nhà văn, nhà thơ (chủ yếu là của nhóm Tự Lực văn đoàn) và những nội dung hài, châm biếm đem đến "cái cười" cho độc giả. Nội dung trong báo đề cập đến những sự kiện trước mắt, không xét đến gốc gác, không đi sâu vào bản chất mà chỉ nhìn đến hiện tượng. Do đó tờ báo toát lên những nội dung mang hàm ý châm biếm, đả kích. Đi cùng với nội dung châm biếm là những hình ảnh minh họa, có 2 họa sỹ phụ trách mảng này là Nguyễn Gia Trí và Tô Ngọc Vân. Những nhân vật trong tranh là những nhân vật vừa có thực, vừa hư cấu, tới mức điển hình, thể hiện rõ nội dung bài viết. Ngoài ra, Báo Phong Hóa còn giới thiệu các tác phẩm văn học, tiểu thuyết, thơ mới đến độc giả, nhờ vậy mà "cuộc cách tân tiểu thuyết tiến lên một bước mới", phong trào "thơ mới" được phổ rộng. Ngôn ngữ viết của báo là chữ quốc ngữ, ít dùng chữ Hán, đã khiến cho nhiều người thích đọc... Báo Phong Hóa cũng là nơi cho thành viên của nhóm giới thiệu những tác phẩm hội họa mới, âm nhạc mới và các kiểu trang phục tân thời. Như vậy, trong bối cảnh chung của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cuộc tiếp xúc với văn hóa Phương Tây – văn hóa Pháp đã mở

106 ra nhiều cơ hội giao lưu và tiếp thu văn hóa. Bước đầu có thể là sự giao lưu mang tính cưỡng chế, nhưng về sau, dưới tác động chính sách kinh tế của Pháp, Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực. Cả hai sự kiện trên, đều tiếp thu hệ tư tưởng Châu Âu đã tạo ra những biến đổi quan trọng trong xã hội, cơ cấu không gian văn hóa thay đổi so với truyền thống. Lớp chủ thể sáng tạo văn hóa mới được tiếp thu lối tư duy hoàn toàn mới mẻ, ý thức cá nhân cao đã chủ động tích hợp văn hóa Đông Tây đã tạo nên những biến đổi sâu sắc trong văn học, nghệ thuật, hội họa và đặc biệt hơn nữa là tư duy thẩm mỹ mới trong văn hóa mặc hiện đại và văn minh hơn. Quá trình tiếp xúc với văn hóa Pháp giai đoạn này đã giúp cho xã hội Việt Nam có những thay đổi nhiều mặt, đặc biệt là về tư duy. Theo tác giả Phan Ngọc, giai đoạn tiếp xúc với Pháp người Việt đã có được tư duy mang tinh thần Pháp thông qua 3 nét chính: Thứ nhất là óc phân tích, thứ hai là óc duy lý, thứ ba là óc phê phán [53]. Những tư duy này được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn hóa nghệ thuật. Ngoài ra người Pháp còn đưa những thành tựu về khoa học công nghệ kỹ thuật vào nước ta. Đây là những yếu tố quan trọng giúp con người thay đổi tư duy và thể hiện quan điểm cá nhân, quan điểm thẩm mỹ. Sự mâu thuẫn về tư duy nhận thức giữa con người thế hệ mới và thế hệ cũ ngày càng rõ nét, khi những thế hệ mới mạnh dạn lên tiếng phê phán những tư duy của ông cha là thiếu văn minh và không phù hợp với xã hội hiện đại. Điển hình cho tầng lớp con người đương thời đó là những người thuộc nhóm Tự lực văn đoàn, đặc biệt là Nguyễn Cát Tường, khi ông đưa ra những đánh giá và phân tích cách mặc và thiết kế áo dài của thế hệ trước. Ngoài ra khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, người Việt đã thay đổi văn hóa quà tặng trước kia thành văn hóa kinh tế thị trường. Tức những tác phẩm nghệ thuật đã trở thành những sản phẩm hàng hóa được kinh doanh buôn bán trên thị trường tiêu dùng. Chính điều này đã kích thích sự sáng tạo cho mỗi sản phẩm,

107 minh chứng là Nguyễn Cát Tường đã biến việc thiết kế áo dài tân thời thành những sản phẩm hàng hóa thị trường. Do đó áo dài đã trở nên đa dạng về mẫu mã, sự biến tấu về chất liệu vải, kiểu dáng và màu sắc tạo nên một thị trường mới cho nghệ thuật thiết kế áo dài lúc bấy giờ. Như vậy, với bối cảnh chính trị xã hội, khi tiếp xúc với văn hóa Pháp đã làm thay đổi tư duy sáng tạo của con người. Sự sáng tạo trong văn hóa nghệ thuật và đặc biệt là thiết kế áo dài đều hướng tới 3 điểm chính sau: Thứ nhất là hướng tới nhu cầu thực tế của thị trường – khách hàng. Thứ hai là những sản phẩm sáng tạo được áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật. Thứ ba là thỏa mãn sự sáng tạo và thể hiện cái tôi, quan điểm thẩm mỹ cá nhân. Giai đoạn 2: Từ năm 1945 – 1975 Đây là thời điểm diễn ra hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Hậu quả là nền kinh tế nghèo nàn, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế, chủ yếu là giao lưu với những quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc. Văn hóa nghệ thuật đã hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ. Do đó những tác phẩm nghệ thuật mang đề tài chiến tranh, tinh thần chiến đấu, sự lạc quan hay ca ngợi tinh thần Anh hùng cách mạng. Về trang phục xuất hiện một số phong cách mặc mới do tiếp xúc với trào lưu văn hóa Mỹ, như phong trào Miniskirt (phong trào mặc váy ngắn diễn ra ở Mỹ), phong trào Hippy hình thành kiểu áo dài hippy [PL 3, H.3.14, tr 213]. Ngoài ra giai đoạn này còn xuất hiện nhân vật có ảnh hưởng lớn trong xã hội cũng như quá trình cách tân áo dài ở Việt Nam – đó là Trần Lệ Xuân. Từ năm 1954 đến 1975, trong văn hóa mặc ở Việt Nam có sự phân cách giữa hai miền Bắc – Nam. Miền Bắc gần như không có sự ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Âu Mỹ, mà chỉ ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Quốc hay cộng hòa dân chủ Đức. Tuy nhiên vẫn được tiếp nhận nền khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa này.

108

Sau hiệp định Geneve, miền Nam bị quân đội Mỹ chiếm đóng nên đã hình thành một thể chế chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hóa tại khu vực này được xây dựng theo mô hình chủ nghĩa tư bản Phương Tây – mang dấu ấn Hoa Kỳ. Đối tượng tiếp nhận văn hóa Mỹ ở miền Nam là giới trẻ, sinh viên, tầng lớp trí thức hướng ngoại. Những đối tượng này đi theo tư tưởng, lối sống của thế giới tự do “kiểu Mỹ” và phát huy vai trò cá nhân. Tuy nhiên vẫn dưới sự kiểm soát của hệ thống luật lệ và thể chế xã hội. Đây chính là giai đoạn đánh dấu mốc tạo sự khác biệt trong văn hóa Việt Nam ở hai miền Bắc – Nam. Do đó trong văn hóa mặc giữa hai miền cũng có sự khác biệt. Như vào giai đoạn năm 1960 miền Nam mặc kiểu áo dài hippy, midi [PL 3, H.3.14, tr 213] và áo dài chiết eo [ PL 3, H.3.13, 213], còn miền Bắc mặc áo dài tà dài rộng. Giai đoạn 3: Từ năm 1975 đến nay Đây là giai đoạn khi đất nước hoàn toàn độc lập. Trên mọi miền tổ quốc bắt đầu khôi phục những tàn dư sau chiến tranh về mọi mặt. Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã có những thành tựu đáng kế về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Về Chính trị - Xã hội: với phương châm mở rộng đối ngoại, Việt Nam sẵn sàng làm bạn và tham gia các tổ chức kinh tế trong và ngoài khu vực như ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Khuyến kích các nền kinh tế thị trường, với chính sách nhiều cửa nhằm đảm bảo sự thuận lợi cho người dân phát triển kinh tế, bắt kịp với nền kinh tế thế giới. Về Văn hóa – giáo dục: cùng với những chính sách đối ngoại, văn hóa – giáo dục của Việt Nam đã được tiếp cận với những nền văn hóa đa dạng và tiên tiến, hiện đại từ các nước Châu Âu và Châu Á. Nhà nước tôn trọng quyền tự do tôn giáo - tín ngưỡng, tự do trong văn hóa mặc. Tuy nhiên vẫn có những định hướng không làm mất đi giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu. Bởi mất đi giá trị truyền thống là mất đi hồn dân tộc.

109

Do sự phát triển văn hóa không đồng đều giữa hai miền Nam, Bắc, tháng 10 năm 1976 Bộ Văn hóa đã tổ chức “Hội nghị văn hóa miền Nam” để phân tích tình hình và xác định phương hướng khắc phục sự không đồng đều về công tác văn hóa giữa 2 miền với phương châm vừa cải tạo vừa xây dựng. Những hoạt động văn hóa như tổ chức lễ hội, liên hoan nghệ thuật, điện ảnh, âm nhạc, triển lãm mỹ thuật, in xuất bản tác phẩm văn học… trình diễn thời trang thường xuyên được diễn ra đã tạo nên những làn sóng văn hóa mới, mang tính chất phổ biến góp phần định hướng thẩm mỹ và giáo dục. Từ những chính sách và thành tựu ở giai đoạn này đã tác động lớn đến sự phát triển của thời trang Việt Nam nói chung, nghệ thuật thiết kế áo dài nói riêng. Nhất là khi có sự phát triển của khoa học kỹ thuật và vai trò của truyền thông đại chúng như điện ảnh, âm nhạc… Do đó thấy xuất hiện nhiều chất liệu vải mới được dệt từ sợi tổng hợp có bề mặt mỏng và bóng mịn và dùng may áo dài [PL 3, H.3.15.b, tr 214]. Hay sự phát triển ngành công nghệ thông tin như hệ thống mạng - Internet, truyền hình kỹ thuật số… cũng như các thiết bị công nghệ mới như điện thoại thông minh và sự phát triển của mạng xã hội đã thúc đẩy quá trình cá nhân hóa một cách nhanh chóng. Mọi cá nhân đều mong muốn được thể hiện cái tôi của mình từ tư duy đến hành động. Trong xã hội xuất hiện nhiều phong cách mặc khác nhau, theo sở thích và thẩm mỹ riêng nhưng đặc biệt là thích thể hiện cái tôi. Sự thể hiện cái tôi đôi khi không cần quan tâm đến xem phong cách mặc đó có phù hợp với chuẩn mực văn hóa dân tộc mình hay không. Tuy nhiên hiện tượng cá nhân hóa trong sáng tạo nghệ thuật cũng tạo ra những thành công nhất định, những mẫu thiết kế áo dài truyền thống đã được sáng tạo và biến đổi theo những trào lưu văn hóa chung của thế giới. Như việc mỗi tác giả áp dụng một kỹ thuật, phương pháp và quan điểm nghệ thuật mới trên thế giới, đã tạo nên sự phong phú, đa

110 dạng điều này minh chứng qua những kỳ lễ hội Festival áo dài của những năm gần đây. 2.3.2. Yếu tố khoa học công nghệ và kỹ thuật Khoa học công nghệ - kỹ thuật là một yếu tố quan trọng trong ngành thời trang nói chung và trong nghệ thuật thiết kế áo dài nói riêng. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp và có vai trò to lớn làm thay đổi về cơ cấu tổ chức lao động cũng như chất lượng cuộc sống con người trên toàn thế giới. Mỗi cuộc cách mạng công nghệ được diễn ra đánh dấu sự phát triển của nhân loại. Đồng thời cũng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành công nghiệp thời trang nói chung và phát triển áo dài nói riêng. Do đó những thành tựu khoa học công nghệ và kỹ thuật có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Tác giả Nguyễn Duy Bắc cũng đã đưa ra nhận định: Thứ ba là kỹ thuật và công nghệ mới. Đây là một yếu tố cơ bản trong sự biến đổi văn hóa… Nhờ quá trình vận dụng tiến bộ kỹ thuật và khoa học công nghệ trong sản xuất, trong vận chuyển cũng như trong truyền thông… đã góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Trong cuộc sống, kỹ thuật công nghệ mới góp phần là thay đổi nhận thức và quan hệ xã hội giữa các cá nhân, như kỹ thuật thông tin đại chúng đóng một vai trò đáng kể trong việc biến đổi văn hóa hiện nay [45, tr 115]. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Tạo nên một kỷ nguyên mới trong các ngành sản xuất. Đó là việc phát minh ra động cơ hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Ngành công nghiệp dệt đã phát triển nhanh chóng (năm 1764 khi người thợ dệt Giem Hacgivo phát minh ra máy kéo sợi và kỹ sư Etmon Cacraito sáng chế ra máy dệt đưa năng xuất lên 39 lần), giảm thiểu được sức người trong sản xuất. Ngoài ra còn tạo nên những sản phẩm dệt chất lượng hơn cũng như tăng năng xuất.

111

Cuộc cách mạng lần thứ nhất này là bước khởi đầu cho những phát minh khoa học quan trọng, mặc dù còn chưa tác động trực tiếp đến sự phát triển của áo dài. Nhưng lại chính là tiền đề phát triển ngành dệt vải – một nguyên liệu quan trọng trong thiết kế áo dài. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai bắt đầu từ những năm 1850 đến đầu thế kỷ XX. Khi con người phát minh động cơ đốt trong và áp dụng vào sản xuất quy mô lớn. Tăng nhanh cả về sản lượng cũng như chất lượng và quan trọng hơn nữa khi họ đã dệt được những loại vải có khổ rộng, tạo sự thuận lợi trong việc thiết kế trang phục. Loại vải khổ rộng ra đời đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của áo dài tân thời, từ một kiểu áo dài năm thân được may ghép từ khổ vải hẹp chuyển sang áo dài hai thân may bằng vải khổ rộng. Họa sỹ Nguyễn Cát Tường đã biết vận dụng khai thác những thành tựu khoa học – sử dụng những loại vải khổ lớn để thiết kế may tạo nên những tấm áo dài tân thời. Đó là một dấu ấn quan trọng, là tiền đề phát triển trong nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại ngày nay. Ngoài ra việc áp dụng phương pháp thiết kế, công thức toán học vào thiết kế áo dài được bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, khi ông Nguyễn Cát Tường, Lê Phổ đưa vào thiết kế và đã mang lại những thành tựu đáng kể, góp phần vào công cuộc cải cách trang phục theo thời đại mới – một thời đại văn minh, mang phong cách Tây Âu. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 3 diễn ra từ đầu thập nên 1970 đến cuối thế kỷ XX. Đây là cuộc cách mạng số, truyền hình và internet. Ngoài những phát triển khoa học về công nghệ dệt vải như tạo nên sự đa dạng về chất liệu vải, màu sắc và họa tiết hoa văn phong phú, cũng như những nguyên phụ liệu quan trọng trong ngành thời trang… Cuộc cách mạng khoa học lần thứ 3 này còn tác động mạnh mẽ đến ngành công nghiệp thời trang như tạo nên sự lan tỏa các mẫu thời trang mới đến nhiều vùng miền, quốc gia khác nhau thông qua truyền hình và internet… Sự phát triển lan tỏa những mẫu thời trang mới,

112

áo dài mới ngày càng mạnh mẽ hơn khi mọi cá nhân trong xã hội cũng có thể tự tạo ra những nội dung quảng bá sản phẩm, quan điểm thẩm mỹ … của mình thông qua mạng xã hội. Bởi ai cũng có thể tham gia vào truyền tải, chia sẻ những thông tin nhờ vào công nghệ số - một sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra trên thế giới. Về vấn đề này tác giả Lương Văn Kế nhấn mạnh: … người ta nói đến kỷ nguyên hậu kỳ của hậu hiện đại về văn hóa mà đặc trưng cơ bản nhất là sự cá nhân hóa cao độ trong lối sống, trong nhận thức, trong hành vi hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Dường như mỗi cá nhân đều có cơ hội tự mình vừa là độc giả, vừa là nhà văn, nhà báo và nhà phê bình; vừa là khán giả vừa là diễn viên của sân chơi văn hóa với sự giúp đỡ của các phương tiện máy tính cá nhân, điện thoại di động đa năng đủ loại và các hệ thống mạng toàn cầu [31]. Tác giả cũng cho rằng trong loại văn hóa: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đều có khả năng toàn cầu hóa. Tuy nhiên văn hóa phi vật thể như hệ giá trị, niềm tin tôn giáo, tư duy nghệ thuật và lối sống… dù lan truyền chậm chạp nhưng bao giờ cũng có sức sống lâu bền. Vì chúng là thành tố có tính chất tinh thần của con người, được tiếp nhận thông qua giáo dục, truyền từ đời này sang đời khác. Trong những yếu tố văn hóa phi vật thể đó có yếu tố văn hóa có tính phổ cập nhanh, mang tính đại chúng và hiệu quả cho phát triển kinh tế xã hội được lan truyền nhanh nhất như: trang phục, sản phẩm công nghệ, ẩm thực… Như vậy, rõ ràng thấy rằng trong xã hội ngày nay mọi người đều có khả năng tạo nên sự lan tỏa những quan điểm thẩm mỹ trong văn hóa mặc của mình. Điều này cũng có tính chất hai mặt của nó, công nghệ số vừa giúp lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp một cách nhanh chóng nhưng đồng thời nếu

113 những thông tin văn hóa ấy không tốt, thiếu lành mạnh… không được kiểm duyệt mà được lan tỏa thì quả thật đáng lo ngại. Tuy nhiên không thể phủ nhận những thành tựu quan trọng của những cuộc cách mạng công nghiệp như sự phát triển ngành giao thông, điện tử… tạo ra những phương tiện như máy ảnh, vô tuyến, radio, tạp chí… internet, truyền hình số đã góp phần quảng bá, tuyên truyền, lan tỏa các kiểu mẫu áo dài mới tới các vùng, miền, quốc gia. Những công nghệ này đã làm rút ngắn khoảng cách văn hóa mặc của con người trong xã hội. Ngoài ra còn phải kể đến sự phát triển trong ngành hóa học đã tạo những hóa chất trong quá trình nhuộm màu vải. Hay những công thức toán học đã giúp con người vận dụng vào thiết kế trang phục dựa trên chỉ số đo của cơ thể người. Như vậy những phát minh mới trong các cuộc cách mạng công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật thiết kế áo dài. Và còn góp phần tạo sự lan tỏa những phong cách thiết kế áo dài mới cũng như những giá trị thẩm mỹ mới trong nước và quốc tế. Với sự phát triển của khoa học công nghệ - kỹ thuật ngày nay, đã tác động lớn đến sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài. Công nghệ dệt vải phát triển không những về chất lượng còn đa dạng về chủng loại như ngoài một số loại vải truyền thống còn xuất hiện một số loại mới đang thịnh hành trên thị trường: vải voan mỏng xuyên thấu, vải ren, vải lưới... Các kỹ thuật nhuộm, in màu cũng ngày càng phong phú. Đặc biệt là các kỹ thuật tạo hiệu ứng chất cảm trên bề mặt vải hết sức đa dạng như kỹ thuật dập vải nhăn, tạo độ xốp, độ lì, bóng và kỹ thuật đục thủng bề mặt vải tạo họa tiết hoa văn bằng công nghệ laze… Những công nghệ và kỹ thuật mới này đều đã được các nhà thiết kế thời trang áp dụng vào thiết kế áo dài ở những kỳ Festival áo dài của những năm gần đây, như thiết kế áo dài của Đức Hùng, Minh Hạnh, Sĩ Hoàng…

114

2.3.3. Yếu tố giao thoa các nền văn hóa Giao thoa giữa các nền văn hóa có vai trò quan trọng trong phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Trong nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII cũng khẳng định: “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ” [12]. Trong quá khứ nước ta đã bao lần tiếp xúc, giao lưu văn hóa với các dân tộc, quốc gia khác trên thế giới, dù dưới nhiều hình thức, ép buộc hay tự nguyện thì mỗi lần tiếp xúc đó đã để lại dấu ấn quan trọng trong sự phát triển văn hóa dân tộc. Chẳng phải khi tiếp xúc văn hóa của Trung Hoa, nhất là khi chúa Nguyễn Phúc Khoát đã ép buộc dân ta phải mặc trang phục giống với người Mãn Hán - kiểu “quần chân áo chít”, cũng chính sự tiếp xúc đó mà trong văn hóa mặc dân tộc đã hình thành một kiểu dáng trang phục mới - dáng áo dài năm thân đó sao. Kiểu áo dài năm thân được nhân dân ta biến đổi trong cách mặc, tạo hình màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí phù hợp với thói quen, môi trường, văn hóa tín ngưỡng… Để từ đó chiếc áo dài năm thân trở thành một sản phẩm của văn hóa mặc dân tộc. Đến đầu thế kỷ XX, lại một lần nữa xảy ra quá trình giao lưu văn hóa với người Phương Tây. Đây là thời kỳ quan trọng trong việc hình thành văn hóa Việt Nam hiện đại. Bởi sự giao lưu văn hóa ở giai đoạn này đã tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, và đặc biệt tác động mạnh đến văn hóa mặc của người Việt. Như sự hình thành áo dài tân thời của phụ nữ cũng như cách mặc âu phục của nam giới. Việc hình thành áo dài tân thời hai tà đã chứng minh về sự giao lưu áp dụng những khoa học kỹ thuật của Phương Tây như công nghệ dệt vải khổ rộng, tạo màu sắc cho vải, những kỹ thuật tạo trang trí trên vải và trang phục.

115

Ngoài ra những trào lưu nghệ thuật, phong trào trên thế giới ở thế kỷ XX cũng tác động đến thiết kế áo dài hiện đại. Như trào lưu nghệ thuật trang trí (Art deco), nghệ thuật tối giản (Minimalism), kiểu trang phục chữ A, phong trào Miniskirt, phong trào Hippy. Những trào lưu, phong cách nghệ thuật đã tác động đến thiết kế áo dài từ những năm 1930 đến nay (năm 2017). Điển hình trào lưu nghệ thuật trang trí - Art deco ra đời những năm 1920 -1930 ở Phương Tây. Trào lưu này đã tác động sâu rộng tới các lĩnh vực mỹ thuật như hội họa, kiến trúc, thời trang. Nhà thiết kế Paul Poiret (người Pháp) là người đầu tiên đưa nghệ thuật trang trí vào trang phục với những mô típ hoa văn có màu sắc và đường nét tạo hình, sắp đặt sinh động, biến những bộ trang phục trở thành tác phẩm nghệ thuật. Ngày nay nghệ thuật trang trí đã trở thành nhân tố quan trọng trong thiết kế, là ngôn ngữ thể hiện ý tưởng sáng tạo của các NTK áo dài. Giao thoa văn hóa đã trở thành đề tài và ý tưởng nghiên cứu trong sáng tạo thiết kế áo dài hiện đại. Từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, sự độc đáo của các nền văn hóa khác trong và ngoài nước đã được các NTK hiện thực hóa trên các bộ sưu tập áo dài dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ sự giao thoa trong sử dụng chất liệu vải, họa tiết hoa văn, màu sắc… cho đến những kỹ thuật thiết kế cũng được các NTK thể hiện thành công. Điển hình có NTK Minh Hạnh, NTK được nhiều giải thưởng lớn trên thế giới, như năm 2006 NTK được phong tặng “Hiệp sĩ Nghệ thuật và Văn chương” do Bộ trưởng Văn hóa và Thông tin Pháp trao tặng. NTK là người đầu tiên sáng tạo dựa trên nghệ thuật trang trí hoa văn, màu sắc thổ cẩm lên thiết kế áo dài từ những năm 1990 [PL 4, H.4.9.a, tr 221]. Những ý tưởng giao thoa văn hóa thổ cẩm của dân tộc thiểu số ấy không chỉ có Minh Hạnh mà đã rất nhiều NTK khác khai thác thành công, phải kể đến các NTK như: Lan Hương thiết kế áo dài lấy ý tưởng từ thổ cẩm của dân tộc Dao (năm 2011) [PL 4, H.4.9.b, tr 221]; Việt Hùng lấy ý tưởng từ hoa văn trang trí trên khăn Piêu của người Thái (năm 2014) [PL 4, H.4.11, tr 222]; Vũ Việt

116

Hà thiết kế 2 bộ sưu tập lấy ý tưởng từ nghệ thuật trang trí của dân tộc vùng Tây Bắc và của tộc người H’Mông năm 2017 [PL 4, H.4.13 và H.4.14, tr 223].

Sơ đồ 5. Những dấu ấn về tiếp biến trong thiết kế áo dài [NCS vẽ] Tiểu kết Nội dung chương 2 của luận án đề cập đến vấn đề quan trọng như: Thiết kế áo dài từ năm 1930 đến 2017; Những tiếp thu, biến đổi nghệ thuật thiết kế và phân tích những yếu tố tác động đến thiết kế áo dài . Đây là nội dung nghiên cứu quan trọng, cho thấy nghệ thuật thiết kế áo dài được phát triển những yếu

117 tố nội sinh như từ kỹ thuật dệt vải khổ nhỏ, cho đến môi trường, khí hậu đã hình thành thẩm mỹ trong văn hóa mặc áo tứ thân, năm thân giao lãnh. Những yếu tố này khi bị tác động của những yếu tố ngoại sinh như khoa học kỹ thuật trong công nghệ dệt, tạo màu và phương pháp thiết kế đã dần biến đổi hình thành nên những mẫu áo dài kết cấu hai tà. Màu sắc không chỉ là những màu gắn với thiên nhiên, đồng ruộng mà đã có nhiều bảng màu mới biểu thị theo tông, gam và sắc độ. Đặc biệt quan điểm thẩm mỹ trong thiết kế áo dài cũng dần thay đổi, trên áo dài xuất hiện khá nhiều những thủ pháp nghệ thuật như nghệ thuật phối màu, nghệ thuật trang trí… Qua 2 giai đoạn từ những năm 1930 đến năm 1980 và từ sau năm 1980 đến năm 2017 cho thấy mỗi giai đoạn có những tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài khác nhau, gắn liền với sự thay đổi trong thị hiếu thấm mỹ của phụ nữ trong xã hội. Giai đoạn từ năm 1930 - 1980 nghệ thuật thiết kế áo dài đã tiếp thu 4 yếu tố, đó là quan điểm thẩm mỹ, tạo hình mỹ thuật từ những trào lưu nghệ thuật; phương pháp thiết kế và kiến thức khoa học giải phẫu vào thiết kế bản vẽ áo dài; lý thuyết khoa học màu sắc; những thành tựu của khoa học công nghệ dệt và nhuộm màu vải. Những tiếp thu quan trọng này đã được các nghệ nhân, thợ may và NTK vận dụng làm biến đổi tạo hình các yếu tố màu sắc, hình dáng, kết cầu, chất liệu… tạo nên diện mạo mới cho áo dài. Diện mạo mới của áo dài đã làm thay đổi tư duy, thẩm mỹ của phụ nữ Việt ở một số thành phố lớn và tạo nên một dấu ấn quan trọng thiết kế áo dài. Giai đoạn hai từ sau năm 1980 đến năm 2017 đã có những tiếp thu và biến đổi mạnh mẽ trong nghệ thuật thiết kế áo dài. Đó là những tiếp thu phong trào, xu hướng nghệ thuật; thành tựu khoa học công nghệ và kỹ thuật (các chất liệu vải mới có độ bền, đẹp, hay các kỹ thuật trang trí trên vải như in hoa văn, thêu máy…). Đặc biệt ở giai đoạn này, các NTK đã có những kiến thức mỹ

118 thuật cơ bản, kiến thức chuyên ngành thiết kế thời trang, cùng với nhận thức về thẩm mỹ… do đó thiết kế áo dài đã hình thành những qui chuẩn và mang tính chuyên nghiệp. Họ không còn thiết kế áo dài đơn lẻ như trước mà thiết kế theo một qui trình, phương pháp cụ thể và có những qui chuẩn mang tính đặc thù. Nghệ thuật thiết kế áo dài từ những năm 1930 đến năm 2017 đã bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong đó nổi bật 3 yếu tố chính đó là yếu tố chính trị xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, kỹ thuật và yếu tố giao thoa văn hóa. Mỗi yếu tố có vai trò tác động khác nhau để tạo nên những thành tựu nhất định trong thiết kế áo dài. Tuy nhiên, qua nội dung nghiên cứu trên cho thấy yếu tố khoa học công nghệ và kỹ thuật đã tác động rất lớn tới nghệ thuật thiết kế, bởi những kỹ thuật dệt, nhuộm màu vải hay công nghệ in, kỹ thuật trang trí đã góp phần tạo nên những giá trị nghệ thuật trong thiết kế áo dài hiện đại. Như vậy với nội dung ở chương 2, NCS đã trình bày đặc điểm thiết kế áo dài và tiếp thu – biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài. Nội dung chương đã chỉ ra những nỗ lực học hỏi của người làm thiết kế áo dài ở nhiều thế hệ, họ đã tiếp thu những tinh hoa của nhân loại để đưa vào thiết kế áo dài. Cũng từ đó tạo nên những qui chuẩn về hình dáng, màu sắc, chất liệu vải, trang trí và đặc biệt qui chuẩn về kỹ thuật thiết kế, may… Đặc biệt những tiếp thu – biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài đó vừa phù hợp với văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ dân tộc. Đồng thời thiết kế áo dài bắt kịp được với những xu hướng thời trang trên thế giới.

119

Chương 3 LUẬN BÀN VỀ TIẾP BIẾN TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI CỦA PHỤ NỮ VIỆT 3.1. Tư duy và thẩm mỹ trong nghệ thuật thiết kế áo dài 3.1.1. Tư duy thiết kế áo dài Qua phân tích đặc điểm thiết kế áo dài ở 2 giai đoạn từ năm 1930 đến 1980 và từ sau năm 1980 đến năm 2017, NCS nhận thấy tư duy thiết kế của các NTK, nghệ nhân đã có nhiều thay đổi, do sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: Bối cảnh chính trị xã hội, chính sách mở cửa, hội nhập giao thoa văn hóa, hay sự phát triển của khoa học công nghệ và kỹ thuật… Chính những yếu tố này đã tác động mạnh đến tư duy, trình độ văn hóa, thẩm mỹ của con người trong xã hội, đặc biệt tác động đến những người trực tiếp sáng tạo, thiết kế áo dài. Sự thay đổi về tư duy thiết kế được thể hiện ở các yếu tố chính như: Ý tưởng thiết kế; những giải pháp hiện thực hóa ý tưởng; nguyên tắc thiết kế. Chính những tư duy này đã góp phần tạo nên dấu ấn riêng cho các nhà thiết kế trong xã hội, khi mà ngành công nghiệp thời trang đang đà phát triển và sôi động như những thập niên qua. 3.1.1.1. Ý tưởng thiết kế Ý tưởng có vai trò quan trọng trong sáng tạo mỹ thuật nói chung và thời trang nói riêng. Đặc biệt là trong thiết kế áo dài. Ý tưởng chính là những nội dung nghiên cứu, nhằm sáng tạo nên những sản phẩm có giá trị về thẩm mỹ và công năng. Hay nói cách khác, ý tưởng thiết kế cần phải có sự thống nhất về nội dung và hình thức. Vì thế trong thiết kế áo dài, các nhà thiết kế đã đặc biệt chú ý đến ý tưởng thiết kế. Ý tưởng được thể hiện thông qua các yếu tố tạo hình nhằm làm nổi bật được chủ đích của mỗi bộ áo dài. Áo dài có hình dáng (hình thang kéo dài) và kết cấu (xẻ 2 tà ở điểm eo) khá đặc trưng, để không làm mất

120

đi những đặc trưng đó, người thiết kế đã khai thác những yếu tố như màu sắc, chất liệu vải, tính trang trí (sử dụng đường nét và mảng hình)… hợp lý nhằm làm tôn nên nội dung của ý tưởng thiết kế. Giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017 thấy xuất hiện nhiều ý tưởng mới trong thiết kế áo dài. Những hình ảnh thường bắt gặp trở thành ý tưởng thiết kế như: Hoa lá trong thiên nhiên; Tranh dân gian; Thổ cẩm; Hoa văn hình học… Từ những hình ảnh, mỗi người thiết kế lại tìm cho mình những cảm hứng riêng. Như vậy, người thiết kế có thể khai thác ý tưởng nhằm tạo nên giá trị mới trên nền của cái cũ. Ý tưởng về tranh dân gian Đông Hồ, nghệ nhân Lan Hương có cảm hứng về những nhân vật như em bé, chú Gà Trống, con Trâu, cá Chép [PL 4, H.4.1, tr 217]. Mỗi nhân vật được nghệ nhân sắp đặt trên tà áo dài theo bố cục tự do và dùng những gam màu nổi bật như màu xanh, màu hồng, màu đỏ, màu đen đặt trên nền là gam màu vàng đồng và nâu đất. Với ý tưởng này, Lan Hương vẫn giữ hình dáng và kết cấu đặc trưng của áo dài, tách những nhân vật trong tranh Đông Hồ làm họa tiết trang trí tạo điểm nhấn cho mẫu thiết kế. Tuy tông màu chủ đạo là tông trầm, nhưng sự khôn khéo của người thiết kế đã dùng chính màu sắc rực rỡ của họa tiết hoa văn để tạo nên sự thu hút thị giác. Đây chính là điểm nhấn mang lại giá trị nghệ thuật cho bộ áo dài. Cùng ý tưởng đó, NTK Ngọc Hân lại có cảm hứng ở góc nhìn khác của tranh. Đó là những hình ảnh về hoa lá thiên nhiên và những con chim công xòe lông khoe sắc. Bộ sưu tập có những gam màu xanh và trắng làm chủ đạo, đôi lúc lại được điểm xuyết những sắc đỏ, vàng mang đậm phong cách của dòng tranh Đông Hồ [PL 4, H.4.3, tr 218]. Điểm nổi bật về ý tưởng của bộ sưu tập được thể hiện qua màu sắc và họa tiết hoa văn. Đặc biệt, NTK đã khôn khéo dùng màu trắng làm màu nền của áo, và dùng chính gam màu xanh của họa tiết để sắp đặt kéo ra phần tay áo, tạo nên những mảng màu lớn. Các chi tiết như

121 những nhánh cây, chùm hoa và lá được mô phỏng bằng đường nét và mảng hình lớn nhỏ khác nhau. Tất cả hài hòa với nhau theo từng nhịp điệu, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật mới. Như vậy, những mẫu áo đều có hình dáng và kết cấu đặc trưng như áo cổ đứng ôm khít, tay raglan và tà dài rộng. Bộ sưu tập gây ấn tượng bởi gam màu, phối màu cũng như sắp đặt họa tiết hoa văn, nó thể hiện thẩm mỹ tinh tế, tạo nên diện mạo mới cho áo dài mang đậm giá trị nghệ thuật. Thông qua ý tưởng, người thiết kế còn thể hiện những ngụ ý về thông điệp của cuộc sống hay những triết lý nhân sinh. Điển hình có ý tưởng thiết kế áo dài trong Bộ sưu tập “Quốc hoa” của NTK Sĩ Hoàng [PL4, H.4.34, tr 233]. Ý tưởng thiết kế của BST được NTK thể hiện triết lý nhân sinh, thông điệp về giá trị sinh diệt của cuộc sống. Đó là sự vươn lên, một sức sống mãnh liệt của loài hoa Sen, được sinh từ bùn đất, sống qua tầng nước và vươn lên tỏa sắc trên mặt nước, mang đến cho đời một màu sắc tươi mới. Do đó trong bộ sưu tập áo dài, NTK không sử dụng quá nhiều kỹ thuật, phương pháp tạo hình trong thiết kế. Bộ sưu tập hướng tới nghệ thuật trang trí trên phom dáng áo truyền thống chiết eo, tay raglan. Điểm nhấn của các mẫu thiết kế là kỹ thuật vẽ tạo họa tiết lấy hình ảnh các trạng thái khác nhau của loài hoa Sen. Mỗi trạng thái, NTK chú ý đến hình dáng, màu sắc, sự tương quan ánh sáng của các đối tượng như cành, lá, hoa Sen tạo nên một bức tranh sinh động, có không gian và gợi cảm như chúng đang chuyển động đua nhau khoe sắc. NTK miêu tả hoa Sen bằng những gam màu, sắc độ khác nhau gợi nên không gian 3 chiều theo quy luật xa gần, quy luật ánh sáng. Những bông hoa có màu sáng, được gợi tả chi tiết cho cảm giác chúng ở phía trước, cành và lá có màu trầm, đậm hay không rõ các đường nét chi tiết lại cho cảm giác chúng ở phía sau xa hơn. Mỗi mẫu thiết kế thể hiện sự tương đồng trong màu sắc, màu chính của áo có vai trò làm màu nền tôn nhóm họa tiết ở phần tà áo. Bố cục của họa tiết được đặt phần tà dưới, có xu hướng phát triển vươn lên qua eo tới phần ngực áo gợi cảm như chúng

122 muốn hướng lên và tôn vinh khuôn mặt của người phụ nữ. Như vậy dù không sử dụng quá nhiều các thủ pháp tạo hình trong thiết kế bộ sưu tập Quốc hoa, nhưng với tư duy tạo hình miêu tả về cuộc sống của loài hoa sen trên tà áo dài như một bức tranh và mang thông điệp, ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống đã tạo nên giá trị văn hóa và thẩm mỹ cho những mẫu thiết kế áo dài của Sĩ Hoàng. Thông qua ý tưởng thiết kế, các NTK còn thể hiện một tinh thần gắn kết, hữu nghị. Như những ý tưởng về hoa văn thổ cẩm của các tộc người thiểu số, hay những giao thoa văn hóa của các quốc gia trên thế giới thông qua những yếu tố tạo hình thiết kế. Để đạt được ý tưởng giao thoa văn hóa trên áo dài, các NTK đã có nghiên cứu sử dụng những yếu tố tạo hình thiết kế hợp lý giữa yếu tố bản địa và yếu tố ngoại lai. Điển hình là mẫu áo dài do Trần Văn Trung thiết kế [PL 4, H.4.21.a, tr 227]. Mẫu áo đang được trưng bày tại Bảo tàng Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh ở quận Nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Ý tưởng thiết kế là sự giao thoa văn hóa trang phục của 2 quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc. NTK đã chắt lọc những yếu tố tạo hình có giá trị đặc trưng của 2 loại trang phục là áo dài và nhằm tạo nên mẫu thiết kế có giá trị về cả nội dung và hình thức cũng như nêu bật được ý tưởng thiết kế. Với áo dài, yếu tố đặc trưng như dáng hình thang kéo dài và kết cấu xẻ 2 tà ở điểm eo được NTK lưu giữ. Với trang phục Hanbok có nhiều đặc trưng trong văn hóa mặc của người Hàn Quốc, nhưng NTK đã lựa chọn đặc trưng là áo thường được mặc lồng lớp ngoài là áo có chất liệu vải mỏng mềm, và có thể nhìn thấu sắc màu của lớp áo bên trong. Do đó NTK đã lựa chọn yếu tố chất liệu vải mỏng để gợi nên tạo hình của áo Hanbok. Chất liệu vải mỏng mềm có màu trắng được phủ bên ngoài lớp áo lụa màu cam bên trong, tạo lên sự dung hòa màu sắc. Ngoài ra NTK còn chú ý đến kết cấu cổ áo chữ V trong trang phục Hanbok, và được anh khéo léo xử lý bằng cách tạo kết cấu áo dài có viền nẹp chữ V, gợi cảm giác như 2 lớp cổ của 2 áo mặc lồng nhau. Những yếu tố trên kết hợp cùng họa

123 tiết trang trí được sắp đặt với bố cục tự do tạo nên tính thẩm mỹ cho áo dài. Sự kéo léo lựa chọn yếu tố tạo hình của 2 loại trang phục, kết hợp hài hòa với nhau để tạo nên mẫu áo dài mang đậm phong cách Hanbok. Đồng thời vẫn không làm mất đi những tạo hình đặc trưng của áo dài. Sự sáng tạo đó đã thỏa mãn được yếu tố thẩm mỹ cũng như tinh thần giao thoa văn hóa trang phục của ý tưởng thiết kế ban đầu. Như vậy, ý tưởng thiết kế là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ thuật thiết kế áo dài ngày nay. Nó thể hiện một tư duy, trình độ văn hóa và thẩm mỹ trong thiết kế áo dài của người làm thiết kế. Thông qua ý tưởng, người thiết kế thể hiện những sáng tạo, quan điểm cá nhân trong tạo hình. Hay nói cách khác, ý tưởng thiết kế chính là cơ sở khoa học trong sáng tạo, thiết kế áo dài. Từ đó tạo nên những dấu ấn cá nhân qua mỗi tác phẩm áo dài. 3.1.1.2. Những giải pháp hiện thực hóa ý tưởng Hiện thực hóa ý tưởng thiết kế là một công việc không hề đơn giản, bởi khi có ý tưởng hay mà thực hiện chưa tốt sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn, hay còn gây phản cảm về thẩm mỹ. Do đó, việc nghiên cứu đưa ra những giải pháp hiện thực hóa ý tưởng đã được người thiết kế quan tâm, và còn trở thành phong cách hay bí quyết của từng người thiết kế. Giải pháp hiện thực hóa ý tưởng thiết kế thực chất chính là sự sáng tạo kết hợp với kỹ thuật nhằm tạo nên hiệu ứng thị giác mang lại thẩm mỹ cho sản phẩm. Vậy có 2 nhóm kỹ thuật ứng dụng vào thiết kế áo dài sau: - Thứ nhất: Kỹ thuật xử lý bề mặt tạo chất cảm trên vải - Thứ hai: Kỹ thuật tạo phom dáng và kết cấu áo dài (những phương thức, kỹ thuật trong thiết kế bản vẽ, cắt và may áo dài). Mỗi giải pháp trên đều được người thiết kế quan tâm nghiên cứu thực hiện trên áo dài. Tuy nhiên không phải là họ nhất loạt thực hiện giống nhau trên

124 các bộ áo dài, mà tùy từng ý tưởng lại lựa chọn giải pháp thiết kế phù hợp tạo thẩm mỹ và sự độc đáo. Kỹ thuật xử lý bề mặt tạo chất cảm trên vải là yếu tố được các nhà thiết kế quan tâm nghiên cứu khi sáng tạo những sản phẩm áo dài. Chất cảm trên bề mặt vải thực chất được tạo nên từ những phương thức, kỹ thuật, được áp dụng trên mặt vải nhằm thay đổi bề mặt ban đầu. Như các kỹ thuật tạo sóng, đánh dún bèo, xếp ly, chắp ghép, đính kết, vẽ, in, thêu… mỗi phương thức đều cho hiệu quả thẩm mỹ khác nhau. Chính vì vậy, người thiết kế đã có những nghiên cứu lựa chọn phương thức phù hợp với ý tưởng thiết kế, nhằm tạo nên hiệu quả thẩm mỹ cho mẫu áo dài. Ta có thể thấy mẫu áo dài của Ngân An thiết kế sử dụng trang trí chắp ghép bằng những mảnh vải cắt nhỏ, những mảnh vải nhỏ có mục đích chuyển sắc độ màu tạo hiệu ứng 3D sinh động ở phần lông công [PL 4, H.4.38.c, tr 236]. Hay nghệ nhân Lan Hương lại hứng thú với kỹ thuật thêu thủ công trên áo dài [PL 4, H.4.29, tr 231], Ngọc Hân, NTK Đức Hải lại lựa chọn kỹ thuật in hiện đại tạo hiệu ứng thị giác [PL 4, H.4.18, tr 225], Minh Hạnh rất say mê với kỹ thuật chắp ghép trong thiết kế mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm [PL 4, H.4.10, tr 221]… Tất cả những lựa chọn giải pháp của mỗi người thiết kế với mong muốn thể hiện được tinh thần, thông điệp của từng ý tưởng thiết kế, đem lại giá trị nghệ thuật cho từng sản phẩm áo dài. Kỹ thuật tạo phom dáng và kết cấu áo dài: là yếu tố khá quan trọng trong quá trình tạo ra một sản phẩm áo dài hoàn chỉnh, nó còn được coi là bí quyết của những nhà may, nghệ nhân, NTK lâu năm. Vai trò của nhóm kỹ thuật này được coi là sự gắn kết giữa áo dài với cơ thể người mặc. Có nghĩa, một chiếc áo dài hoàn hảo là chiếc áo đó có phom dáng tôn vinh được vóc dáng của người mặc, đồng thời xử lý những đường kết cấu che đi những khuyết điểm của cơ thể. Từ đường kim, mũi chỉ được áp dụng hợp lý góp phần tạo thẩm mỹ chung cho áo dài.

125

Để diễn tả được ý tưởng sáng tạo, người thiết kế thường kết hợp linh hoạt những giải pháp kỹ thuật xử lý bề mặt vải tạo chất cảm và kỹ thuật tạo phom dáng trên mỗi bộ áo dài. Điển hình có nghệ nhân Lan Hương nổi tiếng với việc đưa kỹ thuật thêu thủ công trên lụa Việt tạo nên những mẫu họa tiết trang trí sinh động và có giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, mỗi ý tưởng thiết kế mà nghệ nhân lại lựa chọn những giải pháp khác nhau tạo nên sự đa dạng và mới lạ cho mẫu áo dài, như bộ sưu tập “Hương sắc Việt” [PL4, H.4.17, tr 225] được giới thiệu với công chúng trong chương trình “Duyên dáng Việt Nam” ở Bắc Kinh, Trung Quốc (13/09/2016). Đây là bộ sưu tập được NTK sử dụng kết hợp các yếu tố tạo hình như màu sắc, họa tiết, chất liệu vải… bằng những thủ pháp nghệ thuật tạo sự đối lập như về màu sắc: Đối lập màu xanh với đen, đỏ với đen; về chất liệu: Đối lập chất liệu dày với mỏng, cứng với mềm. Mẫu H. a (mẫu ảnh đầu tiên bên trái), NTK sử dụng sự đối lập tông màu đỏ với đen tạo nên mảnh kết cấu phần tà áo. Để dung hòa giữa 2 tông màu đỏ và đen, là những họa tiết có tông đỏ chuyển độ sáng dần được đặt trên nền đen, cách đặt này vừa có ý tưởng kéo màu nhưng đồng thời NTK đã sử dụng màu đen như màu nền làm nổi bật những tạo hình trang trí và kỹ thuật thêu thủ công. Mẫu thiết kế tuy không quá nhiều chi tiết nhưng lại tạo nên hiệu quả nhất định về thẩm mỹ. Mẫu H. b, c, d của BST lại được NTK chú trọng đến tạo hình bề mặt, đó là sự sắp đặt những dây vải trang trí tạo đường kết cấu của áo cũng như mục đích làm điểm nhấn. Kết hợp với những kỹ thuật thêu tay thủ công tạo nên những hoa văn đan xen với những mảng hình trang trí bằng đặt dây vải. Mỗi mẫu thiết kế là có điểm nhấn và những sáng tạo khác nhau. Như mẫu H.b điểm nhấn hướng tới phần tà áo (từ đường cắt ngang eo xuống gấu), được đặt dây trang trí màu đỏ và những hình họa tiết trên nền đen của chất liệu vải voan mỏng, mềm. Phía thân trên là màu đỏ của vải tơ tằm phối ghép với chất liệu

126 voan mỏng màu đen, cũng giống như phối màu của mẫu H.a, là trên nền đen được NTK phối với màu đỏ với các sắc độ khác nhau nhằm tạo nên sự nổi bật của những họa tiết. Do vải voan mỏng và mềm nên có thể nhìn xuyên thấu được hình và tông màu của quần dài phía trong. Cách tạo hình này cũng là một trong những xu hướng thời trang trên thế giới của thập niên gần đây. Mẫu H.c và d, được phối màu xanh, màu vàng với màu đen, vai trò của màu đen được phát huy như những mẫu thiết kế a, b. Tuy nhiên b mẫu c, d lại được NTK dùng dây vải có tỷ lệ, kích thước khác nhau sắp đặt tạo nên nhịp điệu và kết cấu thân trên của áo. Mẫu thiết kế có bố cục cân đối được tạo từ kiểu tay raglan, những mảng hình, mô típ trang trí được lặp đi lặp lại ở phần vai và tay áo. Tạo hình này vừa tạo nên sự cân bằng thị giác nhưng vẫn tạo được điểm nhất ấn tượng từ những bông hoa thêu đính nổi trên mặt vải được đặt ở các vị trí trung tâm của thân áo trước và tay áo. Những mẫu áo trong bộ sưu tập của Lan Hương đề cao tính trang trí, sử dụng nhiều các kỹ thuật đặt dây vải, thêu, ghép và đính kết… nhưng không làm mất đi hình dáng chuẩn mực của áo dài. Tông màu cũng là điểm nhấn quan trọng của bộ sưu tập, tuy NTK dùng màu đỏ, vàng, xanh cốm nhưng lại được pha phối với màu đen, tạo nên một điểm nhấn quan trọng, bởi nó vừa có vai trò cân bằng thị giác, vừa làm màu nền tôn những gam màu tươi sáng xung quanh. Cách phối màu này được thống nhất xuyên suốt toàn bộ sưu tập. 3.1.1.3. Những nguyên tắc thiết kế Nguyên tắc thiết kế là những bước thực hiện trong quá trình sáng tác bộ sưu tập áo dài. Nguyên tắc được áp dụng trên các yếu tố hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và trang trí. Nó giúp người thiết kế có khả năng tiết chế sử dụng những yếu tố tạo hình. Như trên cùng bộ áo dài không nên dùng quá 3 màu, hay việc sử dụng đường kẻ cần có những đường to nhỏ đan xen, tránh gây cảm giác đơn điệu.

127

Việc áp dụng nguyên tắc thiết kế vào thiết kế áo dài đã được người thiết kế nâng nên thành “nghệ thuật thiết kế”. Vậy “nghệ thuật thiết kế” được tạo nên từ chính những yếu tố tạo hình như hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và trang trí. Tuy nhiên để đạt mức độ nghệ thuật đến đâu còn phụ thuộc vào tư duy sáng tạo của từng nhà thiết kế. Họ là những người khai thác, sáng tạo, tiết chế những yếu tố tạo hình đó sao cho vừa tới tầm nghệ thuật, nhưng không làm mất đi giá trị ứng dụng của áo dài trong đời sống đương đại. Ngày nay, các NTK, nghệ nhân, người thợ may tìm kiếm chất liệu sáng tác mới và thử nghiệm bằng nhiều kỹ thuật, phương thức khác nhau, nhằm sáng tạo áo dài không chỉ còn chức năng thông thường mà hướng tới giá trị nghệ thuật, biểu đạt sự tự do mang tính cách mạng từ tư tưởng bên trong con người họ. Nguyên tắc thiết kế được thể hiện bởi: Tỷ lệ, nhịp điệu, tính đối xứng, đối lập, điểm nhấn và tính hài hòa. Tỷ lệ là độ dài, chiều rộng hay chính là kích thước của những yếu tố tạo hình áo dài, chúng được xác định tạo nên hình dáng, tà áo, tay áo, cổ áo (độ rộng, sâu cổ) cũng như tỷ lệ các mảng hình, đường nét trang trí. Hay mối tương quan tỷ lệ giữa các mảng hình trang trí với khoảng trống. Đặc biệt tỷ lệ giữa các yếu tố tạo hình với tỷ lệ cơ thể, tạo nên sự hài hòa, cân đối giữa chiều cao, độ rộng cũng như các chi tiết trên áo dài với từng cơ thể người mặc. Xác định tỷ lệ áo dài còn là nguyên tắc tạo nên phong cách áo dài. Nhịp điệu là sự sắp xếp các yếu tố tạo hình như đường nét tạo kết cấu, trang trí và màu sắc. Nhịp điệu còn có chức năng tạo nên kiểu dáng mới, cũng như tạo sự chuyển động, bố cục cho trang phục. Hay nói cách khác, nhịp điệu là phương tiện tổ chức kết cấu, hình dáng trang phục. Trong sáng tác, các NTK áo dài đã khai thác nhịp điệu dưới nhiều phương thức khác nhau, như cách sắp xếp, phân chia tỷ lệ của mảng hình, đường nét, màu sắc tạo nên những nhịp không đều nhau. Hay sao chép, lặp lại hình mảng, đường nét kết cấu, họa tiết,

128 màu sắc… tạo nên cấu trúc, bố cục mới cho áo dài. Sự nắm bắt nguyên tắc tạo nhịp điệu đã giúp các NTK sáng tạo những bộ sưu tập áo dài thể hiện được tính đồng bộ trong thiết kế, đồng thời mỗi mẫu áo dài trong bộ sưu tập đó cũng tạo được nét riêng [PL4, H.4.31, tr 232]. Tính đối xứng là một trong những nguyên tắc quan trọng trong thiết kế áo dài, tính đối xứng được chia là 3 loại: Đối xứng, phi đối xứng, tỏa tròn, do đó được các NTK khai thác tạo nên bố cục trang trí sinh động. Loại phi đối xứng thường được các NTK sử dụng tạo nên trạng thái cân bằng nhưng không hoàn toàn giống nhau. Điển hình như mẫu của La Hằng thế hiện tính đối xứng [PL 4, H.4.24, tr 228], mẫu áo dài của Ngân An thiết kế thể hiện tính phi đối xứng [PL 4, H.4.38.c, tr 236]. Tính đối lập là nguyên tắc thường bắt gặp trên mẫu áo dài giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017, bởi đây là nguyên tắc tạo nên những giá trị nghệ thuật, gây kịch tính, mới mẻ, bất ngờ cho mỗi sáng tác của các NTK. Tính đối lập được người thiết kế thể hiện trên các yếu tố tạo hình như sau: Về mảng hình và đường nét có đối lập về tỷ lệ, kích cỡ như to với nhỏ; đối lập về trạng thái như cong với thẳng; đối lập về mật độ như đặc với thưa. Về chất liệu vải và hiệu ứng bề mặt có đối lập mỏng với dày; mềm với cứng; thưa với dày; sần với nhẵn... Về màu sắc có đối lập (ánh sáng) sáng với tối; đối lập sắc thái và sắc độ như xanh với đỏ, tím với vàng, đen với trắng, đậm với nhạt… Về hình khối có đối lập hình chữ nhật với hình elip trong hình dáng và kết cấu Áo dài. Hay đối lập giữa mảng phẳng với tạo hình nổi khối 3D trong trang trí. Nguyên tắc đối lập đã giúp các NTK thỏa sức thể hiện ý tưởng sáng tạo và nâng giá trị sáng tạo nên tầm nghệ thuật.

129

Về điểm nhấn là tạo ra sự thu hút thị giác, có vai trò tạo sự nổi bật ý tưởng thiết kế trên áo dài. Điểm nhấn có thể được đặt ở bất kỳ vị trí nào trên áo dài, có thể ở phần cổ áo, phần vai, ống tay hay trên vạt, tà áo… NTK sử dụng bất kỳ yếu tố tạo hình (màu sắc, đường nét kết cấu, hoa văn, chất liệu vải…) làm điểm nhấn, hay là cùng kết hợp của các yếu tố tạo sự thu hút, nổi bật của áo dài. Tuy nhiên thường thấy, đa phần các NTK sử dụng hoa văn trang trí làm điểm nhấn như BST Thiền sen [PL 4, H.4.20, tr 226] , Quốc hoa [PL 4, H.4.34, tr 233] của NTK Sĩ Hoàng… Hay sử dụng phương pháp phối màu tạo điểm nhấn như BST Hoa Lan của NTK Vũ Việt Hà [PL4, H.4.19, tr 226]. NTK Minh Hạnh thường dùng chất liệu vải thổ cẩm làm điểm nhấn xuyên suốt trong các mẫu áo dài trình diễn và triển lãm tại bảo tàng ở Pháp năm 2012 [PL4, H.4.10, tr 221]. Về tính hài hòa là nguyên tắc tạo sự hoàn chỉnh cho những sáng tạo nghệ thuật nói chung và thiết kế áo dài nói riêng. Để tạo được tính hài hòa trong thiết kế, các NTK phải có những tính toán kỹ lưỡng về tỷ lệ, kích cỡ, hình dáng, đường nét, màu sắc… sao cho những yếu tố đó tương thích được với nhau, hỗ trợ nhau tạo nên những giá trị mới, nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng, hài hòa thị giác. Như BTS Hoa Lan của NTK Vũ Việt Hà, tác giả dùng các sắc độ của gam màu xanh và vàng phối hợp với nhau tạo nên một bảng màu tươi mới, chủ đạo cho BST áo dài. Bên cạnh đó NTK có sử dụng họa tiết trang trí, nhưng chỉ có vai trò tương hỗ, do đó màu sắc không quá nổi bật. Họa tiết được sắp đặt đứng trong một tổng thể gam màu xanh vàng, tạo sự vừa mắt, hài hòa, đồng thời BST đó vẫn gây ấn tượng thị giác. Vậy trong tư duy thiết kế áo dài của những nghệ nhân, nhà may, nhà thiết kế đã thay đổi, họ đã tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật và những tư tưởng thẩm mỹ mới áp dụng vào thiết kế áo dài. Sự thay đổi đó còn gắn liền với nhu cầu, thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội đương đại. Sự kết hợp hài hòa

130 giữa nhu cầu của người tiêu dùng với tư duy, quan điểm cá nhân đã giúp người thiết kế sáng tạo những sản phẩm áo dài có giá trị ứng dụng và giá trị nghệ thuật, đồng thời mang dấu ấn cá nhân trong mỗi sản phẩm. 3.1.2. Thẩm mỹ trong thiết kế áo dài Thẩm mỹ trong thiết kế áo dài của phụ nữ Việt đã có nhiều thay đổi theo thời gian. Trong 2 giai đoạn (từ năm 1930 đến năm 1980 và từ sau năm 1980 đến năm 2017) phát triển áo dài cho thấy có nhiều biến đổi về hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải, trang trí… để trở thành những phong cách thiết kế áo dài khác nhau đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội. Thẩm mỹ thiết kế áo dài được thể hiện qua hình thức trang trí, bố cục sắp đặt, phối màu, sử dụng chất liệu… Mỗi người thiết kế có những tư duy sáng tạo khác nhau, họ sử dụng ngôn ngữ tạo hình để diễn tả ý tưởng sáng tác mang lại giá trị nghệ thuật trên mỗi sản phẩm áo dài. Thông qua ngôn ngữ tạo hình nhằm miêu tả không gian trên áo dài – không gian 3D (trên cơ thể người), chính không gian đó tác động tới thị giác gợi nên những liên tưởng về động - tĩnh, nông - sâu, lồi – lõm hay thực - ảo… mang đầy tính nghệ thuật. Có thể nói những mẫu áo dài có giá trị nghệ thuật mới tạo sự đồng điệu giữa người mặc với ý tưởng sáng tạo của người thiết kế. Quan sát những mẫu thiết kế áo dài cho thấy, thẩm mỹ trong thiết kế áo dài thiên về nghệ thuật trang trí, những ý tưởng thiết kế chủ yếu được cách điệu hóa hay tả thực thông qua nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật trang trí như tạo sự cân đối, nhịp điệu, nhắc lại, đối lập/ tương phản, điểm nhấn… nhưng lại gợi được sự cân bằng về bố cục. Nghệ thuật trang trí trên áo dài đã xuất hiện cùng với sự ra đời của áo dài. Nghệ thuật trang trí được tạo ra từ nhiều cách thức khác nhau như xếp ly, tạo đường lượn sóng nổi, hoa văn dệt chìm trên vải, hoa văn thêu, in, đính kết…

131

Trong tư duy thiết kế áo dài, người thiết kế sáng tạo gợi nên những liên tưởng thị giác về các trạng thái của tạo hình, điển hình như trạng thái động - tĩnh. Cặp trạng thái động và tĩnh được thể hiện qua các yếu tố tạo hình như sau: - Trạng thái tĩnh gồm yếu tố hình dáng và kết cấu xẻ tà. - Trạng thái động gồm các yếu tố như màu sắc, trang trí, chất liệu vải và bố cục. Trạng thái tĩnh trong thiết kế được hiểu là ít có sự thay đổi, biến tấu so với tạo hình thiết kế ban đầu. Khởi nguồn là áo dài năm thân có hình dạng là hình thang kéo dài, đến những năm 1930 – 1940 áo dài được định hình rõ hình dạng thân trên ôm gọn tương đồng với hình chữ nhất, thân dưới có xu hướng hình thang kéo dài. Sự kết hợp 2 hình dạng tạo nên một hình bóng của áo dài kéo dài suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX và cho đến nay (2017). Qua thời gian, dù áo dài bị nhiều tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến sự biến đổi về tỷ lệ lúc dài lúc ngắn, nhưng hình dạng ban đầu vẫn không hề thay đổi [PL 6, Bảng 6.2, tr 260 - 264]. Cùng với trạng thái tĩnh là kết cấu xẻ tà của áo. Áo dài có xẻ tà là kết cấu đặc trưng, tạo nên sự mềm mại, phóng khoáng cho tà áo. Dù điểm xẻ có thay đổi lúc ở eo thấp (mẫu áo của Nguyễn Cát Tường), lúc ở điểm eo (những mẫu áo dài mang phong cách truyền thống ở giai đoạn từ năm 1980 -2017), đôi khi lại thấy điểm xẻ eo cao (những mẫu áo dài mang phong cách hiện đại trẻ trung ở giai đoạn từ sau năm 1980 – 2017), nhưng điểm xẻ tà đó vẫn được định vị ở phần eo. Từ phần eo, tà áo được mở tách thân tạo không gian mới cho sự chuyển động tự do. Trạng thái tĩnh trong thiết kế hình dáng và kết cấu xẻ tà đã được người thiết kế tuân thủ một cách vô thức, nó như một qui tắc bất di bất dịch, tạo thành một trong những qui chuẩn hình thành thẩm mỹ trong thiết kế áo dài.

132

Trạng thái động trong thiết kế là sự dễ thay đổi, biến đổi một cách linh hoạt các yếu tố tạo hình (màu sắc, chất liệu vải, bố cục trang trí, phương thức trang trí …) tạo nên bố cục khác nhau mang lại hiệu quả khác nhau về thẩm mỹ cho áo dài. Trạng thái động và tĩnh như những thành tố tạo nên giá trị nghệ thuật trong tạo hình, do đó NCS xin được coi chúng là những yếu tố kiến tạo và thay thế cho thuật ngữ trạng thái. Trạng thái/ Yếu tố động được thể hiện thông qua họa tiết trang trí: Đó là sự sắp đặt mảng hình và bố cục trang trí, hình thức trang trí, chất cảm. Về sắp đặt mảng hình và bố cục trang trí được thể hiện qua mẫu áo dài trong BST Về quê của Vũ Việt Hà trình diễn tại Festival nghề truyền thống Huế năm 2017 [PL 4, H.4.14, tr 223]. BST khai thác ý tưởng thiết kế từ sự kết hợp hình ảnh của người phụ nữ Á Đông cùng với họa tiết thổ cẩm của tộc người thiểu số ở Tây Bắc. Mẫu thiết kế khai thác chọn lọc những tạo hình hoa văn thổ cẩm sắp đặt trên áo dài tạo điểm nhấn. Mẫu a H.4.14, ở phần cổ áo được đặt những mảng hình họa tiết nhỏ chạy theo viền cổ và tỏa xuống ngực và thân áo, tập hợp tạo nên mảng trang trí lớn. Các mảng hình được NTK sắp đặt bố cục trang trí theo nguyên tắc đối xứng, họa tiết trang trí được tỏa đều, phát triển theo nhiều hướng trên thân áo. Tuy nhiên tỷ lệ của các dải hình trang trí đó phát triển không đều, dải hình trang trí chạy trên thân áo có xu hướng dài hơn những dải hình bên, tạo nên nhịp ngắn dài khác nhau nhưng vẫn tạo sự cân bằng thị giác. Những mảng trang trí được nhắc lại ở phần ống tay và tà áo, sự sắp đặt bố cục ở tà áo theo hình thức hàng lối không quá nổi bật, không đủ để lấn áp phần trọng tâm ở cổ, ngực áo. Hay bộ sưu tập Hương sắc Việt của nghệ nhân Lan Hương yếu tố động được thể hiện với hình thức trang trí như thêu, đính kết, đắp nổi và vị trí sắp đặt những mảng hình trang trí [PL 4, H.4.17, tr 225]. Yếu tố động trong bộ sưu

133 tập Vương triều của NTK Sĩ Hoàng thể hiện ở những hình mẫu hoa văn đa dạng, phối kết hợp linh hoạt tạo thành nhóm họa tiết tôn nên nét cung đình cao quí của mẫu áo [PL 4, H.4.7, tr 220]. Còn yếu tố động trong bộ sưu tập Fusion của NTK Quỳnh Paris lại được thể hiện từ hiệu ứng thẩm mỹ ánh sáng màu sắc của kỹ thuật xếp bèo tạo họa tiết trang trí và những vị trí, bố cục sắp đặt khác nhau[PL 4, H.4.36, tr 234]. Như vậy yếu tố động trong sử dụng họa tiết trang trí được mỗi NTK có những tư duy thiết kế, sắp đặt bố cục khác nhau mang lại những hiệu quả thẩm mỹ nhất định. Yếu tố động thể hiện qua màu sắc: Đó là sự biến đổi linh hoạt trong cách sử dụng sắc và độ màu. Cũng như việc sắp đặt các mảng màu tạo thành nhịp được nhắc đi nhắc lại nhằm tạo sự cân bằng thị giác. Điển hình những mẫu áo dài bộ sưu tập Non thiêng của NTK Đức Hùng thể hiện yếu tố động ở vị trí sắp đặt những dải màu sắc và sử dụng màu sắc của họa tiết trang trí [PL4, H.4.31, tr 232]. Bộ sưu tập có ý tưởng hướng về hình ảnh của các cô gái Kinh kỳ thủa xưa, nét duyên dáng, e ấp và thướt tha được thể hiện thông qua chất liệu vải mềm mại như nhung, the, lưới mỏng và tạo hình thiết kế hình dáng, kết cấu, màu sắc trên áo dài. NTK sử dụng tông màu áo chủ đạo là tông màu sáng tương ứng với màu da của chất liệu vải lưới, mỗi mẫu lại được viền phối màu khác nhau như màu đỏ, xanh. Có mẫu viền phối vải nhung đỏ được phối hợp với màu đen của quần. Có mẫu lại viền phối vải nhung xanh, màu xanh đó cũng chính là màu quần. Sự phối hợp chất liệu lưới mỏng mềm được viền xung quanh các đường biên của tà, tay áo có kích thước bản lớn (từ 5 đến 7cm), tạo sự cứng cáp đối lập với chất liệu mỏng mềm bên trong thân tà. Phía trong thân áo được kéo màu của đường viền bằng màu chỉ thêu họa tiết. Họa tiết được sắp đặt thành nhóm, mô típ được lặp đi lặp lại tạo thành nhịp chuyển động, mẫu H. a mô típ trang trí chuyển động theo hướng nằm ngang đi từ trái hướng qua phải. Tuy NTK chỉ sắp đặt những mô típ đó ở một bên tà, nhưng do chúng nằm ngang

134 nên vẫn tạo độ cân bằng thị giác. Mẫu H. b, H. c và H. đ các mô típ lại có hướng từ trên xuống gấu, tập trung từ eo chạy xuống dưới hông. Những mô típ còn được lặp lại ở hai bên vai theo đường kết cấu tay raglan và gấu tay. Tuy thiết kế sử dụng nhiều họa tiết nhưng không bị rối, bởi chính sự sắp đặt có hệ thống, bố cục và đặc biệt là do màu sắc của các họa tiết hài hòa với nhau. Các sắc mà NTK sử dụng có độ sáng trung tính, không đủ để nổi bật hơn màu viền, nhưng đủ để thấy sắc trên nền của màu vải. Như vậy yếu tố động trong BST còn được NTK sử dụng đó là nguyên tắc đối lập về màu sắc, về chất liệu vải có hiệu ứng bề mặt khác nhau tạo thẩm mỹ cho mẫu thiết kế. Yếu tố động thể hiện qua tỷ lệ - kích thước tà áo, tay áo, cổ áo: Đó chính là những thay đổi yếu tố tạo hình thiết kế theo từng phong cách áo dài khác nhau. Với phong cách truyền thống tỷ lệ - kích thước của các yếu tố tạo hình có phần ổn định, ít biến đổi hơn so với phong cách trẻ trung hiện đại. Sự biến này dễ nhận thấy trong các mẫu áo dài cách tân năm 2017 của NTK Sơn Collection [PL 4, H.4.27, tr 230]. Bộ sưu tập được thiết kế hướng tới không khí của những ngày xuân vào dịp tết Đinh Dậu (năm 2017), do đó màu sắc được sử dụng là những màu sắc rực rỡ. Phong cách thiết kế áo dài của BST hướng tới sự trẻ trung năng động của những cô gái đôi mươi, do đó hình dáng và kết cấu áo dài có nhiều yếu tố cách tân. Dáng áo ngắn, tà kép, tỷ lệ dài tay áo cũng được biến đổi theo từng mẫu áo. Đặc biệt áo được thiết kế phối hợp cùng với quần lửng, mẫu khác lại phối hợp với váy ngắn. Những mẫu áo hướng tới tính ứng dụng áo dài đời thường, do đó tỷ lệ chiều dài tà áo, tay áo phù hợp với vận động, sinh hoạt trong cuộc sống, đáp ứng một số nhóm người ưa thích sự trẻ trung, năng động. Sự biến đổi trong thiết kế áo dài theo phong cách hỗn dung (sự kết hợp giữa phong cách truyền thống và hiện đại) cũng được các NTK quan tâm, bởi những mẫu áo được thiết kế không quá xa rời phong cách truyền thống nhưng

135 vẫn mang hơi thở phong cách hiện đại. Như những mẫu áo của NTK Minh Hạnh nghiên cứu ý tưởng từ nghệ thuật Pháp lam trình diễn tại Festival Huế năm 2012 [ PL 4, H.4.5, tr 219], hay BST áo dài của NTK Vũ Việt Hà nghiên cứu ý tưởng từ Hoa Lan năm 2016 [PL 4, H.4.19, tr 226]… Yếu tố động thể hiện qua chất liệu vải: Do sự phát triển của khoa học công nghệ, chất liệu vải may áo dài trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Tùy vào ý tưởng thiết kế mà mỗi người thiết kế có những cảm xúc với từng chất liệu vải. Các chất liệu vải tạo ra từ tự nhiên (vải gai, thô, đũi và lụa tơ tằm) hay các chất liệu vải từ sợi tổng hợp, nhân tạo (như nhung, ren, lưới, voan, organza, chiffon…) đều lần lượt xuất hiện trong các bộ sưu tập áo dài từ những năm 1930 cho đến nay (2017). Mỗi loại có những chất cảm, thẩm mỹ khác nhau đem đến cảm hứng sáng tạo cho người thiết kế. Mỗi người thiết kế có tư duy sáng tạo và thẩm mỹ riêng trong phối hợp những chất liệu vải đó với nhau, tạo nên giá trị khác nhau. Những cặp phối chất liệu vải thường dựa trên các nguyên tắc tạo hình như tương phản/ đối lập về chất cảm như: dày – mỏng trong các chất liệu vải nhung và lưới của BTS áo dài do Đức Hùng thiết kế [PL4, H.4.31, tr 232]; cứng – mềm trong các chất liệu vải thổ cẩm và voan của mẫu áo dài do Việt Hùng thiết kế [PL 4, H.4.11, tr 222]… Ngoài ra yếu tố động còn thể hiện qua hình thức bố cục sắp đặt họa tiết và kết cấu trang trí, thường xuất hiện 2 dạng bố cục đối xứng và bất đối xứng. Bố cục đối xứng được tạo ra từ nhóm các mô típ trang trí nằm đối xứng qua trục dọc thân áo ở các vị trí tương đương như vai áo, ngực, tà và tay [PL 4, H.4.7, tr 220]. Còn bố cục bất đối xứng được thể hiện qua những nhóm hình họa tiết sắp đặt ở những vị trí không đồng nhất, và có nhóm hình chính và nhóm hình phụ được nhắc lại ở vị trí khác như mẫu áo dài của Ngọc Hân [ PL4, H.4.25, tr 229] và áo dài trong BST Quốc hoa của NTK Sĩ Hoàng [PL 4, H.4.34, tr 233]. Tuy nhiên dù các mẫu thiết kế áo dài có bố cục khác nhau, nhưng đều

136 tạo cảm giác cân đối về thị giác, đó chính là sự khéo léo trong việc sử dụng những yếu tố tạo hình trong thiết kế áo dài. Vậy thẩm mỹ trong thiết kế áo dài đó chính là sự sáng tạo các yếu tố tạo hình dựa trên các nguyên tắc thiết kế nhằm tạo nên những giá trị nghệ thuật. Ngày nay các NTK đã kết hợp tư duy và thẩm mỹ trong thiết kế áo dài, do đó những mẫu áo vừa đạt được giá trị ứng dụng và giá trị nghệ thuật, đồng thời còn thể hiện dấu ấn cá nhân trên từng sản phẩm áo dài. 3.2. Những phong cách và xu hướng thiết kế áo dài 3.2.1. Phong cách thiết kế áo dài Phong cách được hiểu là sự phản ánh cảm xúc, là tư duy trí tuệ và là quá trình lao động nghệ thuật của một cá nhân điển hình cho mỗi giai đoạn lịch sử văn hóa nghệ thuật và xã hội. Phong cách cũng được coi như là một trường phái hay một khuynh hướng nghệ thuật, bởi khi có nhiều nghệ sĩ có cùng cảm xúc và tư duy nghệ thuật kết hợp sáng tạo nên những tác phẩm có cùng phong cách tạo hình thì sẽ tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới. Nghệ thuật thiết kế áo dài cũng hình thành nên những “phong cách thiết kế”, và được chia thành các phong cách như phong cách cá nhân và phong cách mang khuynh hướng nghệ thuật (phong cách hiện đại và phong cách cổ điển). - Phong cách cá nhân trong thiết kế áo dài Mỗi nhà thiết kế có những cảm xúc và tư duy thiết kế khác nhau, họ đã tạo ra được dấu ấn riêng cho mình thông qua sự sáng tạo và phương thức, giải pháp xử lý trong tạo hình thiết kế áo dài. Điển hình như một số phong cách của các NTK sau: Đầu tiên phải kể đến phong cách thiết kế áo dài của NTK Sĩ Hoàng (Thành phố Hồ Chí Minh), anh có rất nhiều BST nổi bật với phương pháp vẽ trực tiếp họa tiết hoa văn lên áo dài từ những năm 1990 cho đến nay [PL 4, H 4.34, tr 237].

137

Phong cách thiết kế của NTK Minh Hạnh (Thành phố Hồ Chí Minh) lại tạo ra cho mình một hướng nghiên cứu kết hợp giá trị truyền thống thổ cẩm của các dân tộc thiểu số với tạo hình thiết kế áo dài. Mỗi sản phẩm trong các BST của chị đã tạo nên dấu ấn và mang một phong cách đặc trưng tạo nên sự khác biệt [PL 4, H4.10, tr 224]. Phong cách thiết kế của NTK La Hằng (Thành phố Hà Nội) thiên hướng về tôn vinh những giá trị truyền thống, những kiểu dáng truyền thống được NTK làm cơ sở cho những sáng tạo về tính trang trí trên áo dài [PL 4, H 4.24, tr 232], PL 4, H 4.32, tr 236]. Phong cách thiết kế của NTK Lan Hương (Thành phố Hà Nội) lại tạo cho mình hướng khai thác chất liệu tơ tằm truyền thống vào trong những mẫu thiết kế áo dài, đặc biệt chất liệu tơ tằm kết hợp cùng với kỹ thuật thêu thủ công đã tạo nên những sản phẩm có giá trị đặc trưng và tạo cho NTK một dấu ấn riêng [PL 4, H 4.29 - H 4.30, tr 235]. Phong cách thiết kế của NTK Thủy Nguyễn (Thành phố Hồ Chí Minh), thiên về những sáng tạo theo khuynh hướng hiện đại. Những sản phẩm của NTK thường sáng tạo, cách điệu về kết cấu (điển hình là kết cấu tà kép) [PL 5, 5.13, tr 253] và họa tiết trang trí [PL 4, H. 4.4, tr 221]. Phong cách thiết kế của NTK Vũ Việt Hà (Thành phố Hà Nội) thiên về phong cách lãng mạn, điều này thể hiện ở ý tưởng chọn đề tài sáng tác, và chất liệu vải và phương thức tạo hình kết cấu trên các BST được trình diễn tại các kỳ lễ hội áo dài trong nhiều năm [PL 4, H 4.14 – H. 4.13, tr 226], [PL 4, H.4.16, tr 227], [PL 4, H. 4.19, tr 227] , [PL 4, H.4.23, tr 232]. Phong cách thiết kế của NTK Ngọc Hân (Thành phố Hà Nội) thể hiện tư duy sáng tạo trong các mẫu thiết kế áo dài dựa theo phong cách truyền thống kết hợp với tư duy tạo hình hiện đại. Sự kết hợp giữa yếu tố hình dáng truyền thống với các yếu tố màu sắc, chất liệu và họa tiết đã đem lại cho NTK những

138 dấu ấn đặc trưng trong phong cách thiết kế áo dài thông qua các kỳ lễ hội vào những năm qua [PL 4, H.4.3, tr 221], [PL 4, H. 4.25, tr 233]. - Phong cách thiết kế mang khuynh hướng nghệ thuật Thứ nhất phong cách hiện đại/ trẻ trung năng động: Nguyễn Cát Tường được coi là người khởi xướng cho phong trào cách tân Áo dài. Sự táo bạo trong biến đổi hình dáng – kết cấu, màu sắc và chất liệu vải của ông đã tạo nên một xu hướng, phong cách thiết kế mới cho áo dài. Đó là một phong cách năng động, phù hợp với môi trường, khí hậu, con người trong xã hội đầu thế kỷ XX. Sự tiếp thu những tư duy thẩm mỹ và kỹ thuật công nghệ của người Phương Tây đã được ông áp dụng trong thiết kế hình dáng, kết cấu và trang trí trên áo dài. Áo dài có hình dáng hai tà ngắn, kết cấu có các đường bèo xếp ly nổi bật. Đặc điểm về kết cấu áo dài của ông là phần thiết kế nối tay với thân áo ở phần mỏm vai hay thường gọi tay vai tròn (khác với tay áo raglan những năm 1960). Chất liệu vải được dùng đa dạng nhưng đa phần là dạng vải nhập từ nước ngoài có khổ lớn. Những tư duy thiết kế áo dài của ông đã hình thành nên một phong cách thiên hướng về thời trang ứng dụng, mặc phổ biến trong môi trường công sở, nên đã thu hút những phụ nữ ở thành thị và những người theo phong cách tân thời. Ngày nay, phong cách thiết kế của Nguyễn Cát Tường được các NTK khai thác vào thiết kế áo dài trong các bộ sưu tập, nó thể hiện một phong cách hiện đại, năng động. Nhận diện phong cách thiết kế áo dài của Nguyễn Cát Tường là dáng áo tà ngắn, tay áo vai tròn. Tuy nhiên các NTK đã có những biến đổi khác so với thiết kế của ông, đó là sự kết hợp với các dáng quần như quần ống loe, ống rộng ngắn, quần ôm... và màu sắc thiết kế tươi sáng, nhiều màu hơn trước. Phong cách thiết kế áo dài này thể hiện tính năng động và sự linh hoạt cho người sử dụng trong môi trường sống khác nhau.

139

Qua các kỳ Festival áo dài gần đây thấy nhiều NTK đã khai thác phong cách thiết kế áo dài hiện đại thể hiện ý tưởng như năm 2016 có các bộ sưu tập Sông nước Hương Giang và Mộc [PL 4, H.4.26, tr 229] của NTK Việt Hùng đã khai thác phong cách thiết kế hiện đại như dáng áo tà ngắn kết hợp với quần ôm… hướng tới những giới trẻ năng động, NTK Tú Ngô, Lê Lan Anh, Xuân Hảo, Ngọc Hân, Cao Minh Tiến [PL 4, H.4.6, tr 219]… đặc biệt trong bộ sưu tập Giao thoa của NTK Sĩ Hoàng đã thể hiện sự biến đổi của áo dài qua từng giai đoạn và tôn vinh những mẫu thiết kế mang tính ứng dụng, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Phong cách truyền thống: Qua những tác phẩm hội họa của Nguyễn Cát Tường và Lê Phổ [PL 3, H.3.6, tr 210] cho thấy các thiếu nữ trong tranh đều mặc những bộ áo dài mềm mại, giản dị và thể hiện những nét duyên dáng, ý nhị rất gần với tạo hình của áo dài năm thân của phụ nữ ở thế kỷ XIX. Tạo hình áo dài trong tranh là dáng áo cổ đứng ôm khít, tà rộng và đơn giản hạn chế tính trang trí. Thông qua tác phẩm hội họa, những cô gái mặc áo dài với chất liệu vải mềm mại, kín đáo, dáng vẻ e ấp, dịu dàng. Màu sắc thường đơn màu kết hợp với quần ống rộng. Ngày nay kiểu dáng áo dài tà rộng được coi là vẻ đẹp chuẩn mực, có giá trị văn hóa mặc. Do đó kiểu áo dài tà rộng, cổ đứng ôm khít được coi là phong cách thiết kế truyền thống. Tuy nhiên do những biến đổi về thẩm mỹ thời hiện đại, áo dài tà rộng đã được cải biến một số chi tiết như thiết kế vai tay tròn chuyển thành thiết kế tay raglan, cổ cao đứng ôm khít đôi lúc cũng được biến tấu thành cổ rộng dáng tròn, dáng thuyền ngang, dáng cổ tim hay cổ chữ V… Đặc biệt các NTK đã vận dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ trong trang trí áo dài. Hay việc sử dụng những chất liệu vải mới và các kỹ thuật trang trí thủ công truyền thống, kỹ thuật hiện đại (công nghệ in) đã tạo nên một màu sắc, diện mạo mới cho áo dài hiện đại mang phong cách của áo dài truyền

140 thống. Phong cách thiết kế truyền thống này đã được các NTK khai thác trong các kỳ Festival Áo dài như Năm 2008 chủ đề Festival Áo dài là “Dấu xưa” thì toàn bộ các bộ sưu tập sử dụng phong cách áo dài truyền thống tà rộng, tay raglan. Hay gần đây, năm 2016 diễn ra ở Huế có 8 bộ sưu tập thì có đến 6 bộ sưu tập khai thác phong cách truyền thống. Cùng năm 2016 lễ hội áo dài diễn ra ở Hà Nội cũng có 30 bộ sưu tập thì có 19 bộ mang phong cách truyền thống. Như vậy, áo dài tà rộng, tay raglan đã được coi là một chuẩn mực trong thiết kế và mang giá trị truyền thống. Với tư duy, thẩm mỹ hiện đại, ngày nay các NTK đã cải tiến áo dài phong cách truyền thống có hình dáng, kết cấu phù hợp, gần gũi hơn với thị hiếu thẩm mỹ hiện đại. Ngày nay sự kết hợp giữa phong cách truyền thống và hiện đại đã được nhiều NTK lựa chọn. Bởi đây trong bối cảnh giao thoa, hội nhập giữa các nền văn hóa dân tộc, vùng miền, quốc gia. Sự kết hợp giữa các phong cách thiết kế được các NTK vận dụng sáng tạo ra những mẫu thiết kế áo dài vừa tôn vinh được giá trị truyền thống, vừa thể hiện được ý tưởng sáng tạo mới mang giá trị hiện đại. Những mẫu thiết kế sử dụng phom dáng truyền thống áo dài tà rộng kết hợp với chất liệu vải mới, hoa văn trang trí và cách phối màu sắc hiện đại… Hay những mẫu thiết kế sử dụng phom dáng áo dài truyền thống có kết cấu cổ khoét rộng tạo sự phóng khoáng, năng động cho người mặc áo dài. Đặc biệt các NTK đã linh hoạt trong quá trình sáng tác, cải tiến phương pháp may, cũng như phương thức trang trí, tạo màu sắc và chất liệu vải mới... nhằm tạo nên những mẫu áo dài phù hợp với nhu cầu của con người thời hội nhập các nền văn hóa. 3.2.2. Những xu hướng thiết kế áo dài Thiết kế áo dài ở giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017 đã có nhiều xu hướng thiết kế khác nhau, được hình thành từ nhiều yếu tố như nhu cầu của người tiêu dùng, kinh tế thị trường, giao thoa văn hóa… Đặc điểm dễ nhận thấy của những xu hướng thiết kế áo dài hiện đại ở những tiêu chí sau: Thứ nhất là

141 hướng tới tiện dụng như cải tiến trong thiết kế tạo sự thuận lợi trong quá trình sử dụng, và sử dụng những chất liệu vải có độ bền, đẹp khi mặc cũng như trong quá trình vệ sinh (vải không nhăn nhúm, tuột chỉ may khi mặc và dễ giặt, không phai màu). Thứ hai là hướng tới sử dụng những chất liệu thiết kế thân thiện với môi trường (chất liệu vải, chất nhuộm màu vải được sản xuất có nguồn gốc nguyên liệu từ thiên nhiên). Thứ ba là những kỹ thuật thủ công như thêu tay, vẽ, đính kết... cũng là tiêu chí được các NTK quan tâm, nhằm tạo nên sự độc đáo, sáng tạo và còn là phương tiện giúp các NTK thể hiện tư duy, thẩm mỹ của mình trên áo dài. 3.2.2.1. Xu hướng nghệ thuật trang trí (Decorative art trend): Những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nghệ thuật trang trí hoa văn đã trở thành xu hướng được yêu thích trong thiết kế trang phục trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, việc đưa nghệ thuật trang trí vào thiết kế áo dài đã trở thành xu hướng bắt đầu từ sau năm 1980 đến 2017. Thiết kế áo dài có những đặc thù không giống thiết kế trang phục, những sáng tạo phải thể hiện trên một khuôn mẫu hình dáng nhất định. Do đó nghệ thuật trang trí có vai trò quan trọng, nó vừa là đối tượng cho các NTK thể hiện khai thác ý tưởng sáng tạo, vừa là phương tiện làm tăng hiệu quả thẩm mỹ cho áo dài. Đặc biệt nghệ thuật trang trí còn là phương tiện tôn nên vẻ đẹp cũng như che dấu những khuyết điểm của cơ thể người mặc. Trong bối cảnh giao thoa hội nhập các nền văn hóa, để giữ gìn và làm phong phú bản sắc dân tộc, giao thoa hội nhập giữa các nền văn hóa đã trở thành xu hướng thiết kế sáng tạo nghệ thuật. Tinh thần này đã được thể hiện qua các kỳ lễ hội văn hóa, những mẫu áo dài được sáng tạo dựa trên nhiều khía cạnh. Thứ nhất là ý tưởng thiết kế, trong đó các đề tài về văn hóa của dân tộc thiểu số, văn hóa của các quốc gia trên thế giới. Ý tưởng thiết kế như kim chỉ nam nhằm định hướng những sáng tạo nghệ thuật và giúp các NTK khẳng định

142

được giá trị cá nhân cũng như quan điểm thẩm mỹ với công chúng. Khía cạnh thứ 2 là yếu tố khoa học công nghệ, kỹ thuật và chất liệu vải. Những công nghệ kỹ thuật mới được cập nhật thường xuyên áp dụng vào thiết kế áo dài như công nghệ in hay kỹ thuật nhuộm màu, trang trí… và những nguyên phụ liệu mới. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cũng khẳng định “Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính” [12, tr 60 – 61]. Do đó các NTK đã không ngừng sáng tạo ý tưởng và tìm tòi nghiên cứu những kỹ thuật, công nghệ và những chất liệu vải mới trong nước và trên thế giới nhằm mang lại màu sắc, hiệu quả thẩm mỹ cho áo dài. Từ tinh thần trên, các NTK đã tìm tòi sáng tạo trên áo dài, ở nó đã hội tụ nhiều yếu tố về ý tưởng, xu hướng, kỹ thuật, công nghệ và trình độ thẩm mỹ của từng NTK, chính họ đã đưa sản phẩm áo dài trở thành những tác phẩm nghệ thuật. Ngày nay, thiết kế áo dài đã được phân theo 2 dòng là áo dài trình diễn và áo dài mặc trong đời sống thường ngày. Do đó tùy vào mục đích sử dụng mà các nhà thiết kế lựa chọn những ý tưởng, mô típ trang trí khai thác sáng tạo thiết kế áo dài. Đề tài trang trí có thể sáng tạo từ hoa lá thiên nhiên, hình học, tác phẩm hội họa, tranh dân gian hay hoa văn thổ cẩm … Đầu tiên phải kể đến xu hướng sử dụng họa tiết trang trí từ đề tài là thiên nhiên. Họa tiết trang trí từ thiên nhiên được nghiên cứu lựa chọn hình dáng, đường nét, màu sắc của hoa, lá, động vật, người và hình thể khác trong tự nhiên… Từ đó các NTK nghiên cứu tỷ lệ, chắt lọc chi tiết đặc trưng và sắp đặt bố cục trên áo dài. Từ những năm 1990, khi NTK Sĩ Hoàng vẽ lên áo dài những họa tiết trang trí được nghiên cứu từ hoa lá thiên nhiên, đã nên một xu hướng mới trong thiết kế áo dài. Mỗi mẫu thiết kế đều được coi như một tác phẩm nghệ thuật, từ màu sắc, đường nét, hình dáng và sự sắp đặt họa tiết trang trí

143

được các NTK nghiên cứu kỹ lưỡng, thể hiện và sáng tạo độc đáo [PL4, H.4.33.a và b, tr 233]. Xu hướng sử dụng họa tiết trang trí từ thiên nhiên luôn được các NTK quan tâm và thấy xuất hiện ở các kỳ lễ hội áo dài điển hình lễ hội áo dài diễn ra vào tháng 3 năm 2016 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám lấy chủ đề từ các loài hoa. NTK Cao Minh Tiến thiết kế bộ sưu tập ý tưởng từ Hoa đào, NTK Hùng Việt thiết kế bộ sưu tập từ Hoa sứ, Đức Hải thiết kế bộ sưu tập từ Hoa Phăng, NTK Quang Huy thiết kế bộ sưu tập từ Hoa cúc, Thương Huyền thiết kế từ Hoa Sim, Viết Bảo thiết kế từ Hoa sen, Ngọc Hân thiết kế từ Hoa Phù Dung, NTK Minh Hạnh thiết kế từ Hoa Lily… Thứ hai là xu hướng sử dụng đề tài trang trí từ tranh dân gian, được các NTK khai thác từ màu sắc, đường nét và hình dáng đưa vào thiết kế áo dài, tạo nên những sáng tạo độc đáo và mang giá trị đặc trưng văn hóa dân tộc. Điển hình có các NTK Lan Hương khai thác tranh Đông Hồ, NTK Phương Thanh khai thác bộ tranh Tố Nữ, NTK Thủy Nguyễn khai thác tranh Đông Hồ, Ngọc Hân khai thác tranh Hành Trống, NTK Thuận Việt khai thác tranh Ngũ Hổ… [PL4, H.4.2, tr 217]. Thứ ba là xu hướng trang trí đề tài về họa tiết thổ cẩm: Khởi xướng ý tưởng sử dụng họa tiết thổ cẩm trong thiết kế áo dài đó là NTK Minh Hạnh, vào năm 1997 NTK đạt giải thưởng Makuhari Grand Prix tại Nhật Bản khi tham gia cuộc thi thiết kế thời trang bằng BST áo dài lấy ý tưởng từ nghệ thuật trang trí hoa văn thổ cẩm. Cũng từ đây họa tiết thổ cẩm đã trở thành cảm hứng thiết kế áo dài cho nhiều nhà thiết kế trẻ. Mỗi NTK có sự sáng tạo riêng và đạt được thành công nhất định, như NTK Lan Hương, Việt Hùng, Thuận Việt, Vũ Việt Hà ... Thứ tư là xu hướng sử dụng đề tài về họa tiết hình học: Năm 2017 là năm nổi lên xu hướng sử dụng họa tiết hình học, thuộc nhóm họa tiết trên nền gạch

144 lát nền trong kiến trúc Đông Dương thập niên 1960. Cảm hứng từ tác phẩm điện ảnh “Cô Ba Sài Gòn” của 2 nhà sản xuất Ngô Thanh Vân và NTK Thủy Nguyễn, trong phim là bộ sưu tập áo dài lấy ý tưởng từ hoa văn nền gạch bông với đường nét và màu sắc ảnh hưởng phong cách Pop art đã tạo nên hiệu ứng thị giác mới. Xu hướng họa tiết gạch bông đã được công chúng đón nhận và có sức lan tỏa mới trong thị hiếu người tiêu dùng [ PL4, H.4.28, tr 230]. 3.2.2.2. Xu hướng lãng mạn (Romantic trend) Xu hướng lãng mạn biểu hiện trong thiết kế áo dài được thể hiện thông qua đề tài ý tưởng thiết kế, từ đó các NTK vận dụng tư duy, quan điểm thẩm mỹ vào tạo hình về màu sắc, chất liệu vải và hoa văn trang trí... nhằm tạo nên những mẫu áo dài có giá trị nghệ thuật. Sự lãng mạn thể hiện trong tư duy thẩm mỹ thiết kế áo dài được thể hiện rõ thông qua chất liệu vải, màu sắc và ý tưởng/ đề tài thiết kế. Về chất liệu vải: Chất cảm trên bề mặt cũng như tính cơ học của vải được các NTK áo dài đặc biệt chú ý, bởi nó hỗ trợ họ trong việc thể hiện thành công ý tưởng thiết kế. Tính chất lãng mạn thường được thể hiện trên vải như mềm, mỏng do đó nó tạo sự thướt tha uyển chuyển cho tà áo. Chất liệu vải là một yếu tố quan trọng trong thiết kế áo dài, bởi chất liệu vải được coi là làn da thứ 2 của người mặc. Hơn nữa do những đặc tính của áo dài, nên chất liệu vải may áo thường mềm mại và có độ buông. Chất liệu vải phù hợp để may áo dài đó là lụa tơ tằm tự nhiên và được nhiều người yêu thích sử dụng trong nhiều thập niên trước. Tuy nhiên ngày nay khi khoa học công nghệ phát triển, con người đã sản xuất được nhiều chất liệu vải mới vừa đảm bảo được tính thẩm mỹ để may áo dài, vừa có độ bền và giá thành thấp hơn vải lụa tơ tằm tự nhiên. Do đó việc lựa chọn chất liệu vải may áo dài đã phong phú hơn. Điển hình như các chất liệu vải ren, voan, gấm, lụa công nghiệp… Đặc biệt chất liệu vải gấm ngày nay

145 cho phép sử dụng kỹ thuật in chuyển nhiệt tạo hoa văn trang trí trên nền vải, nên được nhiều NTK sử dụng. Hay chất liệu vải vải dệt kim, điển hình như vải ren là chất liệu phố biến may áo dài của những năm gần đây, đặc trưng trên bề mặt vải là có nhiều mẫu hoa văn đa dạng, và có đặc tính mềm mại và màu sắc phong phú. Năm 2016 và 2017, nổi lên xu hướng sử dụng chất liệu vải gấm in họa tiết trang trí, điển hình có NTK Thủy Nguyễn được cho là người khơi dậy xu hướng dùng chất liệu vải gấm in họa tiết trang trí cảm hứng từ những tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ [ PL4, H.4.4, tr 218]. Về màu sắc: Màu sắc là một trong những yếu tố gây hiệu ứng thị giác và là yếu tố không thể không quan tâm trong thiết kế áo dài. Tính lãng mạn trong màu sắc thể hiện qua tông, gam màu. Đó là những gam màu trung tính, thiên về những tông màu nhẹ như trắng hồng, xanh lơ, vàng mơ… (những tông màu cơ bản hữu sắc pha thêm màu trắng vô sắc). Ngày nay trong bối cảnh giao thoa văn hóa, màu sắc áo dài cũng chịu nhiều tác động và có nhiều biến đổi, màu sắc phong phú đa dạng. Theo thị hiếu thẩm mỹ hiện đại, màu sắc được sử dụng có vai trò, chức năng khác nhau như màu sắc áo dài phải phù hợp với làn da, vóc dáng của người sử dụng (người gầy không mặc màu sắc tối, người béo không nên mặc màu sắc sáng hay rực rỡ…) và màu sắc phải phù hợp với môi trường sống, lao động. Do đó xu hướng sử dụng màu sắc thể hiện tính chất lãng mạn thường được các NTK cân nhắc áp dụng thiết kế với tường đối tượng riêng, nó phải phù hợp với đặc điểm hình dáng như người có vóc dáng và làn da phù hợp sẽ tạo nên mối tương quan hài hòa cho thẩm mỹ chung giữa người mặc và tạo hình của áo dài. 3.2.2.3. Xu hướng truyền thống (Traditionnal trend) Xu hướng cổ điển trong thiết kế áo dài dược thể hiện thông qua chất liệu vải và hình dáng kết cấu áo dài.

146

- Về chất liệu vải Bên cạnh xu hướng sử dụng chất liệu vải công nghiệp, xu hướng sử dụng chất liệu lụa tơ tằm kết hợp với kỹ thuật thêu thủ công cũng đang được người tiêu dùng ưa dùng. Bởi tính thẩm mỹ của lụa tơ tằm và sự tinh sảo, sắc nét của kỹ thuật thủ công đem lại giá trị trong thiết kế. Xu hướng sử dụng chất liệu lụa tơ tằm kết hợp với kỹ thuật thêu thủ công đã tạo nên được phong cách thiết kế áo dài cho NTK Lan Hương thông qua những sáng tạo mẫu thiết kế áo dài trong những năm gần đây. Xu hướng thiết kế này đã được đón nhận bởi những người yêu giá trị truyền thống dân tộc và trân quý những sản phẩm do người Việt sáng tạo [PL4, H.4.29, tr 231]. Chất liệu lụa tơ tằm sử dụng trong thiết kế áo dài đã trở thành xu hướng trong nhiều năm qua, đặc biệt sự kiện văn hóa festival Văn hóa tơ lụa, thổ cẩm diễn ra hàng năm, lần thứ nhất là năm 2015, đến năm 2017 là lần thứ 3. Những mẫu áo dài được giới thiệu trong festival đều được may bằng chất liệu tơ tằm. Ngoài ra những bộ sưu tập áo dài sử dụng chất liệu tơ tằm xuất hiện liên tục trong các kỳ lễ hội áo dài diễn ra ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Huế. - Về hình dáng và kết cấu Tính chất truyền thống trong thiết kế hình dáng của áo dài được xác định là tạo hình áo dài ở những năm 1940 – 1950 có hình dáng hai tà buông thụng, cổ đứng và tay áo raglan. Đây là mẫu áo được các NTK cơ là một sự mẫu mực và điển hình về tạo dáng áo và luôn xuất hiện trong các kỳ lễ hội festival áo dài cũng như vào các dịp lễ hội thường nhật diễn ra trong xã hội ở nhiều thập kỷ vừa qua. 3.2.2.4. Xu hướng hiện đại (Modern trend) Xu hướng hiện đại trong thiết kế áo dài được thể hiện thông qua tạo hình về màu sắc, về hình dáng kết cấu, và sự phối hợp giữa màu sắc và kết cấu, đặc biệt là về họa tiết trang trí.

147

- Về màu sắc và sự phối hợp màu với kết cấu Những thập niên gần đây xuất hiện mẫu áo dài có nhiều màu sắc được phối hợp với nhau theo những chủ đề, ý tưởng tạo hiệu ứng thẩm mỹ mới. NTK sáng tạo những mảng phối màu dựa trên kết cấu của áo. Như mảng kết cấu tay áo có màu khác với màu của thân áo hay màu của áo phối hợp với màu của họa tiết trang trí [PL 4, H. 4.13, tr 223], phối màu áo với màu quần [PL 4, H.4.37, tr 235]. Tùy vào ý tưởng thiết kế, các cặp phối màu được thể hiện theo sắc và độ màu, nổi bật với những xu hướng phối màu sau: + Phối màu tương phản: Màu vàng phối với tím, vàng phối với đen, đỏ phối với đen hay với trắng… + Phối màu tương đồng: Màu lam phối với xanh ngọc, màu vàng với màu lá mạ, màu hồng phối với đỏ… + Phối màu đơn sắc: Màu trắng phối với màu đen hay màu ghi xám. - Về hình dáng kết cấu Hình dáng và kết cấu áo dài là yếu tố ít biến đổi hơn so với các yếu tố màu sắc và chất liệu vải. Tuy nhiên theo quan điểm thẩm mỹ hiện đại ngày nay vẫn có những xu hướng biến đổi nhằm cải tiến tạo sự thuận tiện cho người mặc hay mang đến sự mới lạ trong thiết kế áo dài, như áo dài không cổ (áo cổ tròn, cổ tim, cổ vuông, cổ thuyền), áo dài tay ngắn/ tay lửng, áo dài tà kép (thân trước và thân sau may xếp chồng hai tà, một tà ngắn và một tà dài). Áo dài không cổ được thịnh hành từ những năm 1958, khi bà Trần Lệ Xuân là người khởi xướng kiểu mặc áo dài không cổ, cổ áo thiết kế rộng, có hình cổ vuông, cổ tròn, cổ tim, cổ thuyền. Kiểu không cổ luôn hiện diện song song cùng với áo có cổ. Những thập niên gần đây, kiểu không cổ này càng được phụ nữ ưa chuộng, được thiết kế biến tấu theo tỷ lệ, kích thước và hình dáng khác nhau. Kiểu áo không cổ được các NTK sử dụng trong thiết kế nhằm khắc

148 phục nhược điểm của người mặc, như phụ nữ cổ ngắn mặc áo không cổ tạo cảm giác cổ người phụ nữ có phần thanh thoát hơn… Áo dài tay lửng là xu hướng phát triển cùng với những xu hướng áo không cổ. Kiểu tay ngắn và lửng thường thiết kế phù hợp với khí hậu mùa thu, mùa hè và mùa xuân [PL4, H.4.27, tr 230]. Thiết kế áo dài 2 tà kép xếp chồng ở thân trước và thân sau cũng thấy xuất hiện trong nhiều bộ sưu tập áo dài. Tà ngoài thường có tỷ lệ ngắn hơn tà trong, NTK thường dùng những chất liệu vải mềm, mỏng để thiết kế kiểu tà kép. Thiết kế tà kép cũng xuất hiện nhiều năm trước tại festival Áo dài, tuy nhiên đến năm 2017 xu hướng thiết kế tà kép mới thực sự thịnh hành trên sàn diễn cũng như trong đời thường [PL4, H.4.19, tr 226 và H.4.14, tr 223]. Ngoài ra sự phối hợp áo dài với quần ống hẹp (quần ống côn) hay áo dài phối hợp với chân váy cũng là một trong những kiểu thức được thịnh hành trong xã hội. Đặc biệt kiểu phối này được một số nhóm trẻ tuổi ở các thành phố lớn ưa chuộng, tuy nhiên nó đã gây nhiều tranh cãi vào thời gian đầu năm 2017. Các chuyên gia, những NTK yêu giá trị truyền thống trên áo dài lại không đồng tình và phê phán lối phối hợp trên. Tuy nhiên đứng trên phương diện cá nhân, NCS cho rằng những thiết kế đã thể hiện một tư duy mới trong thiết kế áo dài, họ đã mượn hình dáng của áo dài để thiết kế tạo nên kiểu trang phục mới. Nếu nhìn dưới góc độ thời trang thì đó là những thiết kế đẹp, hợp thời. Nhưng nhìn dưới góc độ văn hóa truyền thống, thì rõ ràng sản phẩm thiết kế đó đã vượt xa với tạo hình và thẩm mỹ của dân tộc. Mâu thuẫn này đã gây ra những cuộc tranh luận trong xã hội. Dù là ủng hộ hay không ủng hộ, những mẫu thiết kế này cũng đã tạo nên một xu hướng mới. Như vậy những xu hướng thiết kế áo dài được hình thành trong những thập niên qua, cho thấy tư duy và thẩm mỹ của phụ nữ trong xã hội đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là những NTK trẻ đương thời. Đó còn biểu hiện sự cởi mở về

149 thị hiếu thẩm mỹ và nhu cầu tiêu dùng của phụ nữ trong xã hội hiện đại… Bởi vậy, có thể thấy nghệ thuật thiết kế áo dài đã bắt nhịp được với xu hướng thời trang thế giới. Bằng chứng là sự xuất hiện các BST áo dài trên sàn diễn của các nước Mỹ, Pháp, Italia, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc… đã cho thấy rõ điều đó. 3.3. Áo dài của phụ nữ Việt trong tương quan với áo dài một số tộc người ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa (Đặc điểm thiết kế áo dài truyền thống của các tộc người ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa được trình bày ở phụ lục 8) Nghệ thuật là sự biểu hiện của tâm hồn con người trước thiên nhiên và trong xã hội. Mọi yếu tố văn hóa của con người luôn đan cài, hòa quyện vào nhau trong một tổng thể thống nhất. Do đó nghệ thuật tạo hình trang phục phản ánh những khía cạnh nhất định của cảm xúc thẩm mỹ đó của con người hay của cộng đồng. Nghệ thuật thiết kế áo dài là sự phối hợp hài hòa các yếu tố như hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và họa tiết trang trí. Ngoài ra còn là sự tính toán, định lượng vải và những kỹ thuật cắt, may… xử lý thông số theo đặc điểm nhân chủng của tộc người. Đặc biệt nghệ thuật thiết kế thể hiện tư duy sáng tạo linh hoạt của những vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, hiện trạng trong thực tế (như khổ vải, màu nhuộm vải…) sao cho phù hợp với đặc điểm cơ thể của con người. Đối tượng khảo sát so sánh là những hiện vật áo dài lưu trữ trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và từ tư liệu nước ngoài sau: - Áo dài của phụ nữ Việt phong cách truyền thống - Áo dài truyền thống phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận - Áo dài truyền thống phụ nữ Tày ở Cao Bằng - Áo dài truyền thống phụ nữ Thái ở Thanh Hóa - Áo sườn xám Trung Hoa

150

3.3.1. Những nét tương đồng trong thiết kế áo dài Qua khảo sát, NCS nhận thấy kết cấu áo dài của 3 tộc người (Thái, Tày, Chăm) và áo sườn xám tuy có nhiều chi tiết rất khác biệt với kết cấu áo dài của phụ nữ Việt. Nhưng lại có những nét tương đồng trong thiết kế tạo hình dáng, như áo dài của phụ nữ Tày, phụ nữ Chăm, phụ nữ Thái Trắng, hình dáng áo có điểm chung là ôm gọn thân trên và buông rộng thân dưới, xu hướng giống hình thang kéo dài. Phần trên của những áo này được thiết kế kích thước vừa vặn, ôm gọn cơ thể, tạo hình tương phản với kích thước buông rộng của phần tà áo. Nét tương đồng tiếp theo là về chất liệu vải cũng thường sử dụng lụa, vải mềm tạo độ bay, rủ, tôn dáng vẻ thướt tha cho người mặc. Đặc biệt áo dài hiện đại của phụ nữ Việt và áo sườn xám được ra đời cùng thời điểm là những năm gần giữa thế kỷ XX khi phong trào âu hóa trang phục diễn ra ở hai quốc gia. Cả hai đều tiếp thu phương pháp, kỹ thuật thiết kế trang phục của người Phương Tây vào thiết kế. Đó là kỹ thuật tạo đường ly chiết ở điểm eo đem lại hiệu quả thẩm mỹ mới cho người mặc. Vậy xét sự tương đồng trong thiết kế áo dài của phụ nữ Việt với áo dài phụ nữ của các tộc người ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa phải chăng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiêu trong thẩm mỹ và trong tạo hình, không phải là do ảnh hưởng từ quá trình giao thoa văn hóa. Để thấy rõ hơn, NCS tìm hiểu về sự khác biệt trong thiết kế áo dài của các tộc người, quốc gia trong mở rộng phạm vi nghiên cứu. 3.3.2. Những khác biệt trong thiết kế áo dài 3.3.2.1. Thiết kế áo dài của phụ nữ Chăm Tác giả Hữu Ngọc viết trong cuốn Áo dài – Women’s Long Dress cho rằng: “Áo dài của phụ nữ Việt được thiết kế ảnh hưởng từ áo dài của người Chăm” [54]. Tuy nhiên khi khảo sát đo, vẽ kết cấu áo dài của phụ nữ Chăm, NCS thấy áo dài Chăm có rất nhiều điểm thiết kế khác biệt so với áo dài của

151 người Việt. Điểm khác biệt thứ nhất là ở kết cấu thân áo: Áo thiết kế gồm 4 mảnh, thân trước một, thân sau một và 2 mảnh ở 2 bên sườn áo. Áo không thiết kế mở thân mà khi mặc thì chui đầu. Tức là cả hai thân trước và thân sau áo dài đều thiết kế liền mảnh và khoét cổ. Thân trước và thân sau có hình chữ nhật chạy thẳng từ vai xuống gấu, mảng bên sườn có hình dáng giống hình đồng hồ cát. Hơn nữa, áo thiết kế không mở tà, nên thân dưới xòe rộng giúp cho người mặc thuận lợi trong mọi sinh hoạt. Điểm khác biệt thứ hai chính là tính trang trí trên áo dài, áo dài của người Chăm cũng không có nhiều họa tiết trang trí, có chăng là những họa tiết hình học cách điệu của thổ cẩm. Những dải thổ cẩm được khâu tạo dây viền đặt trên đường kết cấu can ghép thân. Hay được đặt thắt ngang lưng áo và vắt chéo lên vai. Tạo điểm nhấn cho áo dài. Kiểu thức này khá cố định và tạo đặc trưng trên áo dài của người Chăm. Còn áo dài của phụ nữ Việt đã sử dụng trang trí, với những bố cục và họa tiết đa dạng. Điểm khác biệt thứ ba là áo dài của người Chăm mặc kết hợp với váy, khi đó áo dài của phụ nữ Việt mặc với quần. Như vậy áo dài của phụ nữ Việt có nhiều khác biệt với áo dài của phụ nữ Chăm, được thể hiện tóm tắt qua bảng so sánh sau: Yếu tố tạo Áo dài của phụ nữ Việt Áo dài của phụ nữ Chăm hình

Hình dáng – Hình dáng suôn dài hai thân, Áo thiết kế gồm 4 mảnh, thân kết cấu kết cấu xẻ tà, tay tròn và tay trước một, thân sau một và 2 raglan. mảng ở 2 bên sườn áo. Áo không thiết kế mở thân và chui đầu khi mặc.

Tay áo có dạng hình chữ nhật.

152

Màu sắc Màu sắc đa dạng, sử dụng Màu đa dạng, có sự khác biệt theo môi trường sống, theo tương phản với màu váy phía nhu cầu, thẩm mỹ cá nhân. dưới. Màu áo trên có xu hướng sáng hơn màu phía dưới.

Trang trí Trang trí trên áo dài theo nhu Họa tiết hình học/ thổ cẩm cầu, thẩm mỹ cá nhân. Hình thức trang trí đa dạng như vải dệt sẵn họa tiết hay vải trơn có thêu, đính kết…

Bố cục tạo Bố cục tạo hình cân đối về Bố cục tạo hình trên áo dài hình hình dáng và kết cấu. của phụ nữ Chăm có xu hướng cân đối.

Bảng 1. So sánh thiết kế áo dài Việt và áo dài Chăm [NCS tổng hợp phân tích] 3.3.2.2. Thiết kế áo dài của phụ nữ Thái Người Thái có 2 nhóm là Thái Trắng và Thái Đen, cả 2 nhóm Thái đều có áo dài. Nếu so sánh về nghệ thuật thiết kế áo dài của hai nhóm này với thiết kế áo dài của phụ nữ Việt thì đa phần khác nhau. Như áo dài của người Thái Trắng thiết kế khá đặc biệt, thân trước có 3 mảnh ghép, thân sau 1 mảnh. Phần sườn áo được ghép nối giữa thân trước và thân sau là mảnh hình tam giác từ phía dưới phần gập nách xuống đến gấu, tạo độ xòe từ phần eo đáp ứng về công năng cũng như yếu tố thẩm mỹ cho áo dài [PL 4, H.4.43.a và H.4.44, tr 241]. Còn áo dài của phụ nữ Việt thiết kế xẻ tà. Về cơ bản mẫu thiết kế này dùng phổ biến cho tất cả phụ nữ người Thái Trắng, điểm khác biệt của những cô gái trưởng thành và cô gái chưa trưởng thành là ở phần thiết kế lưỡi áo (là mảnh

153 kết cấu hình tam giác lối thân áo với tay ở vị trí gập nách). Bởi phần thiết kế kích thước của lưỡi áo phụ thuộc vào kích thước phát triển của vòng ngực của cô gái. Nhìn chung nghệ thuật thiết kế áo dài – xửa luông của phụ nữ Thái Trắng khác rất nhiều so với áo dài của phụ nữ Việt. Với tộc người Thái Đen có hai dạng áo dài, thứ nhất là dạng áo dài năm thân có phần giống với áo của người Việt. Tuy nhiên dáng áo này lại không dùng phổ biến mà thường dùng mặc cho người chết. Loại thứ 2 là áo dài dùng thường ngày lại có thiết kế khá đặc biệt, trên thân áo được ghép nhiều mảnh vải với nhau tạo nên kích thước chung cho áo. Thân trước gồm 5 mảnh khổ vải dài và 2 mảnh vải ngắn nằm trên 2 vai, 2 mảnh vải này thiết kế liền từ thân trước qua thân sau. Thân sau ngoài 2 mảnh trên vải chạy từ thân trước còn có 3 mảnh vải khổ dài ghép nối tạo kích thước rộng thân áo. Như vậy về cơ bản thiết kế áo dài của người Thái Trắng và Thái Đen không có điểm giống nào so với thiết kế áo dài của người Việt. Cũng bởi do những quan niệm trong văn hóa mặc và thẩm mỹ thiết kế của mỗi tộc người. Yếu tố tạo Áo dài của phụ nữ Áo dài của phụ nữ Thái hình Việt Thái Đen Thái Trắng

Hình dáng – Hình dáng suôn dài Thân áo có hình Thân áo có hình kết cấu hai thân, kết cấu xẻ chữ nhật và được thang và được tà, tay vai tròn và tay tạo bởi nhiều ghép từ 6 mảng raglan. mảnh ghép nhỏ. hình tạo đường kết Tay nối thân ở cấu. Tay nối thân điểm vai. ở điểm vai.

154

Màu sắc Màu sắc đa dạng, sử Màu đen kết hợp Màu đen chủ đạo dụng theo môi nhiều màu ngũ trường sống, theo sắc. nhu cầu, thẩm mỹ cá nhân.

Trang trí Trang trí trên áo dài Trang trí bằng Trang trí họa tiết theo nhu cầu, thẩm hoa văn thổ cẩm thổ cẩm đặt ở 2 dải mỹ cá nhân. Hình có bố cục cố tam giác nhỏ trên thức trang trí đa định theo bản vai, lưỡi áo và nẹp dạng như vải dệt sẵn sắc giữa thân áo họa tiết hay vải trơn trước. có thêu, đính kết…

Bố cục tạo Bố cục tạo hình cân Bố cục cân đối Bố cục cân đối hình đối về hình dáng và kết cấu.

Bảng 2. So sánh thiết kế áo dài Việt và áo dài Thái [NCS tổng hợp phân tích] 3.3.2.3. Thiết kế áo dài của phụ nữ Tày Áo dài của phụ nữ Tày có kết cấu năm thân, cổ đứng bản nhỏ và cài khuy vắt chéo trên ngực [PL 4, H.4.43.c, tr 241]. Hình dáng và kết cấu khá tương đồng với áo năm thân truyền thống của phụ nữ Việt giai đoạn trước những năm 1930. Đến nay kiểu áo năm thân vẫn được phụ nữ Tày sử dụng. Còn áo dài của phụ nữ Việt đã có nhiều thay đổi trong thiết kế. Do đó về tạo hình áo dài của 2 tộc người có nhiều điểm khác biệt cả về hình dáng, kết cấu, trang trí... Những khác biệt trong thiết kế được thể hiện qua bảng đối sánh sau:

155

Yếu tố tạo hình Áo dài của phụ nữ Việt Áo dài của phụ nữ Tày

Hình dáng – kết Hình dáng suôn dài hai thân, Hình dáng suôn dài năm cấu kết cấu xẻ tà, vai tròn và tay thân, áo có cổ đứng ôm raglan. khít, kết cấu vai liền, thắt dây lưng.

Màu sắc Màu sắc đa dạng, sử dụng Màu đen chủ đạo. theo môi trường sống, theo nhu cầu, thẩm mỹ cá nhân.

Trang trí Trang trí trên áo dài theo nhu Không có trang trí cầu, thẩm mỹ cá nhân. Hình thức trang trí đa dạng như vải dệt sẵn họa tiết hay vải trơn có thêu, đính kết…

Bố cục tạo hình Bố cục tạo hình cân đối về Bố cục tạo hình bất cân đối hình dáng và kết cấu. trong kết cấu thân áo thứ 5 cài vắt chéo.

Bảng 3. So sánh thiết kế áo dài Việt và áo dài phụ nữ Tày [NCS tổng hợp phân tích] 3.3.2.4. Thiết kế áo sườn xám của phụ nữ Trung Hoa NCS lựa chọn so sánh với những mẫu áo sườn xám thiết kế từ những năm 1920 đến năm 1960 [PL 4, H.4.45, tr 242], với những mẫu áo dài của phụ nữ Việt cùng ở giai đoạn tương ứng. Đó là những mẫu áo dài tân thời, và mẫu áo của Trần Lệ Xuân thường mặc. Áo dài hiện đại của phụ nữ Việt và áo sườn xám được hình thành cùng thời điểm do tác động của quá trình tiếp xúc văn hóa với người Phương Tây.

156

Cùng tiếp thu những kỹ thuật công nghệ trong thiết kế, tuy nhiên vẫn có nhiều điểm khác biệt, như hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu và tính trang trí. Vậy khác biệt trong thiết kế đầu tiên là về hình dáng và kết cấu. Hình dáng và kết cấu của Áo dài của phụ nữ Việt thiết kế “mở” tà ở vị trí ngang eo, từ điểm này tà áo có xu hướng buông thẳng và chuyển động theo sự di chuyển của người mặc. Áo sườn xám có điểm xẻ thường xuất hiện ở những vị trí ngang gối hay bắp chân, có mẫu áo còn được xẻ ở ngang đùi. Điểm xẻ này là điểm mở chính của áo, tuy nhiên có mẫu áo lại thấy từ điểm xẻ xuống dưới gấu xuất hiện nhiều điểm có nút cài đính giữ hai tà áo với nhau. Áo sườn xám có kiểu được thiết kế sát nách không tay, còn áo dài thiết kế có tay, tỷ lệ dài tay có sự thay đổi theo nhu cầu của người mặc. Áo dài linh hoạt trong thiết kế cổ áo, có mẫu thiết kế cổ cao ôm khít, nhưng có những mẫu thiết kế cổ rộng theo hình dáng khác nhau. Áo sườn xám luôn được thiết kế cổ đứng ôm khít vòng cổ và ít có biến đổi. Bởi cổ áo cũng chính là đặc trưng căn bản của áo sườn xám. Thứ hai là tính trang trí: Tính trang trí trên áo dài của phụ nữ Việt có nhiều thay đổi theo từng giai đoạn. Giai đoạn từ năm 1930 đến 1960, thiết kế áo dài ít thấy có trang trí, có chăng là những họa tiết chìm trên nền vải và những phụ kiện trang sức đeo cùng. Còn tính trang trí trên áo sườn xám rất đặc trưng. Áo được thiết kế trên chất liệu vải (như gấm) có nhiều hoa văn và màu sắc, trên tà áo được trang trí đắp một lớp vải màu khác với màu nền chạy viền quanh tà áo. Tuy nhiên vào những năm 1940 -1960 tính trang trí trên sườn xám cũng theo nhu cầu thẩm mỹ của từng cá nhân, do đó thấy xuất hiện nhiều mẫu áo không trang trí hoặc có thì là những họa tiết in sẵn [PL 4, H.4.47, tr 242]. Điểm trang trí đặc trưng có sườn xám đó là ở phần cổ áo và những nút áo hay còn gọi khuy tàu. Điểm khác biệt thứ ba là áo dài của phụ nữ Việt mặc kết hợp với quần dài còn áo sườn xám là một dạng áo váy. Phụ nữ Trung Hoa mặc sườn xám để

157 lộ đôi chân, đây là dấu ấn từ sự cải cách trong văn hóa mặc của phụ nữ Trung Hoa thời cận đại. Yếu tố tạo Áo dài của phụ nữ Việt Áo sườn xám Trung Hoa hình

Hình dáng Hình dáng suôn dài hai thân, Hình dáng suôn dài hai thân, – kết cấu kết cấu xẻ tà tại điểm eo, tay kết cấu xẻ tà xuống qua đầu vai tròn và tay raglan. gối. Kết cấu tay vai tròn và không tay.

Màu sắc Màu sắc đa dạng, sử dụng Màu sắc đa dạng, sử dụng theo theo môi trường sống, theo môi trường sống, theo nhu cầu, nhu cầu, thẩm mỹ cá nhân. thẩm mỹ cá nhân.

Trang trí Trang trí trên áo dài theo nhu Trang trí trên sườn xám cũng cầu, thẩm mỹ cá nhân. Hình biến đổi theo thời gian. thức trang trí đa dạng như vải Chủ yếu theo nhu cầu, thẩm dệt sẵn họa tiết hay vải trơn có mỹ cá nhân. Hình thức trang trí thêu, đính kết… đa dạng như vải dệt sẵn họa tiết hay vải trơn có thêu, đính kết…

Bố cục tạo Bố cục tạo hình cân đối về Bố cục tạo hình cân đối về hình hình hình dáng và kết cấu. dáng và kết cấu. Áo dài mặc kết hợp với quần. Áo sườn xám là dạng áo váy, khi mặc để lộ chân. Bảng 4. So sánh thiết kế áo dài Việt và áo sườn xám Trung Hoa [NCS tổng hợp phân tích] Như vậy, nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt có sự khác biệt lớn với thiết kế áo dài phụ nữ của một số tộc người thiểu số ở Việt Nam, cũng như

158

áo sườn xám của phụ nữ Trung Hoa. Ở mỗi tộc người hay quốc gia trang phục/ áo dài thể hiện vai trò - chức năng và nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của con người trong xã hội. Kết quả của sự so sánh cho thấy áo dài của phụ nữ Việt có những tạo hình thiết kế thể hiện tư duy và thẩm mỹ độc lập, mang giá trị đặc trưng trong văn hóa mặc. Do đó khi bị tác động trong quá trình giao thoa văn hóa thì thiết kế áo dài vẫn biến đổi, nhưng là những biến đổi có chọn lọc nên không làm mất đi giá trị truyền thống. 3.4. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm của tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài 3.4.1. Thành tựu nghệ thuật thiết kế áo dài Chưa bao giờ áo dài lại trở lên đa dạng như xã hội hiện đại, áo dài xuất hiện dưới nhiều diện mạo mới về kết cấu, màu sắc và sự phong phú về tính trang trí cũng như sự đa dạng trong môi trường sử dụng. Áo dài trở thành những bộ lễ phục sang trọng trong những buổi giao lưu văn hóa và là một dạng trang phục không thể thiếu trong các cuộc thi nhan sắc trong nước và quốc tế. Đặc biệt hơn, áo dài đã trở thành những bộ trang phục rất gần với đời sống thường nhật trong các bộ phận cơ quan hành chính, sinh hoạt, học tập, vui chơi. Sự ra đời của áo dài hiện đại chính là một cuộc cải cách lớn trong văn hóa mặc của người Việt vào những năm 30 của thế kỷ XX, là khoảng thời gian mà xã hội vẫn còn tồn tại những tư tưởng phong kiến. Sự xuất hiện trào lưu văn hóa mặc áo dài, đánh dấu một sự thay đổi lớn về thẩm mỹ chung của xã hội, người ta mặc áo dài đi cùng với đó là để răng trắng thay thế hàm răng đen. Nhuộm răng đen được cho là chuẩn mực của cái đẹp và phổ biến trong xã hội phong kiến. Tóc buông dài hay cắt ngắn chứ không vấn đuôi gà và mặc áo dài cùng với quần trắng, đũng cao, ống thẳng. Đây thực sự là một hiện tượng cải cách văn hóa mặc hết sức mạnh mẽ, bởi hiện tượng này đã thay đổi hoàn toàn với văn hóa mặc truyền thống của thế kỷ trước. Đó chính là sự tiếp biến văn

159 hóa mặc, xảy ra theo nhu cầu phát triển tất yếu của xã hội trong bối cảnh giao lưu với những nền văn hóa tiên tiến hiện đại. Hưởng ứng trào lưu mặc áo dài trong xã hội đã trở thành những bộ đồng phục đại diện cho một tổ chức, một cộng đồng hay một nhóm người. Điển hình như đồng phục áo dài của hãng hàng không Vietnam Airlines hay đồng phục đến trường học của cả giáo viên và nữ học sinh, sinh viên. Đặc biệt hơn khi áo dài được xã hội quan tâm và trở thành những bộ trang phục xuất hiện trên các cuộc thi sắc đẹp, cuộc thi sáng tạo. Áo dài đã được những người nổi tiếng trong ngành giải trí lựa chọn khi tham gia các sự kiện văn hóa trong nước và quốc tế. Thông qua đó hình ảnh áo dài đã được nhiều người trên thế giới biết đến. Áo dài còn mang lại những giải thưởng cho các nhà thiết kế và cho những thiếu nữ trong các cuộc thi sắc đẹp. Đại diện cho giải thưởng danh giá dành cho

NTK, như NTK Minh Hạnh đã đoạt giải thưởng New Designer Award tại cuộc thi thiết kế Makuhari Grand Prix tại Nhật vào tháng 9-1997 và được phong tặng danh hiệu Chevalier of Culture and Art (Pháp) năm 2006 hay năm 2015 NTK nhận được giải thưởng văn hóa và nghệ thuật thuộc khuôn khổ Fukuoka Prize và năm 2016 đạt giải Asean Selection tại Thái Lan.; NTK Lan Hương đạt nhiều danh hiệu cho các bộ sưu tập áo dài, điển hình là năm 2015 Chủ tịch UBND (Ủy ban Nhân dân) Thành phố Hà Nội tặng danh hiệu “Nghệ nhân Hà Nội” - Nghề thiết kế may đo áo dài truyền thống, hay năm 2016 Lan Hương cũng được UBND Thành phố Hà Nội cho BST áo dài Cổng làng tham dự Festival Áo dài Hà Nội. Chính những giải thưởng đó đã truyền cảm hứng cho những nhà thiết kế áo dài trẻ, trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa mặc của người Việt Nam. Mỗi sự kiện giao lưu văn hóa quốc tế là cơ hội cho các NTK giới thiệu đến với bạn bè thế giới bộ sưu tập áo dài.

160

Trong các cuộc thi sắc đẹp, áo dài đã trở thành trang phục truyền thống mang lại vinh quang cho các người đẹp. Đầu tiên phải kể đến bộ áo dài của Mai Phương Thúy, cô đã lọt tốp 20 mặc trang phục dân tộc đẹp nhất cuộc thi Hoa hậu thế giới năm 2006 tổ chức tại thủ đô Warszawa của Ba Lan. Bộ áo dài được thiết kế cách điệu từ hình ảnh con Công, trang trí đính kết cườm nổi bật phần đuôi Công trên nền áo màu đen do NTK Việt Hùng thiết kế. Năm 2008 người đẹp Thùy Lâm tham ra cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ, cô mặc bộ áo dài mang tên Vũ khúc Hạc và lọt tốp 10 phần thi trình diễn trang phục truyền thống do NTK Thuận Việt thiết kế [PL4, H.4.39.a, tr 237]. Năm 2012, người đẹp Diễm Hương dự thi Hoa hậu Hoàn Vũ, cô mặc bộ áo dài lấy cảm hứng từ con Rồng Phương Đông kết hợp cùng với các họa tiết thổ cẩm đặc trưng của dân tộc Miền núi phía Bắc Việt Nam của nhà thiết kế Thuận Việt. Diễm Hương đã lọt tốp 10 phần thi trình diễn trang phục truyền thống. Bộ áo dài còn được trang web nổi tiếng Missosology bình chọn và lọt tốp 10 trang phục truyền thống đẹp nhất [PL4, H.4.39.b, tr 237]. Năm 2013, Á hậu Trương Thị May trình diễn bộ áo dài trang trí cách điệu từ họa tiết hoa Sen của NTK Thuận Việt trong cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ và lọt tốp 10 trang phục truyền thống đẹp nhất. Bên cạnh đó bộ áo dài đã được Missology bình chọn đứng đầu bảng xếp hạng bộ quốc phục đẹp nhất [PL4, H.4.39.c, tr 237]. Năm 2014, Đặng Thu Thảo trình diễn bộ áo dài mang tên Báu vật đại dương tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Bộ áo dài có tông màu trắng được trang trí đính kết nhiều ngọc trai, kim cương nhân tạo và đá quí. Với thiết kế tinh sảo và có giá trị nghệ thuật, bộ áo dài đã được lọt tốp 10 trang phục truyền thống đẹp nhất. Bên cạnh đó, người đẹp Cao Thùy Linh cũng trình diễn bộ áo dài tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế và lọt tốp 20 trang phục truyền thống đẹp nhất [PL4, H.4.39.d, tr 237].

161

Năm 2015, người đep Phạm Hương tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ thế giới. Người đẹp trình diễn 2 bộ áo dài lấy ý tưởng từ Chim Hạc và họa tiết Tre, lá Trúc đặc trưng của người Việt Nam đã gây ấn tượng trong cuộc thi [PL4, H.4.39.đ, tr 238]. Năm 2016, người đẹp Khả Trang trình diễn bộ áo dài tông màu vàng có nhiều họa tiết cách điệu và lọt tốp 10 trong phần thi trang phục truyền thống tại cuộc thi Miss Eco Universe [PL4, H.4.39.e, tr 238]. Áo dài đã trở thành sản phẩm có giá trị văn hóa mặc của người Việt, do đó để bảo tồn và phát huy những giá trị ấy, những thập niên gần đây thấy xuất hiện các cuộc thi liên quan trực tiếp đến áo dài như Duyên dáng áo dài, Hoa khôi áo dài Việt Nam, Tà áo dài tôi yêu, Vẽ áo dài trên giấy, Ảnh đẹp áo dài, … Ngoài ra trong các cuộc thi sắc đẹp đều có phần thi bắt buộc thí sinh mặc áo dài truyền thống như: Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu các Dân Tộc Việt Nam, Hoa hậu Hoàn Vũ Việt Nam, Hoa hậu Đại Dương… Áo dài còn là cầu nối những tâm hồn yêu cái đẹp như sự hình thành các câu lại bộ áo dài và đặc biệt hơn trong cuộc thi “Ảnh đẹp áo dài” trong khuôn khổ Lễ hội áo dài tại Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2015. Áo dài đã gắn kết những con người trong gia đình và xã hội thông qua 3 hình thức chính của cuộc thi, thứ nhất là “Áo dài gia đình” – là những người trong gia đình cùng mặc áo dài để chụp tạo nên những bức hình lưu niệm có giá trị thẩm mỹ. Thứ hai là “Áo dài nhóm”, tức là những người bạn cùng mặc áo dài, thứ 3 là “Áo dài cá nhân”. Như vậy những cuộc thi này đã thúc đẩy trào lưu mặc áo dài trong cộng đồng xã hội và gia đình. Áo dài trở thành đề tài sáng tạo trong các lễ hội / festival thường niên diễn ra ở các trung tâm thành phố lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội. Ở đây, áo dài được thiết kế, sáng tạo dựa trên nhiều ý tưởng độc đáo và mang nhiều phong cách khác nhau. Áo dài còn được phân loại/dòng theo

162 mục đích sử dụng như áo dài đời thường và áo dài trình diễn. Dựa vào mỗi dòng áo dài, NTK lại có những phong cách thiết kế khác nhau như: Thứ nhất là phong cách thiết kế áo dài ấn tượng, là phong cách tạo hình áo dài dựa trên nghiên cứu kết hợp hình dáng kết cấu áo dài với những ý tưởng thiết kế đặc trưng dân tộc để tạo nên phong cách ấn tượng. Điển hình như bộ áo dài của Trương Thị May mặc tại cuộc thi Miss Universe 2013 [PL 4, H.4.39, tr 237], bộ áo dài có hình dáng cách điệu, tà rộng dài quết đất, các mảng hình kết cấu theo chiều dọc thân áo. Màu sắc trên áo dài được phối màu cùng tông như đỏ đun, đỏ cam và vàng đồng. Họa tiết trang trí được khai thác ý tưởng từ hoa Sen và cách điệu họa tiết Sen cổ tạo nên bố cục cân đối và nổi bật. Hay bộ áo dài của người đẹp Thúy Vân mặc dự thi cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2015 [PL 4, H.4.39.ê, tr 238], áo được thiết kế hình dáng áo 2 tà cách điệu, phía sau được thiết kế đuôi tôm dài. Mẫu áo sử dụng gam màu vàng chủ đạo kết hợp với kỹ thuật thêu hình Rồng nổi và họa tiết vân mây, đặc biệt trên nền vải có đính 2000 viên pha lê tạo hiệu ứng sân khấu. Thứ 2 là phong cách cổ điển/ truyền thống: Áo dài được thiết kế chủ yếu dựa theo hình dáng tà rộng, kết cấu tay raglan, kết hợp với quần thẳng và đơn giản về họa tiết. Màu sắc thường là những gam màu trầm, đôi khi lại là những gam màu vô sắc như trắng và đen. Áo dài mang phong cách cổ điển được sử dụng thường xuyên trong môi trường công sở hay các dịp lễ hội truyền thống. Thứ 3 là phong cách lãng mạn: Áo dài dưới dạng phong cách lãng mạn thường sử dụng những chất liệu mỏng nhẹ như voan, lưới, ren hay kết hợp với cách điệu tạo tà kép và có màu sắc nhẹ nhàng như tông hồng nhạt, tông xanh lơ, và tông tím… những họa tiết hoa lá thiên nhiên thường được khai thác làm trang trí trên áo. Thứ 4 là phong cách thiết kế trẻ trung hiện đại: Đây là phong cách gây nhiều tranh cãi về những quan điểm thiết kế áo dài hiện đại. Bởi tạo hình áo dài

163 có tính chất cách điệu cao như tỷ lệ tà áo ngắn, tay áo ngắn hoặc sát nách không tay, đặc biệt áo dài thường thiết kế mặc với quần côn ôm sát cơ thể, chất liệu vải như denim hay vải dệt kim. Phong cách thiết kế áo dài hiện đại này được nhóm thanh niên/ giới trẻ yêu thích. Do đó ở các kỳ Festival áo dài gần đây cũng được một số các NTK khai thác như Tú Ngô, Xuân Hảo, Việt Hùng và Minh Hạnh (năm 2016 tại festival áo dài ở Hà Nội và Huế). Áo dài trở thành biểu tượng văn hóa quốc gia và đã trở thành một “sản phẩm du lịch” thu hút khách thăm quan làm tăng giá trị kinh tế. Đặc biệt, đã có cả cuộc hội thảo bàn luận về “Bảo tồn và phát huy giá trị áo dài truyền thống trong phát triển trong du lịch” nhằm tìm hướng phát huy giá trị chiếc áo dài truyền thống để tạo sức hút riêng cho du lịch thủ đô, do Ban tổ chức tổ chức lễ hội Festival Áo dài Hà Nội 2016. Do đó những năm gần đây các thành phố lớn, trung tâm văn hóa tổ chức lễ hội áo dài như ở Cố đô Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và ở Hà Nội. Đặc biệt thường xuyên tổ chức và tạo phong trào mặc áo dài ở các tuyến phố đi bộ ở phố cổ vào dịp cuối tuần và những buổi giao lưu văn hóa khác. Như vậy qua gần 8 thập kỷ, nghệ thuật thiết kế áo dài đã đạt được những thành tựu đáng kể và tạo nên được những dấu ấn mạnh mẽ trong xã hội cũng như gây được ấn tượng với bạn bè quốc tế. Từ những chiếc áo dài mộc mạc giản dị, nay đã được các NTK sáng tạo với nhiều phong cách thiết kế khác nhau đã nên sự đa dạng về kiểu thức cho áo dài. Sự giao lưu các nền văn hóa trên thế giới đã thúc đẩy sự sáng tạo của các NTK trong quá trình nghiên cứu và mạnh bạo trong tư duy thiết kế tạo nên những sản phẩm áo dài, để áo dài thực sự trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ và văn hóa. 3.4.2. Hạn chế của sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào về sự tiếp biến trong nghệ thuật thiết kế áo dài, vẫn còn hạn chế về quan điểm thẩm mỹ trong thiết kế.

164

- Thẩm mỹ trong sử dụng chất liệu vải Chất liệu vải là một yếu tố quan trọng trong thiết kế áo dài. Khi xã hội phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp dệt vải đã tạo nên sự đa dạng về mẫu mã cũng như chủng loại, mang lại nhiều lựa chọn cho người thiết kế. Chính sự đa dạng đó lại tạo nên việc mất kiểm soát trong quá trình hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo những mẫu áo dài mới. Một số các nhà thiết kế mải mê với những sáng tạo và những xu hướng thời trang trên thế giới mà “hồn nhiên” áp dụng với thiết kế áo dài. Do đó những tạo hình thiết kế của áo dài đã có quá nhiều biến đổi. Những chất liệu vải mới như ren, lưới, voan có hiệu ứng bề mặt mỏng, thưa, chất liệu này khi ta nhìn vào có khả năng thấu màu sắc, hình dáng đối tượng bên dưới lớp vải đó. Do vậy khi thiết kế đa phần là được sử dụng phủ ngoài một lớp vải lót có màu tương thích, hay chỉ sử dụng thiết kế phần tay áo, và dùng phù trợ trang trí trên áo dài. Tuy nhiên, nhiều mẫu áo lại thấy dùng vải lưới mỏng là chính, thậm chí là không có vải lót [PL 4, H.4.41.b, tr 240]. Dẫn đến tạo hình trái ngược với thị hiếu thẩm mỹ dân tộc. Thiết nghĩ, áo dài vốn thanh lịch, duyên dáng và nền nã nhưng vẫn tạo sự gợi cảm, nữ tính cho người phụ nữ. Vậy có cần thiết phải dùng những chất liệu vải mỏng, thưa để may áo dài, khi người mặc để lộ rõ màu sắc, hình dáng của nội y. - Thẩm mỹ về khai thác ý tưởng tạo kết cấu và hoa văn trang trí áo dài Ý tưởng thiết kế có vai trò quan trọng trong việc sáng tạo nên những mẫu áo dài mới, tạo nên dấu ấn cá nhân cho mỗi người thiết kế. Tuy nhiên trong thiết kế áo dài (trang phục truyền thống của phụ nữ Việt), nếu người thiết kế không hiểu được hết ý nghĩa và giá trị văn hóa, tạo hình của áo dài thì dễ mặc phải những sai lầm và tạo nên những mẫu áo dài cách tân gây phản cảm. Thập niên gần đây, nhiều mẫu áo dài đã được thiết kế có biến đổi về các yếu tố tạo hình, tuy nhiên không phải yếu tố tạo hình nào biến đổi cũng được xã hội chấp

165 nhận. Đặc biệt như yếu tố hình dáng và kết cấu, những mẫu áo dài có kết cấu không tay, khoét hở lưng hay cắt cúp phần ngực hở vai là một ví dụ gây ôn áo dư luận trong xã hội ở những năm qua [PL 4, H.4.41.c, tr 240]. Bởi yếu tố hình dáng và kết cấu là dấu hiệu đặc trưng của tạo hình áo dài, và cũng là tiêu chuẩn quan trọng để nhận biết áo dài của phụ nữ Việt trong bối cảnh giao thoa văn hóa toàn cầu. Hay những biến đổi trong việc đưa trang trí lên áo dài cũng đang là một vấn đề mà xã hội quan tâm. Trong xu hướng tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống xưa, những mẫu thiết kế được khai thác từ ý tưởng dòng tranh thờ dân gian Hàng Trống được nhiều NTK lựa chọn và đạt được thành công đáng kể về nghệ thuật và mang ý nghĩa văn hóa. Tuy nhiên nếu chỉ để ý đến nghệ thuật mà không chú ý đến ý nghĩa và giá trị biểu tượng thì sẽ gặp phải những sai lầm đáng tiếc. Điều này bắt gặp trong một số mẫu áo dài của NTK Thuận Việt thiết kế bộ sưu tập áo dài mang tên Ngũ Hổ [PL 4, H.4.2, tr 217]. Cụ thể là việc lựa chọn hình ảnh và bố cục sắp đặt mảng hình trang trí được cách điệu từ hình ảnh chân dung “ông Hổ” đặt phía dưới tà áo. Xét về thẩm mỹ thì không có bình luận, nhưng xét về giá trị tượng trưng trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt thì không nên sử dụng biểu tượng đại diện một sức mạnh, sự linh thiêng và được tôn thờ… sắp đặt dưới tà áo của người phụ nữ, điều này gây phản cảm với một biểu tượng văn hóa của người Việt. Như vậy từ những hạn chế trên cho thấy, áo dài đã được coi như một sản phẩm thời trang dễ bị một số người lạm dụng, tùy tiện sáng tạo bất chấp những ranh giới về thẩm mỹ và văn hóa, biến áo dài có tạo hình lai tạp với các trang phục khác. Họ đã mải mê sáng tạo những ý tưởng với mong muốn tạo sự độc đáo, lạ mắt mà quên đi sự tinh tế trong tạo hình kết cấu và hình dáng. Phụ nữ Việt sử dụng áo dài rất tinh tế, hợp lý theo môi trường, theo mùa thời tiết, khí hậu. Chất liệu vải hợp với thời tiết, mùa đông sử dụng chất liệu vải dày mềm

166 hơn nhưng không cứng. Mùa nóng thường dùng là chất liệu mềm, thoáng mát đủ để tạo độ bay nhẹ khi người mặc chuyển động. Do đó các nhà thiết kế cần thấu hiểu để sáng tạo, thiết kế áo dài vừa tôn vinh được thẩm mỹ dân tộc nhưng vẫn phù hợp với thẩm mỹ hiện đại. Hay với việc khai thác yếu tố trang trí cũng cần phải tiết chế những tạo hình trang trí, đủ để làm nên giá trị nghệ thuật, và tôn vinh được nét duyên dáng, thanh lịch cho người mặc. 3.4.3. Bài học kinh nghiệm của tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài trong bối cảnh toàn cầu hóa Thiết kế áo dài đã trải qua nhiều dấu mốc quan trọng, từ kiểu “quần chân áo chít” tiếp thu từ trang phục của phụ nữ thời Mãn Hán, được người Việt biến đổi thành kiểu áo dài năm thân cổ đứng. Kiểu áo này gắn bó với phụ nữ Việt qua nhiều thế kỷ, nhưng khi tiếp xúc với văn minh Phương Tây, nó lại được biến đổi về kết cấu và hình thành nên áo dài hai tà như ngày nay. Như vậy từ trong quá khứ, áo dài đã tiếp thu - biến đổi trên cơ sở chọn lọc, sáng tạo của ông cha ta để dần hình thành nên một bản sắc dân tộc trong văn hóa mặc. Bản sắc văn hóa mặc đó được hình thành từ những kinh nghiệm sống trên cơ sở môi trường thiên nhiên, địa lý, khí hậu, tôn giáo tín ngưỡng và đặc biệt những tiếp thu cái mới trong quá trình giao thoa giữa các nền văn hóa. Những yếu tố này được dung hòa với nhau để hình thành nên giá trị truyền thống và bản sắc. Sự tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài ở giai đoạn từ những năm 1930 đến năm 2017 đã cho chúng ta nhiều bài học quí giá. Bài học đó là: Sự tiếp thu có chọn lọc được dựa trên cơ sở thẩm mỹ và đặc điểm nhân trắc của phụ nữ Việt, được rút ra từ quá trình giao lưu tiếp biến. Áo dài của phụ nữ Việt đã trải qua nhiều lần biến đổi từ hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí. Sau mỗi lần tiếp thu đã dần hình thành nên sự chuẩn mực cho áo dài. Bởi quá trình tiếp thu đó đã được chọn lọc

167 những yếu tố tạo hình phù hợp với văn hóa, môi trường sống, thẩm mỹ và đặc điểm nhân trắc của cơ thể phụ nữ Việt. Ở lần tiếp thu thứ nhất, áo dài đã có kết cấu cổ đứng ôm khít thay cổ cài chéo giao lĩnh. Kiểu cổ này đã tồn tại cho đến ngày nay và hình thành phong cách thiết kế truyền thống, nó khá phù hợp với văn hóa mặc kín đáo, ý nhị của phụ nữ Việt yêu thích giá trị truyền thống. Lần tiếp thu ở giai đoạn từ năm 1930 đến 1980, những phương pháp thiết kế trang phục của Phương Tây đã tác động hình thành nên những mẫu áo dài được thiết kế vừa vặn với số đo, nhân trắc của từng cơ thể người mặc. Hay khoa học công nghệ - kỹ thuật hiện đại đã tạo nên những mẫu áo dài đa dạng về chất liệu vải, về màu sắc và tính trang trí. Cũng chính giai đoạn này áo dài đã có những tiếp thu và biến đổi khá tinh tế, đặc biệt tạo hình áo dài của những năm 1940 – 1960 đã có những chuẩn mực về hình dáng, kết cấu phù hợp với nhân trắc cơ thể và thẩm mỹ dân tộc. Tiếp thu ở giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017 được biểu hiện khá đa dạng. Như những năm 1980, 1990 áo dài được tạo hình tương đồng về hình dáng và kết cấu với tạo hình áo dài những năm 1940 – 1950. Tuy nhiên trên cơ sở hình dáng và kết cấu các NTK đưa nghệ thuật trang trí lên áo dài tạo nên diện mạo mới. Nhưng từ những năm 2000 đến 2017, các NTK đã có nhiều những sáng tạo mới về hình dáng, kết cấu, màu sắc và trang trí. Đặc biệt những sáng tạo đó đã hình thành nên những xu hướng, phong cách thiết kế áo dài khác nhau. Cùng từ đây thiết kế áo dài đã được nhiều người trong xã hội quan tâm, đánh giá, có những đánh giá tích cực những cũng không ít lời chê bai. Vậy quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa là một hình thức học tập của những nền văn hóa mới, văn minh hiện đại và những tiến bộ của thế giới. Những cái hay, cái tốt phù hợp với văn hóa, và tạo sự phong phú cho văn hóa của dân tộc thì học hỏi. Còn cái không hay, không phù hợp cần được nghiên cứu rút

168 kinh nghiệm và tránh mắc phải. Vì thế ông cha ta đã áp dụng thành công và tiếp thu những cái hay, cái tốt để hình thành một bản sắc văn hóa dân tộc mà ngày nay chúng ta đang rất tự hào. Những năm gần đây qua một số sự kiện văn hóa diễn ra trong xã hội như các kỳ Festival Áo dài, sự kiện âm nhạc, giới thiệu quảng bá thương hiệu, điện ảnh,… và các hoạt động văn hóa khác ở một số trung tâm lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cho thấy rõ quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa. Quá trình này không chỉ diễn ra trong văn hóa mặc nói chung và trong thiết kế áo dài nói riêng. Sự tiếp nhận những công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong dệt vải, tạo màu sắc, tạo hoa văn trang trí và những phương pháp thiết kế … đã được các NTK vận dụng thành công trong nghệ thuật thiết kế áo dài. Sự xuất hiện các chất liệu vải mới trong nền công nghiệp thời trang được các NTK khai thác sáng tạo những mẫu áo dài có giá trị nghệ thuật và tạo nhiều dấu ấn trong xã hội cũng như trên thế giới. Tuy nhiên trong xã hội tồn tại thực tế về nhận thức của giới trẻ và sự hưởng ứng thị hiếu mặc của giới trẻ, phần là do yếu tố thương mại mà một số NTK, thợ may đã thiết kế những mẫu áo dài lai tạp, dễ dẫn đến những hiểu lầm, nhìn nhận chưa đúng về giá trị văn hóa của áo dài. Điển hình cho vấn đề này là sự kiện mặc trang phục được cách tân từ áo dài của giới trẻ vào dịp Tết năm Đinh Dậu 2017. Hiện trạng này đã gây ra những tranh luận trên nhiều kênh truyền thông như internet – báo điện tử, mạng xã hội - facebook và đặc biệt trên các chương trình truyền hình quốc gia về việc xác định đúng giá trị tạo hình/ hình dáng, kết cấu, họa tiết hoa văn và đặc biệt là xác định áo dài phối hợp mặc cùng với quần hay với váy xòe ngắn. Đa phần các chuyên gia, nhà nghiên cứu, và các NTK đều có những đánh giá, bình luận không đồng ý với cách mặc này. Nhà thiết kế Minh Hạnh đã có những bình luận về những cách tân từ áo dài truyền thống trên báo điện tử như sau:

169

Câu chuyện của những phản ứng nhiều chiều trong Tết Đinh Dậu vừa qua tôi cho là mang tính tích cực… trong sự phấn khích đó thì xuất hiện một loại áo dài nhưng rất ngắn phối với những chiếc váy xòe cũng ngắn đến đầu gối. Chính sự kết hợp mang tính “hưng phấn”, khá lập dị dẫn đến sự biến dạng của áo dài và dĩ nhiên không giữ được vẻ đẹp chính thống của áo dài nữa [125]. NTK cho rằng những phấn kích mang tính tự phát là do những người mặc hay một số người thiết kế quá dễ dãi trong nghiên cứu, phải chăng là họ chạy theo một thị hiếu thẩm mỹ hời hợt dẫn đến hiện trạng như vậy. Vẫn biết để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của xã hội, các NTK đã không ngừng sáng tạo, tìm kiếm những ý tưởng nhằm đưa ra những mẫu thiết kế áo dài có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Tuy nhiên để những sáng tạo trong thiết kế ấy phù hợp với văn hóa truyền thống của người Việt, thì các NTK cần chọn lọc, nghiên cứu những giá trị văn hóa truyền thống và kết hợp hài hòa những yếu tố hiện đại để tạo nên tính nghệ thuật cho áo dài. Bên cạnh những tiếp thu tích cực thì vẫn còn những tiếp thu chưa phù hợp với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, từ bài học này cho thấy quá trình giao lưu tiếp biến trong văn hóa đã, sẽ và luôn xảy ra, nhất là trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu như hiện nay. Vì thế mỗi người trong xã hội, đặc biệt các NTK thời trang, thiết kế áo dài cần có một bản lĩnh, một trình độ, nhận thức những giá trị tốt đẹp để tiếp thu và làm giàu thêm bản sắc văn hóa mặc của người Việt. Tiểu kết Nội dung chương 3 đề cập đến những bàn luận về tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài. Đầu tiên đó là sự độc đáo trong nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt cũng đã được NCS phân tích thông qua những đối sánh với thiết kế áo dài của phụ nữ các tộc người Thái, Tày, Chăm và đặc biệt với áo sườn

170 xám của Trung Hoa. Khi đối sánh NCS nhận thấy các yếu tố tạo hình và nghệ thuật thiết kế của áo dài phụ nữ Việt có quá nhiều điểm khác biệt với các tộc người trên và áo sườn xám. Những kết luận trong chương còn có giá trị khẳng định về nguồn gốc của áo dài, là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất mà NCS đặt ra. Nội dung tiếp theo là những nhận định về giá trị của sự tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Sự sáng tạo không ngừng của các NTK trong những thập niên qua đã đem lại nhiều thành công trong nghệ thuật thiết kế áo dài. Đã có nhiều bộ sưu tập áo dài ra đời theo những phong cách thiết kế khác nhau, từ mẫu áo dài có màu sắc trắng – đen giản dị cho đến những mẫu áo dài có màu sắc sặc sỡ theo lối trình diễn nghệ thuật ấn tượng… tất cả đều được người thiết kế nghiên cứu có chủ đích cho từng đối tượng cụ thể. Đó chính là tính khoa học trong sáng tạo, thiết kế áo dài. Điểm đặc biệt là xu hướng đưa nghệ thuật trang trí vào thiết kế áo dài hay những thẩm mỹ phối màu sắc mới đã để lại dấu ấn mạnh mẽ, đưa những sản phẩm áo dài trở thành những tác phẩm nghệ thuật. Ngoài những thành công trên, còn tồn tại những hạn chế cũng đã được NCS đề cập tới trong nội dung chương. Những hạn chế trong thiết kế áo dài của các NTK, thợ may đa phần là do sự sáng tạo quá đà, chạy theo lợi nhuận và hạn chế về kiến thức văn hóa dân tộc. Do đó dẫn tới những sáng tạo còn xa rời với thẩm mỹ truyền thống dân tộc. Từ những hạn chế sẽ là những bài học kinh nghiệm cho sự sáng tạo, thiết kế áo dài của những người làm thiết kế trong quá trình giao lưu tiếp biến hiện nay, cũng như góp vào việc định hướng tuyên truyền cho thế hệ trẻ trong nước về giá trị thẩm mỹ, văn minh tiên tiến. Cùng với đó là quảng bá hình ảnh đất nước con người trong niềm tự hào vinh danh áo dài phụ nữ Việt đối với bạn bè quốc tế.

171

KẾT LUẬN Với nội dụng của luận án, NCS đã đề cập tới một số yếu tố liên quan đến nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt và sự tiếp biến trong thiết kế từ những năm 1930 đến năm 2017. Luận án áp dụng các lý thuyết nghiên cứu (thuyết giao lưu tiếp biến, thuyết Trung tâm và Ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa, thuyết bắt chước) và phương pháp nghiên cứu (phương pháp thu thập tư liệu, phương pháp điền dã, phương pháp so sánh và liên ngành) để đưa ra những luận điểm, tính mới trong nghiên cứu về sự tiếp biến thiết kế áo dài. Từ đó chỉ ra các mối quan hệ có vai trò mật thiết trong văn hóa mặc nói chung và trong thiết kế áo dài nói riêng. Luận án đã trả lời được những câu hỏi nghiên cứu, đồng thời cũng là những câu hỏi mà trong xã hội mọi người vẫn có nhiều băn khoăn về nguồn gốc của áo dài. Bằng phương pháp nghiên cứu điền dã, vẽ khảo tả hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải, tính trang trí… cũng như nghiên cứu các nguồn tư liệu trong và ngoài nước thì NCS đã khẳng định rằng: Tạo hình thiết kế áo dài không bị ảnh hưởng áo dài của người Chăm hay có nguồn gốc từ áo sườn xám của người Trung Hoa. Đồng thời cũng là những sáng tạo độc lập với tạo hình áo dài của tộc người khác. Bởi áo dài chính là sản phẩm của tư duy thẩm mỹ, tư duy sáng tạo gắn liền với đời sống, nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ Việt. Trong diễn trình hình thành và phát triển, áo dài đã trải qua 4 lần tiếp thu và biến đổi, dù là hình thức thiên cưỡng hay tự nguyện, cho đến nay áo dài đã có được những chuẩn mực về hình dáng và kết cấu. Mỗi giai đoạn lịch sử, áo dài có những tiếp thu và biến đổi phù hợp với hoàn cảnh chính trị xã hội, và nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của con người trong xã hội. Luận án đã chia thành 2 giai đoạn tiếp thu và biến đổi, đó là từ những năm 1930 đến 1980 và từ sau năm 1980 đến 2017. Ở mỗi giai đoạn, áo dài được tiếp thu những tư duy sáng tạo

172 dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ, kỹ thuật theo xu thế chung của thế giới như kỹ thuật dệt vải, công nghệ nhuộm màu, công nghệ in… đặc biệt là tiếp thu phương pháp thiết kế trang phục vào thiết kế áo dài. Từ những tiếp thu đó, áo dài đã được biến đổi hình thành nên sự đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí phù hợp với văn hóa, thẩm mỹ của phụ nữ Việt đương thời. - Thiết kế áo dài đã có nhiều biến đổi khi người Việt được tiếp xúc với nền văn hóa Phương Tây. Những họa sỹ, nhà tạo mẫu và người thợ may đã tiếp thu những tư tưởng văn hóa, khoa học kỹ thuật của nền văn minh tiên tiến hiện đại vào thiết kế áo dài. Điều đó được biểu hiện qua tư duy và thẩm mỹ trong thiết kế áo dài ở những năm 1930 đến 2017. Hay nói cách khác, chính những tư tưởng văn minh của Phương Tây đã góp phần hình thành tư duy thẩm mỹ thiết kế áo dài hiện đại. Cùng với sự phát triển của xã hội, và sự giao thoa nền văn hóa các quốc gia, áo dài sẵn sàng tiếp nhận những tinh hoa văn hóa mới tạo nên sự đa dạng, phong phú. Sự tiếp xúc với các nền văn hóa còn tác động đến những thay đổi trong tư duy và quan niệm thẩm mỹ của người tiêu dùng trong xã hội. Những khuôn mẫu mang tính phổ biến trong phạm vi hạn hẹp của cộng đồng trước đó, nay thay vào những sản phẩm áo dài mang tính cá nhân, đề cao cái tôi, với một vẻ đẹp năng động, khỏe gọn của người phụ nữ hiện đại. Từ những biến đổi trong xu hướng thẩm mỹ, nên đã hình thành những xu hướng thiết kế áo dài khác nhau để đáp ứng những tiêu chí đa dạng “tân tiến” của con người trong xã hội đương thời. - Nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt, đã bị tác động của quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa do đó các yếu tố tạo hình đều có xu hướng biến đổi. Biến đổi nhiều nhất đó chính là những yếu tố về: Màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí trên áo dài. Đó là những yếu tố bị tác động mạnh bởi sự phát triển

173 của khoa học công nghệ và kỹ thuật. Đây cũng là nội dung câu trả lời cho câu hỏi thứ 3 của luận án. Vậy nghệ thuật thiết kế áo dài là sự kết hợp giữa yếu tố khoa học công nghệ, kỹ thuật với các yếu tố tạo hình trong mỹ thuật Châu Âu. Sự kết hợp này đã làm nên giá trị mới cho áo dài, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, thẩm mỹ của phụ nữ hiện đại. - Nghệ thuật thiết kế áo dài ở giai đoạn từ sau năm 1980 đến 2017, cho thấy yếu tố trang trí có vai trò không nhỏ trong tạo hình thiết kế áo dài. Bởi yếu tố trang trí chính là phương tiện chủ đạo thể hiện ý tưởng thiết kế của các nghệ nhân và NTK. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật và những kỹ thuật thể hiện, trang trí trên áo dài thể hiện với nhiều sắc thái khác nhau. Đôi khi là cách điệu hoặc tả thực, cùng kỹ thuật là thêu, đính kết hoặc in, vẽ… nhưng tất cả đều được người thiết kế nghiên cứu, tiết chế sắp đặt trên áo dài, dựa vào những nguyên lý cơ bản của hội họa về đường nét, mảng khối, màu sắc… như một tác phẩm nghệ thuật mà còn mang được dấu ấn sáng tạo cá nhân. Như vậy với những nội dung và luận cứ nghiên cứu trên, luận án sẽ góp phần làm nguồn tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa, và một số lĩnh vực có liên quan đến lý luận về mỹ thuật ứng dụng… Hơn nữa nó giúp cho việc tìm hiểu chuyên sâu về mạch nguồn văn hóa mặc từ truyền thống đến hiện đại trong lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật thiết kế áo dài của phụ nữ Việt. Nội dung của luận án bước đầu đã cho ra những kết quả nghiên cứu có giá trị nhất định về Nghệ thuật học, Lý luận và Lịch sử mỹ thuật. Tuy nhiên trên cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu, NCS mong muốn là sẽ có những khảo sát trong phạm vi không gian rộng hơn nữa ở những thành phố lớn trong cả nước, để thấy được toàn cảnh về quá trình tiếp biến nghệ thuật thiết kế áo dài từ những năm 1930 đến nay. Bởi điều này có giá trị rất lớn không chỉ về lịch sử nghệ thuật mà nó còn có giá trị về văn hóa mặc của dân tộc.

174

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Nguyễn Thị Loan (2018), “Quan điểm thẩm mỹ trong thiết kế áo dài ở thế kỷ XX”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 408, tr 72 – 75 và 87. 2. Nguyễn Thị Loan (2018), “Những yếu tố tác động đến nghệ thuật thiết kế Áo dài hiện đại”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên khoa học của nghiên cứu sinh 2017, Nxb Thế giới, tr 345 -362. 3. Nguyễn Thị Loan (2019), “Đặc điểm nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại của phụ nữ Việt” Kỷ yếu Hội nghị nghiên khoa học của nghiên cứu sinh 2018, Nxb Thế giới, tr 429 - 439. 4. Nguyễn Thị Loan (2019), “Tiếp thu và biến đổi trong nghệ thuật thiết kế áo dài hiện đại của phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 426, tr 46 -49.

175

CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ 1. Các thuật ngữ Áo tứ thân: Là loại áo được may bằng bốn khổ vải, hai khổ phía sau nối lại ở dọc mép làm thành thân áo sau, hai khổ phía trước buông thả hai vạt. Vạt trước và vạt sau được may ghép nối với nhau đến điểm eo, đây cũng là điểm mở tà hay còn gọi xẻ tà. Áo năm thân: Là áo ra đời sau áo dài tứ thân, xuất hiện ở trong cung đình trước khi phổ biến ngoài dân gian. Kết cấu áo giống áo tứ thân, nhưng có một thân áo thứ 5 được may chồm, đè nên 1 thân áo chính, đó là điểm giao giữa 2 lớp vải của 2 thân áo. Cổ áo đứng ôm khít. Áo giao lãnh: Áo có kết cấu năm thân, cổ áo có nẹp cài chéo sang bên, áo được sử dụng phổ biến trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Áo giao lãnh được coi là khởi nguyên cho áo dài năm thân. Áo dài Miniraglan: Áo có kết cấu 2 thân tà ngắn (ngang gần vị trí điểm khớp gối), mini là từ tách trong miniskirts tên của một phong trào mặc váy ngắn ở Phương Tây và được gọi ghép với áo dài, khi áo dài có thân ngắn. Thân áo được thiết kế kích thước vừa vặn với kích thước cơ thể kết hợp với 2 đường ly ở thân trước, 2 ly ở thân sau và kết cấu tay raglan. Áo dài đời thường: Là một những mẫu áo dài sử dụng trong môi trường hoạt động hàng ngày. Do đó tạo hình về hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí được thiết kế phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng người trong xã hội và đặc biệt những thiết kế áo dài đề cao tính ứng dụng, tạo sự thuận tiện trong sinh hoạt, công việc. Áo dài trình diễn: Là nhưng mẫu áo dài sử dụng trong môi trường lễ hội hiện đại (các buổi ra mắt thương hiệu, lễ trao giải thưởng lớn về nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc…), sàn diễn thời trang, áo dài mặc trong lễ cưới hay trong các cuộc thi nhan sắc. Do đó tạo hình về hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu

176 vải và tính trang trí được thiết kế phù hợp với không gian lễ hội có nhiều ánh sáng và màu sắc rực rỡ. Áo dài trình diễn được thiết kế đề cao tính nghệ thuật hơn tính ứng dụng nhằm tạo sự thu hút thị giác. Bộ sưu tập áo dài: Bộ sưu tập là một khái niệm đặc thù chỉ đến hoạt động thiết kế, sáng tạo trong nghệ thuật nói chung và trong thiết kế áo dài nói riêng. Đó là sự thống nhất về ngôn ngữ tạo hình, trong bộ sưu tập áo dài có nhiều mẫu thiết kế cùng chung phong cách, tông màu, hình dáng, chất liệu vải và tính trang trí. Tuy nhiên mỗi mẫu áo dài lại có khác biệt về cách sắp đặt bố cục của các yếu tố tạo hình, tạo nên sự đa dạng trong sáng tác. Thiết kế thời trang: Là sự sáng tạo, thiết kế hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu… hình thành trang phục, bao gồm cả phụ trang. Thiết kế thời trang nằm trong hệ thống Mỹ thuật ứng dụng, được phát triển cùng với sự ra đời của chủ nghĩa Bauhaus. Nhà thiết kế thời trang: Là người được đào tạo những kiến thức về mỹ thuật, văn hóa truyền thống dân tộc, về thẩm mỹ trong tạo hình và những kiến thức liên quan đến các chất liệu, thiết kế bản vẽ, kỹ thuật cắt may... Do đó nhà thiết kế thời trang có vai trò quan trọng trong định hướng thẩm mỹ và nghệ thuật trong đời sống văn hóa mặc của con người. Nhà thiết kế thời trang sáng tạo ra những mẫu thời trang đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, công năng sử dụng trang phục của con người. Cách tân: Cách tân thường chỉ tới sự đổi mới trong văn hóa, nghệ thuật. Cách tân là những sáng tạo mang tính mới trên cơ sở cũ. Cách tân có thể biến đổi dần dần hoặc chuyển hẳn sang một hướng khác mang lại giá trị mới. Áo dài cách tân là những biến đổi về hình dáng, kết cấu, màu sắc, chất liệu vải và tính trang trí trên cơ sở tạo hình áo dài truyền thống. Những cách tân đó nhằm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của con người trong xã hội.

177

Cải tiến thiết kế áo dài: Cải tiến là những thay đổi mang chiều hướng tốt hơn cái cũ. Cải tiến thiết kế là những thay đổi về nguyên liệu (trong dệt vải, tạo màu sắc, trang trí…) và phương pháp, kỹ thuật, nhằm tạo sự thuận lợi trong sử dụng nhưng không làm mất đi giá trị thẩm mỹ và văn hóa của áo dài. Ngày nay những chất liệu vải mới như vải voan mềm, chiffon…, vải dệt kim được sử dụng phổ biến trong thiết kế áo dài, bởi những chất liệu vải này có độ bền, dễ giặt, không phai màu... mang lại cảm giác dễ chịu cho người mặc. Đặc biệt việc sử dụng khóa kéo thay thế cho khuy, dây buộc đã tạo thuận lợi cho người mặc, bởi khóa kéo mang lại sự chắc chắn, thao tác nhanh, đồng thời cũng mang lại thẩm mỹ cho áo dài. Phong cách: là “1 Những lối sống, những cung cách sinh hoạt, xử sự tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó… 2 Những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của một nghệ sĩ hay trong các sáng tác nói chung thuộc cùng một thể loại (nói tổng quát) phong cách của một nhà văn, phong cách văn học nghệ thuật …” [57]. Theo Từ điển Mỹ thuật, phong cách (style) là “ cá tính của từng tác giả được biểu hiện lên tác phẩm qua toàn bộ những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm (nét bút, màu sắc, hình khối, đậm nhạt…). Phong cách phản ánh cảm xúc, tâm tính, trí tuệ, tài năng và quá trình lao động nghệ thuật của tác giả…” [50]. Phong cách thời trang: Là thể hiện tư duy và thẩm mỹ về tạo hình trang phục, phụ trang của người mặc hay của NTK thời trang. Nó có tính nhất quán, xuyên suốt và bền vững. Như các phong cách: thời trang lãng mạn, trẻ trung hiện đại, thể thao và cổ điển… Xu hướng: là “1. Sự thiên về một hướng nào đó trong quá trình hoạt động. 2. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài” [57]. Xu hướng thời trang: Là chỉ sự thiên hướng về một tạo hình trang phục,

178 phụ trang đã, đang và sắp diễn ra trong một thời gian nhất định. Xu hướng thời trang có những đặc tính như tính chu kỳ và tính lan truyền. 2. Các yếu tố tạo hình trong thiết kế * Hình khối, hình dáng và đường nét: Hình khối trong không gian được nhận biết bởi sự chiếm chỗ của vật thể, qua đó ta có thể nhận biết hình dạng, tỷ lệ và cấu trúc của khối. Theo Từ điển Mỹ thuật phổ thông: “Hình dáng được dùng để chỉ một vật, đường nét hay mảng màu tương đương với dáng vẻ cấu trúc của đồ vật đó trên tranh hoặc tượng. Thuật ngữ “Hình dáng” còn được dùng chỉ hình thức của vật thể, đường nét hay mảng màu, khối hình trong không gian hoặc trong tranh, tượng” [50]. Hình dáng trang phục được xác định trên cơ sở hình khối cơ thể người. Cơ thể người là sự kết hợp hoàn hảo từ cấu tạo của hệ xương và hệ cơ. Khung xương là giá đỡ cơ thể, các khớp là then chốt của sự vận động cơ thể, hệ cơ bao phủ bên ngoài các khớp và khung xương, quyết định kích thước của cơ thể. Cơ thể người được chia làm 3 phần chính: Phần đầu, phần thân và phần chi, mỗi phần có hình dạng, hình khối và chức năng đặc trưng kết hợp với nhau. Đây chính là cơ sở hình thành hình dáng và kết cấu trang phục. Đường nét là (line): Là “đường hiện lên ở trong tranh rõ ràng, đứt đoạn hoặc liên tục, dùng để phác hình, viền hình, xác định hình…” [50]. Thiết kế thời trang nói chung và thiết kế áo dài nói riêng, đường nét là yếu tố quan trọng và có vai trò tạo nên đường kết cấu, hình dáng của trang phục. Đó là những đường liên tục nối với nhau tạo thành hình dáng và mảng kết cấu. Ngoài ra, trên trang phục còn tồn tại đường nét trang trí, đó cũng có thể là đường liên tục, đứt đoạn... Đường nét kết cấu: Là những đường viền bao ngoài như đường giới hạn độ rộng thân, tay áo và những đường chiết ly tạo nên hình dáng của trang phục.

179

Đường nét trang trí: Là đường nét được người thiết kế đưa vào để tăng hiệu quả thẩm mĩ của trang phục, đồng thời thể hiện giá trị văn hóa trang phục. Hiệu quả của việc sử dụng đường nét hợp lý trong thiết kế trang phục đã được tác giả Roremaree Murray chỉ ra như sau: “a. Đường kẻ càng dài, to hay được nhắc lại càng nhiều thì ảnh hưởng của nó tới toàn bộ thiết kế càng lớn. b. Nếp gấp (xếp ly) tạo ra nhiều nét, có tác dụng làm cho vóc dáng nhìn đậm hơn. c. Nếu chất liệu có quá nhiều đường kẻ (vải kẻ sọc), nên tối giản đường nét trên trang phục càng tốt” [61]. Sự kết hợp đường nét và chất liệu vải cũng tạo nên hiệu quả ảo giác độc đáo. Với những người gầy, thường thấy các NTK sử dụng chất liệu vải mềm, rủ kết hợp với kỹ thuật xếp ly, đánh rúm tạo cảm giác hài hòa cho người mặc. Ngược lại người béo thường sử dụng chất liệu vải không quá mềm hay quá cứng và kết hợp hài hòa với các đưởng kẻ sọc hay đường ly chiết dọc thân. * Màu sắc: Theo lý thuyết khoa học, màu sắc thông qua ánh sáng tác động trực tiếp đến thị giác của con người, giúp con người có thể phân biệt và nhận biết đối tượng. Màu sắc còn cho ta cảm giác như nhìn vào màu đỏ cảm giác nóng, màu xanh cảm giác mát. Màu sắc có những thuộc tính như: sắc tố, màu cơ bản, màu gốc và có tên gọi rõ ràng: xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, đen... Màu sắc còn thể hiện ý niệm và quan điểm, tín ngưỡng nhân sinh. Màu sắc có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của con người, màu sắc là tín hiệu nhận biết mọi vật trong thế giới quanh ta, màu sắc còn là những biểu hiện văn hoá, cảm xúc của con người trong xã hội. Thiết kế thời trang vốn là ngành nghệ thuật có tính biểu hiện. Màu sắc có ý nghĩa quan trọng, bởi màu sắc được cảm nhận trước tiên, sau đó đến kiểu dáng, chất liệu… Con người cảm nhận màu sắc thông qua thị giác và tạo nên những cảm xúc khác nhau, tác giả Lê Huy Văn cho biết: Màu đỏ dễ kích thích, gây nên sự ấm áp, sống động, tích cực, tạo

180

nghị lực, hình thành các liên tưởng; màu da cam đem lại cảm giác vui tươi, yêu đời, bốc lửa; màu vàng thì ấm áp, tươi vui, lôi cuốn; màu xanh lá cây lại yên tĩnh, gây cảm giác dễ chịu, đem lại nhiều liên tưởng; màu xanh sẫm gợi nên sự an tâm, nghiêm túc, đầy yêu thương, buồn rầu, ghen tuông, đa cảm; màu tím hợp nhất tác dụng của đỏ và xanh sẫm, đồng thời có tác dụng lôi cuốn, thể hiện sự khó chịu, đầy sức sống và cả sự ghen tuông, sầu muộn [90]. Lê Huy Văn còn cho biết thêm giá trị tác động màu sắc tới cảm xúc và năng xuất lao động của con người đã được 2 nhà nghiên cứu như Goethe, Ferret. Goethe nghiên cứu thấy màu đỏ và vàng tạo nên tâm trạng tích cực, màu xanh sẫm và tím thì ngược lại. Ferret lại nghiên cứu thấy khi có ánh sáng đỏ năng xuất lao động của con người tăng lên và giảm đi khi thấy ánh sáng xanh da trời nếu đang thực hiện một công việc ngắn hạn. Với công việc dài hạn lại thấy năng xuất đó tăng lên khi có ánh sáng màu xanh lá cây và giảm đi khi có ánh sáng xanh sẫm và tím [90]. Như vậy khi nhìn vào màu đỏ, vàng, cam có cảm giác nóng, rực rỡ và vui tươi. Màu xanh tạo cảm giác mát, nhẹ nhàng. Màu đen, ghi, tạo cảm giác huyền bí, bí ẩn nhưng hơi buồn, nghiêm túc. Chính những điều này đã tác động tới tư duy thiết kế của các NTK thời trang. Từ đó các NTK sử dụng màu sắc phù hợp với đối tượng, ngành nghề, lứa tuổi,… phong cách và cá tính của người tiêu dùng. Màu sắc vốn là phương tiện biểu đạt ý tưởng và nội dung của hội họa, màu sắc còn thể hiện tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo…của một dân tộc hay một thời kỳ lịch sử của xã hội. Mỗi khi thấy màu đỏ, màu vàng xuất hiện trong bộ sưu tập là gợi đến phong cách Baroc, hay màu đen là liên tưởng đến phong cách Gothik thời trung cổ… Thời phong kiến, màu sắc trang phục chịu sự chi phối của văn hóa, tôn giáo, điều lệ, qui định của nhà

181 nước. Nhưng từ thế kỷ XX đến nay (2017), quan niệm sử dụng màu đã thay đổi, màu sắc được sử dụng theo sở thích, trào lưu và thị hiếu thẩm mỹ… Tuy nhiên nó vẫn phát triển theo qui luật chung của xã hội. * Chất liệu vải: Chất liệu là vật liệu hay nguyên liệu để tạo ra sản phẩm. Trong thời trang chất liệu khá phong phú, vừa là nguyên liệu chính để tạo nên bộ trang phục đó là chất liệu vải. Ngoài chất liệu vải ra còn có các chất liệu khác như kim loại, nhựa, gỗ… dùng tạo các phụ kiện hay trang sức đi cùng trang phục. Chất liệu vải là được sản xuất từ những nguyên liệu từ sợi bông, đay, gai, và sợi hóa chất/ tổng hợp. Chất liệu lụa là được sản xuất từ tờ tằm tự nhiên. Tuy nhiên ngày nay lụa cũng được sản xuất từ những nguyên liệu tổng hợp nhân tạo được pha trộn với tơ tự nhiên. Mỗi chất liệu vải đều có những hiệu ứng thị giác đặc trưng, như chất liệu vải mềm, vải cứng, vải mỏng, trong suốt, vải dày, bóng, vải thô… Mỗi hiệu ứng đó lại tạo nên tính thẩm mỹ khác nhau. Do đó, tùy vào từng loại trang phục và ý tưởng sáng tạo, người thiết kế lựa chọn vải phù hợp để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ.

182

TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu Tiếng Việt 1. Đào Duy Anh (1993/1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp. 2. Đào Duy Anh (2013), dịch Cao Huy Giu, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời đại, theo bản in của NXB Khoa học và Xã hội năm 1971 -1972) 3. Nguyễn Thị Loan Anh (1992), “Mặc áo dài như thế nào cho đẹp”, Báo Khoa học và thời trang, chuyên đề Khoa học và đời sống, số 50 (885), tr 5. 4. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Trần Lâm Biền (2013), Con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 6. L. Cardiere (1997), “Thay đổi trang phục dưới thời Võ Vương hay là sự thay đổi tín ngưỡng vào thế kỷ XVIII”, Những người bạn Cố đô Huế, tập II – 1915, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr 403 - 412. 7. Laurie Schneider Adams (2006), Khám phá thế giới mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 8. Trần Khánh Chương (2012), Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 9. Phạm Thị Chỉnh (2007), Lịch sử mỹ thuật thế giới, Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội. 10. Cynthia Freeland (2010), dịch Như Huy, Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật, Nxb Tri thức, Hà Nội. 11. Denis Diderot (2016), dịch Phùng Văn Tửu, Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật, Nxb Tri thức, Hà Nội. 12. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. 13. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

183

14. Đặng Đức (2004), Nghệ thuật tạo hình dân gian, Văn hóa Việt Nam một chặng đường nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 398 -411. 15. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb Thế giới, Hà Nội. 16. Francoise Chaffin (2008), người dịch Nguyễn Đăng Châu, Thời trang - Tủ sách tri thức bách khoa bằng hình, Nxb Mỹ Thuật liên kết với Công ty Văn hóa Đông Á. 17. Helen Reynolds (2007), người dịch Nguyễn Xuân Hồng, Lịch sử thời trang váy áo, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 18. Hê Ghen (1999), Mỹ học - Tập 1+ 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 19. Cung Dương Hằng (2009), “Chiếc áo dài của phụ nữ Việt từ truyền thống đến hiện đại”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 4 (124), tr 34 - 44. 20. Cung Dương Hằng (2011), Mỹ thuật nữ phục truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 21. Trần Thu Hằng (1995), “Thời trang Ngân An nhuần nhuyễn tính dân tộc và hiện đại”, Báo Phụ nữ thủ đô, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam Thành phố Hà Nội, số 10 (222), tr 1 và 6. 22. Đinh Bá Hòa – Trương Hiền Mai (2012), Gốm cổ và hoa văn trên trang phục người Chăm, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 23. Đỗ Thị Hòa (2012), Trang phục các tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, Tày – Thái, Kađai. Nxb Văn hóa Dân tộc – Hà Nội. 24. Vương Kiến Huy (2004), dịch Học Kim, Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Nxb Thế giới, Hà Nội. 25. Phạm Thế Hùng (năm 1996), Chủ thể sáng tạo cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình. Luận án TS khoa học Triết học. 26. Đỗ Huy (2002), Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

184

27. Nguyễn Thị Kim Hương (2015), Văn hóa mặc truyền thống và xu hướng phát triển thời trang hiện đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 28. Đỗ Lan Hương (2000), Ảnh thời trang Việt Nam, Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam. 29. Immanet Kant (2015), Phê phán năng lực phán đoán (Mỹ học và mục đích luận), Bùi Văn Nam Sơn dịch, Nxb Tri Thức, Hà Nội. 30. Kandinsky (tái bản 2015), Về cái tinh thần trong nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 31. Lương Văn Kế (2013), Tiếp nhận văn hóa Âu – Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1858 – 1975, và Tiếp nhận văn hóa Âu – Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 32. Đỗ Văn Khang chủ biên, Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Thế Hùng, Đỗ Minh Thảo (2004), Mỹ học Mác – Lênin, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 33. Đỗ Văn Khang (2008), Nghệ thuật học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 34. Nguyễn Văn Kim (chủ biên) (2016), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 35. Larousse (2001), Con người và những phát minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 36. Diệp Lang (2014), Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc, Nxb Thế giới, Hà Nội. 37. Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị Chỉnh (2008), Mỹ thuật Học, Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội. 38. Hồng Liên (1995), “Chị em ta mặc áo dài”, Báo Phụ nữ thủ đô, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành phố Hà Nội, số 10 (222), tr 5 và 7. 39. Nguyễn Thị Kim Loan (2015) chủ biên, Giao lưu văn hóa Việt Pháp thời cận đại – qua dữ liệu văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.

185

40. Vương Hoằng Lực (2007), Nguyên lý hội họa đen trắng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 41. Hoa Mai (2013), dịch Tống Thị Quỳnh Hoa, Phục Sức Trung Quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 42. Henri Oger (2009), Kỹ thuật của người An Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. 43. Lâm Bá Nam (1999), Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 44. Nhiều tác giả (2006), Vùng Văn hóa quan họ Bắc Ninh. Nxb Viện Văn hóa Thông tin – Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh Hà Nội. 45. Nhiều tác giả (2014), Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong đổi mới, hội nhập, Nxb Văn hóa dân tộc – Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. 46. Nhà xuất bản Thế giới (2015), Nhiếp ảnh hiện thực và Việt Nam – cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. 47. Nhật Minh (1996), “Áo dài Việt Nam tâm hồn Việt Nam”, Báo Khoa học và đời sống, số 10 (1106), tr 12 và t 6. 48. Dương Vũ Ninh (chủ biên) (2001), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 49. Đặng Thị Bích Ngân (2006), Nghệ thuật là gì, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 50. Đặng Thị Bích Ngân (2012 ), Từ điển mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 51. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 52. Phan Ngọc (2001), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 53. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Văn hóa Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội. 54. Hữu Ngọc, Lady Borton (2006), Áo dài - Women’s long dress, Thế giới Publishers.

186

55. Hữu Ngọc (2014), “Chiếc áo dài – một thách thức đối với cụ Khổng”, Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr 775. 56. Phạm Thảo Nguyên (2018), Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay, Nxb Hồng Đức, Nhà sách Khai Tâm. 57. Hoàng Phê (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 58. Tuyết Phương (1992), “Nét đẹp riêng của phụ nữ Việt Nam”, Báo Khoa học và thời trang, chuyên đề Khoa học và đời sống, số 50 (885), tr 5. 59. Sigmund Freud (2015) (dịch Thân Thị Mận), Cái tôi và cái nó, Nxb Tri thức, Hà Nội. 60. Rebecca Arnold (2017), dịch Hải Ngọc, Dẫn luận về thời trang, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 61. Rosomaree Murray (Hữu Đức dịch 2003), “Các yếu tố và nguyên tắc cơ bản trong thiết kế thời trang”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số 3 (7). 62. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 63. Vũ Minh Tâm (2004), “Con người trong bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 8 (159) 64. Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Trung tâm Văn hóa Việt Nam. 65. Lê Thân (2013), “Ý tưởng trong nghệ thuật thiết kế”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 8 (14), tr 11- 15. 66. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 67. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

187

68. Ngô Đức Thịnh (2001), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 69. Ngô Đức Thịnh (2004), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 70. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 71. Phong Thu (1992), “Áo dài ơi!...”, Báo Hà Nội mới, số 187, ra ngày 11/10/1992, tr 3. 72. Hoàng Đạo Thúy (2000), Phố phường Hà Nội xưa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 73. Phan Cẩm Thượng (2014), Tô Ngọc Vân – Tấm gương phản chiếu xã hội Việt Nam 1906 - 1954, Nxb Tri thức, Hà Nội. 74. Phan Cẩm Thượng (tái bản 2016), “ Tấm áo manh quần”, Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr 373 – 403 và tr 558 – 650. 75. Đoàn Thị Tình (2002), “Áo dài phụ nữ Việt Nam” Tìm trong di sản Văn hóa Việt Nam Thăng Long - Hà Nội, Nxb Văn hóa – Thông tin, tr 135 - 142. 76. Đoàn Thị Tình (2010), Trang phục Thăng Long, Nxb Hà Nội. 77. Đoàn Thị Tình (2017), Tính dân tộc trong trang phục sân khấu, Nxb Sân khấu. 78. Vương Xuân Tình (2015), Các dân tộc ở Việt Nam tập 1+2, Nxb Chính trị Quốc gia. 79. Phạm Đăng Trí (2002), “Qua tà áo dài, thử tìm hiểu về thị hiếu màu sắc người Huế thủa trước”, Nghiên cứu Huế, Tập IV, tr 188. 80. Phạm Ngọc Trung (2007), “Trang phục các dân tộc, hiện đại và cách tân”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 9, tr 26. 81. Đăng Trường – Hoài Thu (2013), Trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

188

82. Chu Quang Trứ (2000), Văn hóa Mỹ thuật Huế, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 83. Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật, Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, tr 416 – 420. 84. Nguyễn Cát Tường (1934), “Y phục của phụ nữ”, Tạp chí Mỹ thuật, số 241, tr 46 -47 (Trích báo Phong Hóa số năm 1934). 85. Nguyễn Đình Tường (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa”, Tạp chí Triết học, số 5 (180) 86. Nguyễn Văn Uẩn (2016), Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Hà Nội. 87. Lê Huy Văn (2001), Tạo dáng sản phẩm những vấn đề design hiện đại, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 88. Lê Huy Văn, Trần Bình (2011), Lịch sử design (tái bản), Nxb Xây dựng, Hà Nội. 89. Lê Huy Văn (2012), Cơ sở phương pháp luận Design (tái bản), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 90. Lê Huy Văn (2014), “Về văn hóa và thị giác”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 3(21) năm 2014. 91. Trịnh Quang Vũ (2008), Trang phục Triều Lê – Trịnh, Nxb Từ điển Bách khoa. 92. Trần Quốc Vượng (2014), Văn hóa Việt Nam, Nxb Thời đại và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. Tài liệu tiếng nước ngoài 93. Duong Kim Duc (2012), “Aesthetic Sense of the Vietnamese through Three Renovantions of the Women’s Ao dai in the 20th Century”, Asian culture and History, Canadian center of science and Education (Ý thức thẩm mỹ của người Việt Nam thông qua ba lần cải tạo bộ áo dài của phụ nữ trong thế kỷ 20)

189

94. Helen Joseph, Armstrong, Third Edition Patternmaking for fashion design (Thiết kế mẫu thứ 3 cho thiết kế thời trang), Prentice Hall. 95. Anna Liper (2014), Fashion Portfolio - design, Presentation (Danh mục thiết kế), Mission Production Ltd, . 96. Teresa Gilewska (2010), Vol.2 Le modelisme de mode – Moulage les bases (Tập 2 Mô hình thời trang – Các khái niệm cơ bản), Eyrolles. 97. Teresa Gilewska (2010), Vol.3 Le modelisme de mode – Coupe à plat les transformations (Mô hình thời trang – Chuyển đổi cắt phẳng), Eyrolles. 98. Zang Yingchun (2003), Chinese Tradition Costumes and Ornaments (Trang phục và đồ trang trí truyền thống Trung Quốc), intercontinental Press. 99. Zhou Xun, Gao Chunming (1984), 5000 years of Chinese costumes (5000 năm trang phục Trung Quốc), China Book & Periodicals, Inc. Tài liệu trang Web 100. Đào Duy Anh (2010), “Nhận thức nghệ thuật với tư cách một hình thức tái

hiện thế giới hiện thực”, Tạp chí triết học, https://www.chungta.com/nd/

tu-lieu- tra-cuu/ nhan_thuc_nghe_thuat-tu_cach_hinh_thuc_tai_hien_ hien_thuc-4.html. (Ngày đăng 01/12/2010) 111. Danh Anh, Minh Trang (2015), “Ngắm quốc phục Thúy Vân mang đến Hoa hậu quốc tế”, https://tuoitre.vn/ngam-quoc-phuc-thuy-van-mang-den- hoa-hau-quoc-te-995026 (ngày đăng 01/ 11/ 2015) 112. Trịnh Bách (2015), “Áo dài Việt Nam, từ năm thân đến hai thân”, http://soi. today/?p=169649 (ngày đăng 18/03/2015). 113. Trịnh Bách (2016), “Lễ Phục Việt Nam một thời: Áo dài”, http://soi.today/ ?p=157621 (ngày đăng 05/11/2016). 114. Cristoforo Borri (dịch Phạm Văn Bân năm 2011), “Tường thuật về sứ mạng mới của các linh mục dòng Je’sus tại Vương quốc An Nam,

190

https://thunhan.org/images/file/OGaaTdIb0wgQAKwp/mar-31-11- cristoforo-borri-vietnamese-avril-5-1-.pdf 115. Lý Xuân Chung (2011), “Tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Hàn Quốc những điểm tương đồng”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số tháng 1/2011,

http://www.vjol.info/index.php/khxhvn/article/ viewFile/32115/27305 116. Nguyễn Văn Dân (2017), “Việt Nam trong mối quan hệ Trung tâm - Ngoại vi, nhìn từ lý thuyết không gian Văn hóa - Xã Hội”, http://www. nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=7966, (ngày đăng 27.01.2017). 117. Thế Dương (2016), “Lung linh muôn sắc hoa trong đêm lễ hội áo dài 2016” http://www.dangcongsan.vn/anh/lung-linh-muon-sac-hoa-trong-dem- le-hoi-ao-dai-2016-375989.html (ngày đăng 05/03/2016). 118. Đại Dương – Anh Khoa (2016), “Festival Huế 2016: Lễ hội áo dài “Nơi huyền thoại bắt đầu” sẽ đậm đặc chất Huế”, https://dantri.com.vn/van- hoa/le-hoi-ao-dai-noi-huyen-thoai-bat-dau-se-dam-dac-chat-hue- 20160428220006521.htm (ngày 29/ 4/ 2016). 119. Nguyễn Vũ Thành Đạt (2013), “Bộ tranh dân gian quý của Việt Nam” https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/bo-tranh-dan-gian-quy-cua-viet- nam/43925.html (ngày đăng 02/ 03/ 2013) 120. Đặng Minh Hạnh (2012), “Vì sao thổ cẩm trở thành một gia tài của Việt

Nam”, http://dantri.com.vn/van-hoa/vi-sao-tho-cam-tro-thanh-mot-gia- tai-cua-viet-nam-1359941456.htm (ngày đăng 30/ 01/ 2012) 121. Haslam, “Illustrated book of draftings for lingerie with blouses, and accessories, No.5” (Sách minh họa của dự thảo cho đồ lót với áo cánh và phụ kiện, số 5), http://www.auctiva.com/hostedimages/ showimage. aspx?&ppid=1122&image=630925187&images=630925115,63092508 0,630925155,630925187,630925059&formats=0,0,0,0,0&format=0

191

122. Nguyễn Hằng (2015), “Những bộ áo dài Việt gây “choáng ngợp” thế giới”, http://dantri.com.vn/van-hoa/nhung-bo-ao-dai-viet-gay-choang-ngop- the-gioi-1437543431.htm (ngày đăng 14/ 07/ 2015) 123. Lữ Đắc Long (2017), “Áo dài cách tân qua các thời kỳ trên sân khấu”, https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/ao-dai-cach-tan-qua-cac-thoi-ky- tren-san-khau-2884793.html (ngày đăng 06 /02/ 2017). 124. Hà Tùng Long (2016), “Các nhà thiết kế hiến kế “cứu” áo dài khỏi nạn thảm họa”,https://dantri.com.vn/van-hoa/cac-nha-thiet-ke-hien-ke-cuu-ao-dai -khoi-nan-tham-hoa-2016101914452813.htm (ngày đăng 19/ 10/ 2016). 125. Hà Tùng Long (2017), “ NTK Minh Hạnh “ Sự kết hợp lập di… dẫn đến sự

biến dạng của áo dài”, http://dantri.com.vn/van-hoa/ntk-minh-hanh-su- ket-hop-lap-di-dan-den-su-bien-dang-cua-ao-dai (ngày 09/ 02/ 2017) 126. Ý Ly (2015), “Áo dài Couture của Vũ Việt Hà”, https://www.tin247.com/ ao_dai_couture_cua_vu_viet_ha-21-23696322.html (ngày 29/ 9/ 2015). 127. Lorans (2014), “The Art of the Twenties Dress” (Nghệ thuật của những năm

hai mươi), http://loransworld.com/the-art-of-the-twenties-dress/ ( ngày đăng 9/5/2014) 128. Hồng Minh (2016), “Hình ảnh: Phụ nữ Sài Gòn duyên dáng trong tà áo dài những năm 1960”, https://vov.vn/thoi-trang-lam-dep/hinh-anh-phu-nu- sai-gon-duyen-dang-trong-ta-ao-dai-nhung-nam-1960-505260.vov, (ngày đăng 02/05/2016) 129. Hữu Ngọc (2010), “Đối thoại giữa các nền văn minh dưới góc độ tiếp cận

văn hóa ở Việt Nam”, http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/1816 -doi-thoai-giua-cac-nen-van-minh-duoi-goc-do-tiep-bien-van-hoa-o- viet-nam.aspx (ngày đăng 06/8/ 2010) 130. Bích Ngọc (2014), “Vẻ đẹp “không thể trộn lẫn” của phụ nữ Việt đầu thế kỷ XX”, https://dantri.com.vn/van-hoa/ve-dep-khong-the-tron-lan-cua-phu

192

-nu-viet-nam-dau-the-ky-20-1394601134.htm (ngày 07/03/2014) 131. Phương Nhung (2016), “Anh Thư kể chuyện thiết kế áo dài cưới của các cặp đôi vàng”, https://dantri.com.vn/van-hoa/anh-thu-ke-chuyen-thiet-ke-ao -dai-cuoi-cua-cac-cap-doi-vang-20160928081206363.htm (ngày 28 / 9/ 2016) 132. Phương Nhung (2017), “Đừng áp đặt áo dài đời thường vào quy chuẩn quốc phục nghi lễ”, https://dantri.com.vn/van-hoa/dung-ap-dat-ao-dai-doi- thuong-vao-quy-chuan-quoc-phuc-nghi-le-2017020420124576.htm (ngày đăng 05/02/2017). 133. Phạm Thị Thái Phương, Lee Mi Jung (2012), “Dấu ấn của giao lưu văn hóa

Đông – Tây trong trang phục Áo dài Việt Nam”, https://tailieu.vn/doc/ dau-an-cua-giao-luu-van-hoa-dong-tay-trong-trang-phuc-ao-dai-viet- nam-1964339.html (ngày đăng 12/11/ 2012) 134. Minh Quân (2016), “Đi tìm quy chuẩn áo dài”, https://baomoi.com/di-tim- quy-chuan-ao-dai/c/20597325.epi (ngày đăng 18/10/2016) 135. Hoàng Quyên (2015), “Áo dài cách tân: Đâu chỉ là cảm giác lạ”, http://hanoi moi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/776887/ao-dai-cach-tan-dau-chi-la-cam- giac-la (ngày 08/ 7/2015) 136. Minh Tâm (2016), “NTK Sỹ Hoàng: Thảm họa áo dài nhắc chúng ta mặc

đúng”, https://news.zing.vn/ntk-sy-hoang-tham-hoa-ao-dai-nhac-chung- ta-mac-dung-post630953.html (ngày đăng 03/ 03/ 2016) 137. Minh Tâm, Trung tâm Festival Huế (2014), “Hội tụ thế giới trong tà áo dài Việt” http://www.huefestival.com/?cat_id=537&id=3372#.W_NpBx8X rIW 138. Thanh Thanh (2015), “ NTK Minh Hạnh được trao giải thưởng Fukuoka vì nghệ thuật”, http://vov.vn/van-hoa/nghe-si/ntk-minh-hanh-duoc-trao- giai-thuong-fukuoka-vi-nghe-thuat-412120.vov (ngày 07/ 07/ 2015)

193

139. Quốc Thắng (2012), “Áo dài với quốc hoa”, https://thitruong.nld.com.vn/

thoi-trang/ao-dai-voi-quoc-hoa-2012040710252817.htm, (ngày đăng 07/ 04/ 2012) 140. Lê Thân (2013), “Cái đẹp của hội họa hiện đại trong design”, Tạp chí Mỹ thuật nhiếp ảnh, số 05, http://ape.gov.vn/cai-dep-cua-hoi-hoa-hien-dai- trong-design-ds232.th (ngày đăng 27/10/2013) 141. Ngô Đức Thịnh (2010), “Lý thuyết trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hóa”, http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc- goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/ly-thuyet-trung-tam-va- ngoai-vi-trong-nghien-cuu-khong-gian-van-hoa (ngày 22 /12/ 2010). 142. (2004), “Sự ra đời của Nghệ thuật trang trí”, Tạp chí Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Thông tin mỹ thuật số 15 -16, phát hành tháng 8/ 2004. http://hcmufa.edu.vn/tap-chi/thong-tin-my-thuat-so-15- 16/su-ra-doi-cua-nghe-thuat-trang-tri-/. 143. (2010), “Paul Poiret – Kinh of fashion” (Paul Poiret – ông Vua thời trang) https://blog.colettehq.com/inspiration/paul-poiret-king-of-fashion (ngày đăng 10/11/2010). 144. (2012), “Từ Qi Pao đến Sườn xám... một sự phát triển của một chiếc váy về phụ nữ!”, https://www.walkinginmay.com/2012/12/qipao-love-part-1- from-qi-pao-to.html. (Ngày cập nhật 21 tháng 12 năm 2012) 145. (2017), “Những kiết tác của danh họa Lê Phổ”, http://designs.vn/tin- tuc/ nhung-kiet-tac-cua-danh-hoa-lepho_16195.html#.WxSjNx8WvIU. (Ngày cập nhật 30/ 05/ 2017) 146. (2017), “Lịch sử trang phục Trung Quốc Sườn xám Qipao”, https://www. ichinesedress.com/history-of-chinese-dress-cheongsam-qipao/.(Ngày cập nhật 25 tháng 7 năm 2017)

194

147. (2017), “Ấn tượng BST “Về Quê” của NTK Vũ Việt Hà trước ngày khai mạc Festival nghề truyền thống Huế 2017”, http://thantuong.tv/bai-viet/an- tuong-bst-ve-que-cua-ntk-vu-viet-ha-truoc-ngay-khai-mac-festival- nghe-truyen-thong-hue-2017-22909 (ngày 27/ 04/ 2017) 148. (2018), Những học thuyết lý giải nguồn gốc ra đời của nghệ thuật http://redsv n.net/nhung-hoc-thuyet-ly-giai-nguon-goc-ra-doi-cua-nghe-thuat/ (ngày 15/04/2018)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

SỰ TIẾP BIẾN TRONG NGHỆ THUẬT THIẾT KẾ ÁO DÀI

CỦA PHỤ NỮ VIỆT TỪ NHỮNG NĂM 1930 ĐẾN NĂM 2017

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2020

196

Mục lục

Trang Phụ lục 1. Hình ảnh tiêu biểu về lịch sử thiết kế thời trang thế giới …… 203 H.1.1. Kiểu quấn vải trên cơ thể tạo đường ly của người Hy Lạp thời Cổ Đại ………………………………………………………………… 203 H.1.2. Mẫu váy tiêu biểu thời Trung Cổ và Phục Hưng……………….. 203 H.1.3. Những mẫu áo váy của Phương Tây…………………………... 204 H.1.4. Mẫu thiết kế trang phục nữ những năm đầu thế kỷ XX ……….. 204 H.1.5. Mẫu váy và bản thiết kế cắt trên vải những năm 1930 …………. 205 H.1.6. Phương pháp trang trí trang phục những năm 1920 ……………. 205 Phụ lục 2. Áo dài giai đoạn trước những năm 1930…………………... 206 H.2.1. Áo năm thân cổ giao lãnh……………………………………….. 206 H.2.2. Tượng thờ nữ mặc áo dài năm thân ……………………………. 206 H.2.3. Tượng thờ nữ mặc áo dài năm thân ………………...... 207 H.2.4. Trang phục của tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ ……...………… 207 H. 2.5. Tác phẩm Cô gái chơi đàn nguyệt và Cô gái thổi sáo …………. 208 H. 2.6. Áo dài truyền thống trong tác phẩm Tố Nữ …………………… 208 H. 2.7. Phụ nữ Huế mặc áo dài năm thân đầu thế kỷ XX ……………… 208 H. 2.8. Áo dài năm thân qua tác phẩm ký họa của của Henri Oger …… 209 H. 2.9. Phụ nữ 3 miền mặc áo năm thân………………………………. 209 H.2.10. Phụ nữ mặc áo năm thân chất liệu tơ tằm…………………….. 210 H.2.11. Áo năm thân cài vạt mặc kép và áo năm thân may bằng chất liệu vải rồng……………………………………………………………. 210 Phụ lục 3. Thiết kế áo dài giai đoạn những năm 1930 đến 1980……... 211 H.3.1. Mẫu thiết kế áo dài có cổ bẻ (là mẫu thiết kế đầu tiên) và cổ xếp ly dựng của Nguyễn Cát Tường …..…………………………………… 211

197

H.3.2. Mẫu áo dài có cổ vắt chéo lượn sóng của Nguyễn Cát Tường .… 211 H.3.3. Một số kiểu cổ áo dài của Nguyễn Cát Tường …………….…… 212 H.3.4. Mẫu thiết kế áo dài cổ bẻ và những thiết kế tay áo ….………….. 212 H.3.5. Cát Tường vẽ phụ nữ mặc áo dài tà rộng cổ đứng ôm khít ……. 212 H. 3.6. Mẫu áo dài qua tác phẩm Thiếu nữ dâng trà và Hai chị em gái của họa sỹ Lê Phổ ……………………………………………………… 213 Hình 3.7. Áo dài tân thời 1934 của Nguyễn Cát Tường– hiện vật phục chế ………..…………………………………………………………… 213 H. 3.8. Áo dài của phụ nữ Việt những năm 1940 ……………………… 214 H. 3.9. Áo dài của nữ sinh trường Đại học Tổng hợp Hà Nội những năm 1950……………………………………………………………………. 214 H. 3.10. Áo dài của phụ nữ tại một đám cưới ở Quảng Trị năm 1969 ... 214 H.3.11. Màu sắc của áo dài những năm 1950 -1970 ……………..…… 215 H. 3.12. Mẫu áo dài tay raglan năm 1958…………………..…………. 215 H. 3.13.Phụ nữ Sài Gòn mặc áo dài chiết eo năm 1960……………….. 216 H. 3.14. Áo dài hippy năm 1968 – 1989………………………………. 216 H. 3.15. Mẫu áo dài được may bằng các chất liệu vải từ những năm 1940 đến 1970…………………………………………………………. 217 H. 3.16. Mẫu áo dài những năm 1950…………………………………. 218 Hình 3.17. Một trong những mẫu vải tơ tằm dệt hoa cúc tạo hiệu ứng “mình khô hoa ướt” dùng may áo dài vào những năm 1980………….. 218 H.3.18. Áo dài của phụ nữ mặc tại một đám cưới ở Quảng Trị năm 1971……………………………………………………………………. 219 H.3.19. Áo dài hippy những năm 1970 – áo dài được may từ chất liệu vải in họa tiết …………………………………………………………. 219 Phụ lục 4. Thiết kế áo dài giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2017 và những mẫu áo dài truyền thống của các tộc người…………………….. 220

198

H. 4.1. Mẫu áo dài trong BST Huyền thoại Đông Hồ năm 2005…….... 220 H. 4.2. Mẫu áo dài trong BST Ngũ Hổ - NTK Thuận Việt năm 2015….. 220 H. 4.3. Mẫu áo dài lấy ý tưởng từ tranh Đông Hồ của NTK Ngọc Hân năm 2016 ……………………………………………………………… 221 H. 4.4. Mẫu áo dài trong BST “Lúng liếng” ý tưởng từ tranh Đông Hồ của NTK Thủy Nguyễn năm 2015 ……………………………………. 221 H.4.5. Mẫu áo dài của Minh Hạnh trong BST ý tưởng từ nghệ thuật Pháp lam năm 2012……………………………………………….…… 222 H.4.6. Mẫu áo dài do Cao Minh Tiến thiết kế trình diễn tại Fetival Áo dài Hà Nội năm 2016 ………………………………………………….. 222 H. 4.7. Mẫu áo dài BST Vương Triều của NTK Sĩ Hoàng năm 2010….. 223 H. 4.8. Mẫu áo dài trong BST Cổng làng của Lan Hương năm 2016…. 223 H.4.9. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm………………………………….. 224 H.4.10. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm người H’Mông của NTK Minh Hạnh trưng bày tại Bảo tàng Bargoin - Pháp ngày 13/9/2012…………. 224 H.4.11. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm của NTK Việt Hùng năm 2014 225 H.4.12. Mẫu áo dài trong BST Sắc màu của đất của NTK Thuận Việt năm 2017………………………………………………………………. 225 H. 4.13. Mẫu áo dài trong BST Cộng sinh của NTK Vũ Việt Hà năm 2017…………………...... 226 H.4.14. Mẫu áo dài trong BST Về quê của Vũ Việt Hà năm 2017…..... 226 H.4.15. Mẫu áo dài do Quỳnh Paris thiết kế ý tưởng từ hoa Sen năm 2012 …………………………………………………………………… 227 H.4.16. Mẫu áo dài do Vũ Việt Hà năm 2015…………………………. 227 H.4.17. Mẫu áo dài trong BST Hương Sắc Việt của NTK Lan Hương năm 2016 ……………………………………………………………… 228 H. 4.18. Mẫu áo dài ý tưởng từ hoa Phăng của NTK Đức Hải năm 2016.. 228

199

H. 4.19. Mẫu áo dài ý tưởng từ hoa Lan của NTK Vũ Việt Hà năm 2016. 229 H. 4.20. Mẫu áo dài trong BST Thiền sen của NTK Sĩ Hoàng năm 2012. 229 H. 4.21. Thiết kế áo dài ý tưởng từ giao thoa văn hóa ………………... 230 H. 4.22. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật trang trí thể hiện ý tưởng giao thoa văn hóa Festival 2014 ……………………………………………. 231 H. 4.23. Mẫu áo dài của Vũ Việt Hà sử dụng màu đơn sắc thể hiện ý tưởng 3 màu cờ của nước Italia năm 2014….………………………….. 232 H. 4.24. Mẫu áo dài phong cách truyền thống của NTK La Hằng trong những năm 2005 - 2010 ………………………………………………. 232 H. 4.25. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại lấy cảm hứng từ xứ sở Mặt Trời mọc của NTK Ngọc Hân năm 2016 ………………….. 233 H. 4.26. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại trong BST Mộc của NTK Việt Hùng năm 2016…………………………………………. 233 H. 4.27. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại của NTK Sơn Collection năm 2017…………………………………………………… 234 H.4.28. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách truyền thống do Thủy Nguyễn thiết kế năm 2017……………………………………………... 234 H. 4.29. Mẫu áo dài thêu thủ công của nghệ nhân Lan Hương năm 2015……………………………………………………………………. 235 H. 4.30. BST Áo dài trong sử dụng kỹ thuật thêu thủ công trên lụa của NTK Lan Hương………………………………………………………. 235 H. 4.31. Mẫu áo dài trong BST Non thiêng của NTK Đức Hùng sử dụng kỹ thuật thêu thủ công………………………………………………….. 236 H.4.32. Mẫu áo dài trong BST Áo dài mùa thu năm 2017 của NTK La Hằng sử dụng kỹ thuật thêu thủ công………………………………….. 236 H.4.33. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật vẽ thủ công……………………… 237

200

H. 4.34. Mẫu áo dài trong BST Quốc hoa sử dụng kỹ thuật vẽ tay của NTK Sĩ Hoàng…………………………………………………………. 237 H. 4.35. Mẫu áo dài của NTK Minh Hạnh trình diễn tại Festival Huế năm 2012, sử dụng kỹ thuật in tạo họa tiết hoa văn…………………… 238 H 4.36. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật xếp bèo và đính kết tạo hoa văn trang trí trong BST Fusion của NTK Quỳnh Paris năm 2014…………. 238 H. 4.37. Mẫu áo dài của NTK Lương Minh Sơn năm 2015 sử dụng kỹ thuật đính kết cườm……………………………………………………. 239 H.4.38. Mẫu áo dài sử dụng các kỹ thuật trang trí…………………….. 239 H.4.39. Mẫu áo dài trình diễn…………………………………………. 240 H.4.40. Mẫu áo dài cưới của NTK Anh Thư………………………….. 242 H. 4.41. Mẫu áo dài có nhiều yếu tố cách tân ...... ……………………. 243 H.4.42. Mẫu áo dài do Thùy Vy trình diễn tại cuộc thi Hoa Hậu Thế Giới 2011…………………………………………………………...... 243 H.4.43. Mẫu áo dài truyền thống của các tộc người thiểu số ở Việt Nam …………………………………………………………………… 244 H.4.44. Những chi tiết tạo hình trên các mẫu áo dài truyền thống của các tộc người thiểu số………………………………………………….. 244 H.4.45. Một số kiểu sườn xám của Trung Hoa năm 1920…………….. 245 H.4.46. Một số kiểu dáng áo sườn xám năm 1930- 1940……………... 246 H.4.47. Áo sườn xám những năm 1950 và 1960……………………… 245 H. 4.48. Áo sườn xám biến đổi theo từng giai đoạn………………...... 246 H.4.49. Bản vẽ đường thiết kế áo dài theo công thức…………………. 246 H.4.51. Bản vẽ đường cắt vải may áo sườn xám năm 1930 ………….. 247 Phụ lục 5. Minh họa Áo dài…………………………………………… 248 H.5.1. Áo tứ thân cổ tròn đệm lá sen, áo đổi vai nối vạt ….…………... 248 H.5.2. Áo không cổ mặc ngoài và áo tứ thân cổ mệnh phụ…………… 248

201

H.5.3. Trang phục của hiền phi Trương Thị Ngọc Lãnh và vương phi Trần Thị Ngọc Am ……………………………………………………. 248 H.5.4.a. Trang phục triều phục của Hoàng hậu Ngọc Bạch…………… 249 H.5.4.b. Trang phục của tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ……………….. 249 H.5.5. Áo đoàn lĩnh cổ tròn (viên lĩnh) ………………………………… 249 H.5.6. Áo năm thân cổ đứng cài khuy tay thụng (áo thụ lĩnh)………… 249 H.5.7. Áo năm thân cổ đứng cài khuy tay hẹp …….…………………… 250 H.5.8. Hình dáng và kết cấu của một số mẫu áo dài tiêu biểu do Nguyễn Cát Tường thiết kế từ những năm 1930 ………..……………………… 250 H.5.9. Hình dáng và kết cấu áo dài …………..……………………….. 251 H. 5.10.Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Sĩ Hoàng …………….. 251 H. 5.11. Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Minh Hạnh…………... 252 H.5.12. Hình dáng và kết cấu áo dài tiêu biểu trong BST Hương sắc Việt của NTK Lan Hương ………………………………………..…… 253 H.5.13. Hình dáng và kết cấu áo dài tiêu biểu của NTK Thủy Nguyễn 253 H.5.14. Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Ngọc Hân lấy ý tưởng từ đất nước Nhật Bản ………………………………………...……….. 254 H.5.15. Dáng cổ có chân truyền thống ………………………………... 254 H.5.16. Các dáng cổ không chân ……………………………………… 254 H.5.17. Phong cách truyền thống ……………………………………... 255 H.5.18. Phong cách truyền thống ……………………………..………. 255 H.5.19. Phong cách trẻ trung năng động………………………………. 256 H.5.20. Phong cách áo dài trình diễn ấn tượng………………………... 256 H.5.21. Hình dáng, kết cấu và tỷ lệ của các phong cách áo dài……….. 257 H.5.22. Tổ hợp hình thiết kế các chi tiết áo năm thân cổ giao lãnh…… 257 H.5.23. Tổ hợp hình thiết kế các chi tiết áo năm thân cổ đứng……….. 258

202

H.5.24. Tổ hợp hình thiết kế áo dài theo số đo cơ thể (mẫu áo dài của họa sỹ Nguyễn Cát Tường)………………………………………….... 260 H.5.25. Tổ hợp hình thiết kế áo dài áp dụng công thức thiết kế ( áo dài tay raglan và tay tròn)………………………………………………..... 262 Phụ lục 6. Bảng biểu đối sánh thiết kế áo dài……………………….... 263 Bảng.6.1. Tham chiếu áo dài dưới dạng hình học qua các giai đoạn..... 263 Bảng 6.2. Hình dáng và kết cấu mắt trước và góc nghiêng của áo dài... 267 Bảng 6.3. Đối sánh tạo hình áo dài đời thường và áo dài trình diễn…... 267 Bảng 6.4. Màu sắc áo dài qua các giai đoạn…………………………... 268 Bảng 6.5. Các cặp phối màu trong thiết kế áo dài giai đoạn 2010 – 2017……………………………………………………………………. 271 Bảng 6.6. Hình dáng - kết cấu áo dài phụ nữ Việt với các tộc người và áo sườn xám…………………………………………………………… 272 Bảng 6.7. Màu sắc áo dài của các tộc người và áo sườn xám…………. 276 Phụ lục 7. Danh mục người phỏng vấn……………………………….. 277 Phụ lục 8. Đặc điểm thiết kế áo dài của một số tộc người ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa……………………………………………. 288

203

Phụ lục 1 Hình ảnh tiêu biểu về lịch sử thiết kế thời trang thế giới 1.1. Nguồn gốc thiết kế trang phục và những thiết kế tiêu biểu

H.1.1. Kiểu quấn vải trên cơ thể tạo đường ly của người Hy Lạp thời Cổ Đại [17]

a. b. H.1.2. Mẫu váy tiêu biểu thời Trung Cổ và Phục Hưng [17] H.1.2.a. Mẫu váy dài có kết cấu nối tay với thân áo và nối thân trên với thân dưới tại điểm eo của phụ nữ thời Trung Cổ

204

H.1.2. b. Mẫu váy dài sử dụng kỹ thuật trang trí xếp ly tạo sóng ở tay của phụ nữ Pháp thời Phục Hưng

a. b. c. H. 1.3. Những mẫu áo váy của Phương Tây H. 1.3.a. Mẫu váy cổ xếp ly hình bánh xe và kết cấu tay phồng của phụ nữ Tây Ban Nha thời Phục Hưng [17] H.1.3. b. Kiểu váy dài chít eo kết hợp kỹ thuật trang trí đáp viền ren của phụ nữ thế kỷ XIX [17] H.1.3. Minh họa của George Barbier về những sáng tác của Paul Poiret năm 1912 – sự kết hợp nghệ thuật trang trí trên trang phục [143]

a. b. H.1.4. Mẫu thiết kế trang phục nữ những năm đầu thế kỷ XX [17]

205

H.1.4.a. Những mẫu váy dự tiệc dài thập niên 1930 của NTK Madeleine Vionnet H.1.4. b. Mẫu váy Bar của NTK Dior những năm 1940 1.2. Một số phương pháp thiết kế trên bản vẽ và trang trí trang phục

H.1.5. Mẫu váy và bản thiết kế cắt trên vải những năm 1930 [121]

a. b. H.1.6. Phương pháp trang trí trang phục những năm 1920 [127] H.1.6.a. Kỹ thuật trang trí đặt dải ruy băng khâu rút chỉ chạy dọc theo thân váy tạo đường gợn sóng nổi trên mặt vải H.1.6.b. Kỹ thuật trang trí tạo cánh hoa may viền với thân váy (điểm nhấn ở vị trí cổ áo)

206

Phụ lục 2 Áo dài giai đoạn trước những năm 1930 2.1. Hình ảnh áo dài giao lãnh và áo dài năm thân

H.2.1. Áo năm thân cổ giao lãnh H. Áo dài giao lãnh của phụ nữ trong dân gian cuối TK XVIII – đầu TK XX [Nguồn ảnh: PGS TS Đoàn Thị Tình]

a. b. c. H.2.2. Tượng thờ nữ mặc áo dài năm thân [Nguồn: NCS chụp tại chùa Bút Tháp – Bắc Ninh và chùa Mía – Sơn Tây vào tháng 2 năm 2016] H.2.2. a. Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (chùa Bút Tháp – Bắc Ninh)

207

H.2.2. b. Quận chúa Trình Thị Ngọc Cơ (chùa Bút Tháp – Bắc Ninh) H.2.2. c.Vương phi Ngọc Diệu / Bà Chúa Mía (chùa Mía – Sơn Tây)

a. b. c. H.2.3. Tượng thờ nữ mặc áo dài năm thân [91] H.2.3. a. Hoàng hậu Ngọc Bạch chùa Mật Thanh Hóa H.2.3. b. Chiêu nghi vợ vua Thần Tông TK XVII – chùa Mật Thanh Hóa H.2.3. c. Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Chùa Mật Thanh Hóa)

H.2.4. Trang phục của tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ [Nguồn: NCS chụp tại chùa Dâu – Bắc Ninh vào tháng 2 năm 2016]

208

2.2. Áo dài năm thân qua tranh dân gian

H. 2.5. Tác phẩm Cô gái chơi đàn nguyệt và Cô gái thổi sáo [119]

H. 2.6. Áo dài truyền thống trong tác phẩm Tố Nữ [Nguồn: NCS chụp tại triển lãm tranh dân gian tổ chức ở Hoàng thành Thăng Long Hà Nội vào năm 2016]

H. 2.7. Phụ nữ Huế mặc áo dài năm thân đầu thế kỷ XX [15]

209

2.3. Áo dài năm thân qua tác phẩm kí họa

H. 2.8. Áo dài năm thân qua tác phẩm ký họa của của Henri Oger [42] H.2.8.a. Áo năm thân mở cổ H. 2.8.b. Áo năm thân buông vạt thẳng qua tác phẩm ký họa 2.4. Áo dài năm thân qua tư liệu ảnh chụp

a. b. c. H. 2.9. Phụ nữ 3 miền mặc áo năm thân H. 2.9.a. Phụ nữ Huế mặc áo dài (2 người vợ của vua Thành Thái chụp năm 1907 ở Huế) [130]

210

H.2.9. b. Phụ nữ Sài Gòn xưa mặc áo dài [46] H.2.9. c. Phụ nữ thành thị ở miền Bắc xưa mặc áo dài [46]

a. b. c. H.2.10. Phụ nữ mặc áo năm thân chất liệu tơ tằm H. 2.10.a. Phụ nữ Nam kỳ mặc áo dài dệt họa tiết trang trí hoa mai [46] H. 2.10.b. Phụ nữ Bắc kỳ mặc áo dài dệt họa tiết trang trí hoa cúc [46] H.2.10. c. Áo dài năm thân may từ tơ tằm dệt hoa văn chữ thọ tròn ở thế kỷ XIX là hiện vật gốc [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018].

a. b. H.2.11. Áo năm thân cài vạt mặc kép và áo năm thân may bằng chất liệu vải rồng [Nguồn ảnh: PGS. TS Đoàn Thị Tình]

211

Phụ lục 3 Thiết kế áo dài giai đoạn những năm 1930 đến 1980 3.1. Áo dài qua những tác phẩm hội họa

H.3.1. Mẫu thiết kế áo dài có cổ bẻ (là mẫu thiết kế đầu tiên) và cổ xếp ly dựng của Nguyễn Cát Tường [56]

H.3.2. Mẫu áo dài có cổ vắt chéo lượn sóng của Nguyễn Cát Tường [56]

212

H. 3.3. Một số kiểu cổ áo dài của Nguyễn Cát Tường [56]

H.3.4. Mẫu thiết kế áo dài cổ bẻ và những thiết kế tay áo [56 ]

a. b. H. 3.5. Cát Tường vẽ phụ nữ mặc áo dài tà rộng cổ đứng ôm khít [56]

213

H.3.5. a. Tác phẩm Nắng thu năm 1936 H.3.5. b. Nguyễn Cát Tường vẽ vợ và con gái đầu lòng

H. 3.6. Mẫu áo dài qua tác phẩm Thiếu nữ dâng trà và Hai chị em gái của họa sỹ Lê Phổ [145] 3.2. Áo dài qua tư liệu ảnh chụp

Hình 3.7. Áo dài tân thời 1934 của Nguyễn Cát Tường– hiện vật phục chế [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018]

214

H. 3.8. Áo dài của phụ nữ Việt những năm 1940 [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018]

H. 3.9. Áo dài của nữ sinh trường Đại học Tổng hợp Hà Nội những năm 1950 [Nguồn ảnh: Mạnh Hải Sfickr]

H. 3.10. Áo dài của phụ nữ tại một đám cưới ở Quảng Trị năm 1969 [Nguồn ảnh: Mạnh Hải Sfickr]

215

H.3.11. Màu sắc của áo dài những năm 1950 -1970 H.3.11. a. Trần Lệ Xuân mặc áo dài lụa hồng vỏ đỗ hoa văn chìm. [Nguồn ảnh: Larry Burrows] H.3.11. b. Trần Lệ Xuân mặc áo dài màu tím không họa tiết tay áo zaglan [Nguồn ảnh: Mạnh Hải Sfickr] H. 3.11. c. Trần Lệ Xuân mặc áo dài lụa xanh có hoa văn chìm. [Nguồn ảnh: John Leongard] H. 3.11. d. Trần Lệ Xuân mặc áo dài đỏ tại tư dinh ở Sài Gòn năm 1962. [Nguồn ảnh: Larry Burrows]

H. 3.12. Mẫu áo dài tay raglan năm 1958

216

(Là hiện vật gốc của tiệm may Dung DaKao) [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018]

H. 3.13.Phụ nữ Sài Gòn mặc áo dài chiết eo năm 1960 [128]

H. 3.14. Áo dài hippy năm 1968 - 1989 (hiện vật phục chế) [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018]

217

a. b. c. H. 3.15. Mẫu áo dài được may bằng các chất liệu vải từ những năm 1940 đến 1970 [Nguồn H.a và H.b: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018] H. 3.15. a. Áo dài năm 1940 -1960 may bằng chất liệu vải dạ H. 3.15. b. Áo dài năm 1971- 1975 may bằng chất liệu vải tổng hợp thêu hoa nhỏ. H. 3.15. c. Áo dài may bằng chất liệu lụa dệt hoa văn [Nguồn ảnh: PGS. TS Đoàn Thị Tình]

218

a. b. H. 3.16. Mẫu áo dài những năm 1950 [Nguồn: NCS chụp tại tư gia của PGS TS Đoàn Thị Tình vào tháng 12/ 2018] H. 3.16.a. Mẫu áo dài của Trần Lệ Xuân (hiện vật) áo cổ tròn cài khuy theo đường vòng nách xuống sườn eo. Sử dụng kỹ thuật trang trí vẽ thủ công bằng màu và nhũ. H.3.16.b. Mẫu áo dài có áo cổ đứng cài khuy chéo ngực xuống sườn eo. Áo được may bằng vải dệt sợi tổng hợp có kim tuyến

Hình 3.17. Một trong những mẫu vải tơ tằm dệt hoa cúc tạo hiệu ứng “mình khô hoa ướt” dùng may áo dài vào những năm 1980 [Nguồn: NCS chụp tại tư gia của PGS TS Đoàn Thị Tình vào tháng 12/ 2018]

219

H.3.18. Áo dài của phụ nữ mặc tại một đám cưới ở Quảng Trị năm 1971 [Nguồn ảnh: Mạnh Hải Sfickr]

H.3.19. Áo dài hippy những năm 1970 – áo dài được may từ chất liệu vải in họa tiết [Nguồn ảnh: Lê Sĩ Hoàng]

220

Phụ lục 4 Thiết kế áo dài giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2017 và những mẫu áo dài truyền thống của các tộc người 4.1. Thiết kế áo dài lấy ý tưởng từ tranh dân gian và hội họa

H. 4.1. Mẫu áo dài trong BST Huyền thoại Đông Hồ năm 2005 trình diễn tại triển lãm “Nghệ thuật ASEAN – Truyền thống và hiện đại” [Nguồn ảnh: Lan Hương Fashion House]

H. 4.2. Mẫu áo dài trong BST Ngũ Hổ - NTK Thuận Việt năm 2015 [Nguồn ảnh: Mực Tàu]

221

H. 4.3. Mẫu áo dài ý tưởng từ tranh Đông Hồ của NTK Ngọc Hân Năm 2016 diễn tại Fetival Áo dài Hà Nội Long [Nguồn ảnh: Chí Linh]

H. 4.4. Mẫu áo dài trong BST Lúng liếng ý tưởng từ tranh Đông Hồ của NTK Thủy Nguyễn năm 2015 [Nguồn ảnh: Thuy Design House]

222

M H H.4.5. Mẫu áo dài của Minh Hạnh trong BST ý tưởng từ nghệ thuật Pháp lam trình diễn tại Festival Huế năm 2012 [Nguồn ảnh: Hải Đông]

H.4.6. Mẫu áo dài do Cao Minh Tiến thiết kế trình diễn tại Fetival Áo dài Hà Nội năm 2016 [Nguồn ảnh: Mạnh Thắng]

223

H. 4.7. Mẫu áo dài BST Vương Triều của NTK Sĩ Hoàng trình diễn vào ngày 21/3/2010 trong chương trình văn hóa - nghệ thuật kỷ niệm 18 năm tình hữu nghị Việt - Hàn. [Nguồn ảnh: www.sihoang – art.com]

H. 4.8. Mẫu áo dài trong BST Cổng làng của Lan Hương thiết kế trình diễn tại Festival áo dài Hà Nội năm 2016 [Nguồn ảnh: Lan Hương Fashion House]

224

4.2. Thiết kế áo dài lấy ý tưởng từ thổ cẩm

a. b. H.4.9. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm H.4.9. a. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cấm của NTK Minh Hạnh những năm 1990 (hiện vật phục chế) [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018] H.4.9. b. Mẫu áo dài do Lan Hương thiết kế ý tưởng từ thổ cẩm của dân tộc Dao năm 2011 [Nguồn ảnh: Shoot Media]

H.4.10. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm người H’Mông của NTK Minh Hạnh trưng bày tại Bảo tàng Bargoin - Pháp ngày 13/9/2012 [138]

225

H.4.11. Mẫu áo dài ý tưởng từ thổ cẩm của NTK Việt Hùng năm 2014 [Nguồn ảnh: Peter Trần]

H.4.12. Mẫu áo dài trong BST Sắc màu của đất của NTK Thuận Việt năm 2017 [Nguồn ảnh: Tâm Giao]

226

H. 4.13. Mẫu áo dài trong BST Cộng sinh của NTK Vũ Việt Hà năm 2017 [Nguồn ảnh: Kiếng Cận]

a. b. H.4.14. Mẫu áo dài trong BST Về quê của Vũ Việt Hà trình diễn tại Festival nghề truyền thống Huế năm 2017 sử dụng kỹ thuật thêu - đắp vải của người H’Mông [Nguồn ảnh: Kiếng Cận]

227

4.3. Thiết kế áo dài lấy ý tưởng từ hoa lá thiên nhiên

H.4.15. Mẫu áo dài do Quỳnh Paris thiết kế ý tưởng từ hoa Sen trình diễn tại Festival năm 2012 [Nguồn ảnh: PVVu - CTV]

H.4.16. Mẫu áo dài do Vũ Việt Hà năm 2015 [126]

H

228

a. b và c. d. H.4.17. Mẫu áo dài trong BST Hương Sắc Việt của NTK Lan Hương năm 2016 [Lan Hương Fashion House - Nguồn ảnh: Đàm Long Xây]

H. 4.18. Mẫu áo dài ý tưởng từ hoa Phăng của NTK Đức Hải (Lễ hội Áo dài 3/2016 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám) [117]

229

H. 4.19. Mẫu áo dài ý tưởng từ hoa Lan của NTK Vũ Việt Hà (Lễ hội Áo dài 3/2016 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám) [117]

H. 4.20. Mẫu áo dài trong BST Thiền sen của NTK Sĩ Hoàng trình diễn tại Festival Huế năm 2012 [Nguồn ảnh: www.sihoang – art.com]

230

4.4. Thiết kế áo dài ý tưởng về văn hóa các nước/ giao thoa văn hóa

a. b. c. d. H. 4.21. Thiết kế áo dài ý tưởng từ giao thoa văn hóa [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018] H. 4.21. a. Hiện vật áo dài Việt – Nhật (Áo dài – ) của NTK Trần Văn Trung (năm 2010) H. 4.21.b. Hiện vật áo dài Việt – Philippine của Sĩ Hoàng thiết kế (năm 2011) H. 4.21.c. Hiện vật áo dài Việt – Hàn (Áo dài – Hanbok) của NTK Trần Văn Trung (năm 2010) H. 4.21.d. Hiện vật áo dài Việt – Pháp (Áo dài – Đầm dạ hội) của NTK Sĩ Hoàng (năm 2005)

231

a. b. c. H. 4.22. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật trang trí thể hiện ý tưởng giao thoa văn hóa Festival 2014 [137] H. 4.22.a. Mẫu thiết kế sử dụng kỹ thuật in họa tiết kiến trúc Pháp của NTK Thanh Ngọc H.4.22.b. Mẫu thiết kế sử dụng kỹ thuật in họa tiết tiêu biểu trong kiến trúc cổng thành cổ ở Hàn Quốc của NTK Ngọc Hân H.4.22.c. Mẫu thiết kế sử dụng kỹ thuật in họa tiết tiêu biểu trong kiến trúc cung điện Kremlin Nga

232

H. 4.23. Mẫu áo dài của Vũ Việt Hà sử dụng màu đơn sắc thể hiện ý tưởng 3 màu cờ của nước Italia năm 2014 [137] 4.5. Một xu hướng và phong cách thiết kế áo dài

H. 4.24. Mẫu áo dài phong cách truyền thống của NTK La Hằng trong những năm 2005 - 2010 [28]

233

H. 4.25. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại lấy cảm hứng từ xứ sở Mặt Trời mọc của NTK Ngọc Hân năm 2016 [Nguồn ảnh: Tô Thanh Tân]

H. 4.26. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại trong BST Mộc của NTK Việt Hùng năm 2016 [118]

234

H. 4.27. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách hiện đại của NTK Sơn Collection năm 2017 [Nguồn ảnh: Lê Thiện Viễn]

H.4.28. Mẫu áo dài thiết kế theo phong cách truyền thống do Thủy Nguyễn thiết kế năm 2017. Lấy ý tưởng từ hoa văn gạch bông (BST cũng là trang phục sử dụng trong bộ phim Cô Ba Sài Gòn) [Nguồn ảnh: Thuy Design House]

235

4.6. Thiết kế áo dài sử kỹ thuật trang trí tiêu biểu - Kỹ thuật thêu thủ công

H. 4.29. Mẫu áo dài thêu thủ công của nghệ nhân Lan Hương năm 2015 [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018]

H. 4.30. BST Áo dài trong sử dụng kỹ thuật thêu thủ công trên lụa của NTK Lan Hương [Nguồn ảnh: Lan Hương Fashion House]

236

a. b. c. d. H. 4.31. Mẫu áo dài trong BST Non thiêng của NTK Đức Hùng sử dụng kỹ thuật thêu thủ công [Nguồn ảnh: Ảnh Quốc Huy]

H.4.32. Mẫu áo dài trong BST Áo dài mùa thu năm 2017 của NTK La Hằng sử dụng kỹ thuật thêu thủ công [Nguồn ảnh: Facebook Áo dài La Hằng] - Kỹ thuật vẽ hoa văn thủ công

237

a. b. c. d. e. H.4.33. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật vẽ thủ công [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Áo dài thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 / 7 / 2018] H.4.33. a và b. Áo dài vẽ thủ công tạo họa tiết trang trí của họa sỹ Sĩ Hoàng (năm 1989)

H. 4.33. c, b và d. Áo dài vẽ thủ công họa tiết trang trí của họa sỹ Sĩ Hoàng trong bộ sưu tập Quốc hoa các nước ASIAN trên áo dài

H. 4.34. Mẫu áo dài trong BST Quốc hoa sử dụng kỹ thuật vẽ tay của NTK Sĩ Hoàng [Nguồn ảnh: www.sihoang – art.com]

238

- Kỹ thuật in

H. 4.35. Mẫu áo dài của NTK Minh Hạnh trình diễn tại Festival Huế năm 2012, sử dụng kỹ thuật in tạo họa tiết hoa văn [139] - Kỹ thuật đính kết – xếp bèo

H 4.36. Mẫu áo dài sử dụng kỹ thuật xếp bèo và đính kết tạo hoa văn trang trí trong BST Fusion của NTK Quỳnh Paris năm 2014 [Nguồn ảnh: Trịnh Lai]

239

H. 4.37. Mẫu Áo dài của NTK Lương Minh Sơn năm 2015 sử dụng kỹ thuật đính kết cườm [Nguồn ảnh: VA]

a. b. c. H.4.38. Mẫu áo dài sử dụng các kỹ thuật trang trí [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018] H.4.38. a. Áo dài cưới của cô dâu Lê Diễm Thi ở Huế năm 2006 H.4.38. b. Áo dài của NTK Minh Hạnh thiết kế năm 2010 H. 4.38.c. Áo dài của NTK Ngân An thiết kế năm 2010

240

4.7. Thiết kế áo dài trình diễn

a. b.

c. d.

241

đ. e.

ê. f. H.4.39. Mẫu áo dài trình diễn H.4.39.a. Hoa hậu Thùy Lâm mặc áo dài của NTK Thuận Việt [122] H.4.39.b. Hoa hậu Diễm Hương mặc áo dài của NTK Thuận Việt [122] H.4.39.c. Hoa hậu Trương Thị May mặc áo dài của NTK Thuận Việt [122]

242

H.4.39.d. Người đẹp Đặng Thu Thảo mặc áo dài của NTK Võ Việt Chung [Nguồn ảnh: Tay Kaka] H.4.39.đ. Hoa hậu Phạm Hương mặc áo dài của NTK Thuận Việt [Nguồn ảnh: Kiếng Cận] H.4.39.e. Người đẹp Khả Trang mặc áo dài của NTK Tuấn Hải [Nguồn ảnh: Bảo Lưu] H.4.39. ê. Hoa hậu Thúy Vân mặc áo dài của NTK Huỳnh Hải Long - [111] H.4.39.f. Cao Thùy Linh mặc áo dài của NTK Tuấn Hải [Nguồn ảnh: Lê Trung] 4.8. Thiết kế áo dài mặc trong lễ cưới

a. b. H. 4.40. Mẫu áo dài cưới của NTK Anh Thư [131] H. 4.40.a. Diễn viên Thúy Diễm mặc áo dài trong lễ cưới H.4.40.b. Mặt trước và sau của mẫu áo dài cưới của diễn viên Ngọc Diệp

243

4.9. Những mẫu áo dài có nhiều yếu tố cách tân

a. b. c. H. 4.41. Mẫu áo dài có nhiều yếu tố cách tân [135] H.4.41.a. Á Hậu Hoàng My mặc áo dài có kết cấu khuyết một tay và hở lưng. H. 4.41.b. Hoa hậu Thể thao Trần Thị Quỳnh mặc áo dài thân trên bằng vải lưới mỏng để lộ nội y. H. 4.41.c. Hoa hậu Thùy Dung mặc áo dài có kết cấu cúp ngực hở vai.

H.4.42. Mẫu áo dài do Thúy Vy trình diễn tại cuộc thi Hoa Hậu Thế Giới 2011 [Nguồn ảnh: Nguyễn Long]

244

4.10. Áo dài của các tộc người thiểu số và áo sườn xám Trung Hoa

a. b. c. H.4.43. Mẫu áo dài truyền thống của các tộc người thiểu số ở Việt Nam [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018] H.4.43. a. Áo dài Thái Trắng (sưu tầm năm 1977) H.4.43.b Áo dài Chăm ở Ninh Thuận (sưu tầm năm 1994) H.4.43. c. Áo dài Tày ở Cao Bằng (sưu tầm năm 1962)

H.4.44. Những chi tiết tạo hình trên các mẫu áo dài truyền thống của các tộc người Thái Trắng, Thái Đen và Chăm [Nguồn: NCS chụp tại Bảo tàng Phụ Nữ Việt Nam vào tháng 12 năm 2018]

245

H.4.45. Một số kiểu sườn xám của Trung Hoa năm 1920 [99]

a. b. H.4.46. Một số kiểu dáng áo sườn xám năm 1930- 1940 [99]

a. b. H.4.47. Áo sườn xám những năm 1950 và 1960 [144]

246

H. 4.48. Áo sườn xám biến đổi theo từng giai đoạn [Nguồn: NCS vẽ]

a. b. H.4.49. Bản vẽ đường thiết kế áo dài theo công thức H.4.49.a. Bản vẽ đường cắt vải thân trước – thân sau và tay raglan [Nguồn: Đinh Mai Hương] H.4.49.b. Bản vẽ đường cắt vải thân trước – thân sau và tay tròn [Nguồn: Đặng Thu Hương]

247

H.4.51. Bản vẽ đường cắt vải may áo sườn xám năm 1930 (thân sau - thân trước – thân trước đáp ngoài) [50]

248

Phụ lục 5 Minh họa áo dài 5.1. Hình dáng và kết cấu các loại áo dài trước năm 1930

H.5.1. Áo tứ thân cổ tròn đệm lá sen, áo đổi vai nối vạt [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.2. Áo không cổ mặc ngoài và áo tứ thân cổ mệnh phụ [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.3. Trang phục của hiền phi Trương Thị Ngọc Lãnh và vương phi Trần Thị Ngọc Am [91]

249

a. b. H.5.4.a. Trang phục triều phục của Hoàng hậu Ngọc Bạch [91] H.5.4.b. Trang phục của tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.5. Áo đoàn lĩnh cổ tròn (viên lĩnh) [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.6. Áo năm thân cổ đứng cài khuy tay thụng (áo thụ lĩnh) [Nguồn: NCS vẽ]

250

H.5.7. Áo năm thân cổ đứng cài khuy tay hẹp (thân trước và thân sau) [Nguồn: NCS vẽ] 5.2. Hình dáng và kết cấu áo dài những năm 1930 đến năm 1980

H.5.8. Hình dáng và kết cấu của một số mẫu áo dài tiêu biểu do Nguyễn Cát Tường thiết kế từ những năm 1930 [Nguồn: NCS vẽ]

251

H.5.9. Hình dáng và kết cấu áo dài [Nguồn: NCS vẽ] H.5.9.a. Áo dài miniraglan và áo dài hippy H.5.9.b. Hình dáng và kết cấu áo dài được bà Trần Lệ Xuân mặc những năm 1960 và 1970 5.3. Áo dài những năm 1980 đến năm 2017 5.3.1. Hình dáng và kết cấu

H. 5.10.Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Sĩ Hoàng [Nguồn: NCS vẽ]

252

H.5.10. a. Hình dáng và kết cấu áo dài trong BST Quốc Hoa H.5.10. b và c. Hình dáng và kết cấu áo dài trong BST Vương Triều H.5.10. d. Hình dáng và kết cấu áo dài trong BST Hội nhập

a. b. H. 5.11. Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Minh Hạnh [Nguồn: NCS vẽ] H.5.11. a. Hình dáng và kết cấu áo dài trong BST ý tưởng từ hoa Sen trình diễn tại Festival Huế năm 2012 của NTK Minh Hạnh H.5.11. b. Hình dáng và kết cấu áo dài của một số mẫu tiêu biểu trong BST ý tưởng từ thổ cẩm tộc người H’Mông trình diễn và trưng bày tại bảo tàng Pháp

253

H.5.12. Hình dáng và kết cấu Áo dài tiêu biểu trong BST Hương sắc Việt của NTK Lan Hương [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.13. Hình dáng và kết cấu Áo dài tiêu biểu của NTK Thủy Nguyễn [Nguồn: NCS vẽ ]

254

H.5.14. Hình dáng và kết cấu áo dài của NTK Ngọc Hân lấy ý tưởng từ đất nước Nhật Bản [Nguồn: NCS vẽ] 5.4. Những biến đổi tạo hình thiết kế 5.4.1. Hình dáng cổ áo

a. b. c. H.5.15. Dáng cổ có chân truyền thống [Nguồn: NCS vẽ] (H.a. Cổ cao góc vuông; H.b. Cổ thấp vuông góc; H.c. Cổ cao cong góc)

H.5.16. Các dáng cổ không chân [Nguồn: NCS vẽ]

255

5.4.3. Tỷ lệ và hình dáng áo dài tạo phong cách

H.5.17. Phong cách truyền thống [Nguồn: NCS vẽ] (Mẫu áo của NTK Minh Hạnh, Sĩ Hoàng và Lương Minh Sơn)

H.5.18. Phong cách truyền thống [Nguồn: NCS vẽ] (Mẫu áo của NTK Lan Hương, Đức Hùng, Vũ Việt Hà)

256

H.5.19. Phong cách hiện đại /trẻ trung năng động [Nguồn: NCS vẽ] (Mẫu áo của NTK Sơn Collection, Ngọc Hân và Việt Hùng)

H.5.20. Phong cách áo dài trình diễn ấn tượng (vẽ theo mẫu áo của Hoa hậu Diễm Hương và Hoa hậu Trương Thị May) [Nguồn: NCS vẽ]

257

H.5.21. Hình dáng, kết cấu và tỷ lệ của phong cách áo dài [Nguồn: NCS vẽ] 5.4.4. Thiết kế bản vẽ đường kết cấu cắt vải may áo dài - Áo năm thân cổ giao lãnh Mẫu áo Bản vẽ trên vải

H.5.22. Tổ hợp hình thiết kế các chi tiết áo năm thân cổ giao lãnh [Nguồn: NCS vẽ]

258

- Áo năm thân cổ đứng Mẫu áo Bản vẽ trên vải

H.5.23. Tổ hợp hình thiết kế các chi tiết áo năm thân cổ đứng [Nguồn: NCS vẽ] - Áo dài thiết kế dựa vào số đo của cơ thể (mẫu áo của họa sỹ Nguyễn Cát Tường) Mẫu áo Bản vẽ trên vải

- Mẫu áo dài tân thời

Bản vẽ thiết kế [Nguồn: NCS vẽ]

259

Thiết kế các chi tiết [Nguồn: NCS vẽ]

- Mẫu áo dài cổ cao - tà thụng

Bản vẽ thiết kế [Nguồn: NCS vẽ]

260

Thiết kế các chi tiết [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.24. Tổ hợp hình thiết kế áo dài theo số đo cơ thể (mẫu áo dài của họa sỹ Nguyễn Cát Tường) - Mẫu áo dài được áp dụng công thức thiết kế tạo đường ly chiết Mẫu áo Bản vẽ thiết kế theo công thức dựa trên số đo cơ thể

Bản vẽ thiết kế tay raglan [Nguồn: NCS vẽ]

261

Thiết kế các chi tiết [Nguồn: NCS vẽ]

Bản vẽ thiết kế tay vai tròn [Nguồn: NCS vẽ]

262

Thiết kế các chi tiết [Nguồn: NCS vẽ]

H.5.25. Tổ hợp hình thiết kế áo dài áp dụng công thức thiết kế ( áo dài tay raglan và tay tròn)

263

Phụ lục 6 Bảng biểu đối sánh thiết kế áo dài 6.1. Bảng tham chiếu biến đổi hình dáng và kết cấu áo dài của phụ nữ Việt

Bảng.6.1. Tham chiếu áo dài dưới dạng hình học qua các giai đoạn [Nguồn: NCS vẽ] Giai đoạn và phân loại theo Hình dáng và kết cấu Hình dáng và đặc điểm của áo dài áo dài mặt chính diện kết cấu áo dài góc nghiêng

Trước - Áo dài những năm năm thân 1744 - 1837 cổ giao lãnh

264

Năm - Áo dài

1744 - 1837 năm thân

cổ đứng

Năm - Áo dài - Mẫu áo dài tân thời

1934 - 1955 Nguyễn Cát

Tường

- Mẫu áo dài cổ cao - tà thụng

265

Năm - Áo dài

1950 - 1970 Trần Lệ Xuân

- Áo dài

Miniraglan

Năm - Áo dài của Sĩ Hoàng 1980 - 2017

266

- Áo dài Minh Hạnh

- Áo dài Ngân An

- Áo dài La Hằng

267

- Áo dài

Lan Hương

Bảng 6.2. Hình dáng và kết cấu mắt trước và góc nghiêng của áo dài [Nguồn: NCS vẽ] Áo dài đời thường Áo dài trình diễn

- Áo dài phong cách - Áo dài phong cách - Áo dài trình diễn phong truyền thống trẻ trung năng động cách ấn tượng

Bảng 6.3. Tạo hình đặc trưng các mẫu áo dài đời thường và áo dài trình diễn [Nguồn: NCS vẽ]

268

6.2. Màu sắc áo dài qua các giai đoạn Màu sắc

Trước những năm 1930

Màu sắc áo dài trong dân gian (vẽ theo từ liệu)

Giai đoạn từ năm:

1930 - 1980 Màu sắc áo dài trong đời thường (theo từ liệu ảnh ở PL1)

Giai đoạn từ - Tư duy và thẩm mỹ dùng màu sắc áo dài của Sĩ Hoàng thiết năm: kế [PL 4, H.4.34]

1980 - 2010

- Tư duy và thẩm mỹ dùng màu sắc áo dài của NTK Minh Hạnh [PL4, H.4.10]

- Tư duy và thẩm mỹ dùng màu sắc áo dài do Ngân An thiết kế [PL 4, H.4.38.c.]

269

- Tư duy và thẩm mỹ dùng màu sắc áo dài do La Hằng thiết kế [PL 4, H.4.24.]

- Tư duy và thẩm mỹ dùng màu sắc áo dài do Lan Hương thiết kế [PL 4, H.4.17.a.]

Bảng 6.4. Màu sắc áo dài qua các giai đoạn [Nguồn: NCS vẽ] - Tổng hợp các cặp phối màu trong một số bộ sưu tập áo dài từ năm 2010 - 2017 Phối màu Áo dài của Các cặp phối màu tiêu biểu NTK (màu của áo với quần và màu áo với màu trang trí)

NTK Minh Hạnh

(BST ý tưởng thổ cẩm của tộc người H’Mông năm 2012)

NTK Sĩ Hoàng

(BST Quốc hoa năm 2015 )

270

NTK Lan Hương

(BST Hương sắc Việt năm 2016)

NTK La Hằng

(BST Áo dài mùa thu năm 2017)

NTK Đức Hùng

(BST Non thiêng năm 2016 )

NTK Ngọc Hân

(BST ý tưởng về văn hóa đất nước Nhật Bản năm 2016 )

NTK Thủy Nguyễn

(Màu sắc trong sezi Áo dài hai tà)

271

NTK Lương Minh Sơn (năm 2015)

NTK Sơn Collection

(năm 2017)

NTK Vũ Việt Hà

(BST Hoa Lan năm 2016)

Bảng 6.5. Các cặp phối màu trong thiết kế áo dài giai đoạn 2010 - 2017 [Nguồn: NCS vẽ]

272

6.3. Tạo hình áo dài của phụ nữ Việt với áo dài của các tộc người thiểu số và áo sườn xám Trung Hoa Hình dáng áo Các mảng hình kết cấu (thân trước, thân sau và các chi tiết tay, cổ)

1. Mẫu áo dài tiêu biểu của phụ nữ Việt từ những năm 1930 - 1980

2. Áo dài của phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận (năm 1994)

-Mặt trước

273

- Mặt sau

3. Áo dài của phụ nữ Tày ở Cao Bằng (năm 1962)

Mặt trước

Mặt sau

274

4. Áo dài của phụ nữ Thái Trắng và Thái Đen

- Áo dài của phụ nữ Thái Trắng ở

Thanh Hóa (năm 1977) Mặt trước

Mặt sau

- Áo dài của phụ nữ Thái Đen

Mặt trước

275

Mặt sau

5. Áo sườn xám (từ năm những 1920 đến những 1960)

- Những năm 1920

- Những năm 1930 và 1940:

276

- Những năm 1950 và 1960

Bảng 6.6. Hình dáng - kết cấu áo dài phụ nữ Việt với các tộc người và áo sườn xám [Nguồn: NCS vẽ] Áo dài của Áo dài Áo dài của Áo sườn xám phụ nữ của phụ phụ nữ Chăm nữ Tày Thái

Màu sắc - Những năm 1920

- Những năm 1950 –

1960

Bảng 6.7. Màu sắc áo dài của các tộc người và áo sườn xám [Nguồn: NCS vẽ]

277

Phụ lục 7 Danh mục người phỏng vấn STT Họ và tên Nghề nghiệp và Địa chỉ Thời điểm thời gian làm nghề phỏng vấn

1 Nghệ nhân Mỹ - Thợ may Số 82 Cầu 03/12/2018 Hào Gỗ, Hoàn - Làm nghề từ Kiếm, Hà những năm 1940 và Nội. đến nay ông truyền nghề cho con dâu

2 Nghệ nhân - Dệt lụa Làng Vạn 30/07/2018 Nguyễn Thị Tâm Phúc, - Làm nghề từ những năm 1970 Hà Đông, đến nay Hà Nội.

3 Nghệ nhân - - Thiết kế thời trang Số 18 Đường 09/08/2018 NTK Lan Hương Âu Cơ, Tây - Làm nghề từ Hồ, Hà Nội. những năm 1996 đến nay

4 NTK La Hằng Thiết kế thời trang Số 41 21/08/2018

- Làm nghề từ Phùng Hưng, những năm 1992 Hà Nội. đến nay

5 NTK Hương Thiết kế áo dài 18 Phùng 23/ 4/ 2019 Giang Khắc Khoan,

278

Hà Nội

6 Đỗ Văn Minh Thợ nhuộm Làng nghề 22/4/2019 Vạn Phúc, Hà Nội

7.1. Nghệ nhân Mỹ Hào - Hỏi: Xin ông cho biết, vào những năm 1940 đến 1970, để đánh giá vẻ đẹp của áo dài thì cần dựa vào những tiêu chí nào ? - Trả lời: Những năm tôi làm nghề đa phần là làm phục vụ cho dân nên họ thích thế nào thì mình chiều theo ý họ (khách hàng). Đa phần là thích mặc rộng thoải mái, kín đáo. Trước đây, tà áo trung bình phải cách mặt đất 20cm mới đẹp, còn từ ngày giải phóng thì tà áo ngắn đến đầu gối, mãi về sau tà áo thấp xuống đến bắp chân. Từ ngày giải phóng, các kỹ thuật ở Miền Nam cũng được vận dụng vào may áo dài. Nên dáng áo dài đẹp hơn nhiều, khỏe mạnh hơn như cổ áo hở không kín đáo như trước. Mặc áo dài phải đi giầy mới đẹp chứ không ai đi dép cả. Khi mặc áo dài họ thường đánh phấn, quần áo phải là ủi cẩn thận, phải chỉnh chu đồng bộ chứ không vớ đâu mặc đấy. - Hỏi: Và những kỹ thuật quan trọng nào để tạo nên hình dáng đạt tiêu chuẩn của áo dài. - Trả lời: Những kinh nghiệm trong kỹ thuật may áo dài đa phần là do khách dạy mình. Nhiều người kỹ tính họ yêu cầu may phải kỹ… nên chính họ đã dạy mình, họ dạy cả cách làm ăn. Mỗi người có cách may khác nhau, không ai giống ai. Không thể may của người này áp vào người kia, nó không phù hợp, như vậy mất khách ngay.

279

Kỹ thuật phải rất kỹ như “trong dán hồ, ngoài phô trứng nhện”, khâu bằng chỉ tơ tằm mua trong làng Vạn Phúc. Nhưng bây giờ khách không yêu cầu kỹ như thế, dễ dãi hơn nhiều, họ chỉ cần khi mặc lên dáng áo ôm sát người, còn thợ may bây giờ kém lắm, nhìn chung là “nhanh - nhiều - tốt - rẻ”. Để may được áo dài đẹp, kỹ thuật đo kích thước các vòng của từng phần cơ thể là quan trọng. Những người thợ non đo thường hay phải sửa chữa, thợ cứng đo là ăn ngay. Hay kỹ thuật tạo ly cũng thế, độ dài của ly xác định phụ thuộc vào người lưng ngắn hay lưng dài. Độ rộng của ly cũng được xác định từ vòng ngực và vòng hông. Nhìn chung là làm theo yêu cầu của khách, do đó người thợ phải nền tính thì mới làm được theo yêu cầu của khách. Không làm theo ý của mình được. - Hỏi: Vào thời điểm những năm 1970 – 1990 áo dài thường được may bằng những chất liệu vải gì ạ? - Trả lời: Đa phần là chất liệu lụa, còn những người có tiền thì thích mặc vải nhung, vì kén người lắm và mặc nhanh bạc tuyết, nhưng rất sang. - Hỏi: Và những màu sắc nào được sử dụng phổ biến để may áo dài ? - Trả lời: Tùy theo độ tuổi họ thích các màu khác nhau như tuổi từ 30 đến 40 thích mặc màu hoàng yến, tím than, tím huế, xanh cô ban, màu cá vàng. Những người buôn bán, lao động thích mặc màu nâu, đen. Học sinh, sinh viên mặc màu trắng. Đặc biệt là áo dài có màu sắc thế nào cũng chỉ mặc với quần màu trắng hay màu đen. Không mặc quần nhiều màu như bây giờ. Người nào béo thì mặc màu sẫm, không mặc màu sáng. Hay những người da trắng mặc những màu sắc nổi. Kể cả họa tiết hoa văn cũng tùy theo dáng, người béo mặc kẻ dọc, không mặc ca rô vuông. - Hỏi: Ông cho biết vậy những kiểu áo dài nào được phụ nữ thời đó mặc phổ biến?

280

- Trả lời: Trước năm 1947, áo dài thường mặc áo vai bồng, chỉ người me Tây hay lấy người Tây mới mặc, con nhà tử tế Hà Nội ngày xưa không mặc như vậy. Từ những năm sau ngày giải phóng, mới may áo dài tay raglan và có nhiều kiểu mẫu hơn. Nhìn chung khách hàng yêu cầu như thế nào thì may như vậy. Xin cám ơn ông! 7.2. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tâm - Hỏi: Xin chị cho biết, những chất liệu lụa nào được yêu thích dùng may áo dài trước những năm 1990? - Trả lời: Những chất liệu lụa có hoa văn thường được yêu thích để may áo dài nhất. Để tạo hoa trên vải thì người làng Vạn Phúc sáng tạo ra đầu tiên. Trước đây ở làng tôi dệt vải xong đem đi bán khắp nơi ở Hà Nội, kể cả ở Miền Nam – Sài Gòn. Khi vào Sài Gòn buôn bán thấy trong đó bán đầu máy Hồng Kong (là đầu máy làm hoa) thì các cụ làng tôi mua về, sau này mới biết đó là đầu máy Jaka được người Hồng Kong nhập từ Phương Tây. Đầu máy này có thể tạo ra nhiều mẫu hoa phức tạp hơn. Từ đó trên lụa xuất hiện nhiều mẫu hoa văn mới, năng xuất lao động cao hơn so với dệt bằng tay. Ở Vạn Phúc có 2 đặc sản chính là lụa Vân và Sa. Lụa vân có bề mặt lụa mỏng và có thể nhìn xuyên thấu bên trong. Trông mỏng nhưng mặc lên người lại không mỏng, mặc vào rất mát, dễ chịu. Có nhiều loại hoa văn được dệt tạo nên lụa vân. Sa trơn mỏng như cánh chuồn, thường dùng may phủ bên ngoài. Nó vừa có màu, nhưng khi phủ ngoài của lớp bên trong thì vẫn có thể nhìn thấp thoáng của màu phía trong. Vân – Sa – The là cùng một nhóm lụa đẹp, và thường dùng phối hợp may áo dài. Cho đến bây giờ lụa vẫn là chất liệu hàng đầu để may áo dài, khách hàng nhà tôi thường may áo dài và họ rất thích. Tôi thấy không có chất liệu nào đẹp

281 hơn để may áo dài. Bởi khi mặc nó kiêu sa, sang trọng và cảm thấy thoải mái, dễ chịu. - Hỏi: Và thị hiếu sử dụng màu sắc chất liệu tơ tằm của phụ nữ thời đó ra sao ạ? - Trả lời: Trước những năm 1990, chúng tôi làm lụa thì cũng chỉ có mấy màu cơ bản như màu mỡ gà, trắng đục, nâu đồng, màu tím huế, tím hoa cà, màu xanh thiên thanh hay xanh da trời, bây giờ gọi là màu xanh ngọc. Nhìn chung màu sắc hạn chế hơn bây giờ nhiều. Bây giờ thì có nhiều tông màu vì có hóa chất nhuộm, còn trước đây màu nhuộm từ những nguyên liệu tự nhiên như củ nâu, hay lá cây. Những tông màu bây giờ khá đa dạng, có cả những màu nhẹ, màu tươi để phù hợp với thị hiếu của con người trong xã hội. Xin cám ơn chị! 7.3. Nghệ nhân Lan Hương - Hỏi: Xin chị cho biết, để tạo ra những bộ sưu tập áo dài có cần đến một qui trình design. - Trả lời: Để tạo ra bộ sưu tập áo dài thì trải qua một qui trình khắt khe, nó không giống như một qui trình thiết kế những trang phục khác. Bởi ta phải thiết kế nó theo một khuôn mẫu sẵn, chúng ta chỉ làm cho nó có nghệ thuật. Công thức thiết kế phải chuẩn, và được soi xét từ đường cổ, đường tà… kỹ lưỡng. Tiêu chuẩn áo dài phải là tay raglan, tà áo dài tùy theo từ thời kỳ mà tà áo được thiết kế, như bây giờ thì tà áo phải ngang bắp chân mới đẹp. Áo dài phải tôn vinh dáng vẻ của người phụ nữ từ bờ vai, bầu ngực, đường thắt eo. - Hỏi: Khi bắt đầu thiết kế bộ sưu tập mới, chị quan tâm đến điều gì?

282

- Trả lời: Chất liệu là yếu tố quan trọng nhất trong thiết kế áo dài. Đối với chị, không gì đẹp hơn là lụa. Tuy nhiên lụa thì có lụa dầy, lụa mỏng, do đó khi thiết kế mình phải chọn những loại lụa phù hợp với từng người. Như những phụ nữ cá tính thì không thể khoác trên người họ chất liệu lụa mềm rũ, như thế sẽ không ăn với thần thái, tính cách của họ. Nhiệm vụ của nhà thiết kế phải bắt được cái thần của người mặc để đưa ra chất liệu, hình thức mô típ trên áo sao cho phù hợp với hình dáng của người mặc hay với hoạt cảnh, công việc, điều kiện cuộc sống của người mặc. - Hỏi: Được biết, chị là người yêu thích sáng tạo dựa trên những giá trị truyền thống như kỹ thuật thêu thủ công, chất liệu lụa tơ tằm, chất liệu vải thổ cẩm và đã rất thành công. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ - kỹ thuật hiện đại và đặc biệt là trong bối cảnh giao thoa hội nhập toàn cầu. Vậy theo chị, yếu tố này có tác động đến thiết kế áo dài hiện đại không? - Trả lời: Theo chị dù có khoa học kỹ thuật phát triển và giao thoa văn hóa đến đâu đi nữa thì khi thiết kế áo dài – một sản phẩm truyền thống của dân tộc thì càng phải gìn giữ những giá trị truyền thống. Ngày nay các nhà thiết kế trẻ thường vận dụng những công nghệ in hiện đại như một giải pháp tức thời. Họ muốn thay đổi chủ đề, tạo sự phong phú về đề tài, do đó dùng công nghệ in hỗ trợ vào sáng tạo, thiết kế áo dài. Điều này cũng rất tốt nhưng theo chị nó không có giá trị bền lâu. - Hỏi: Theo chị sự khác biệt giữa thiết kế áo dài trình diễn và áo dài đời thường ? - Trả lời: Rất khác nhau, như chị đã nói thiết kế áo dài phải phù hợp với hoạt cảnh của người mặc, như một cô giáo thường đứng trên bục giảng thì không thể may cho cô ý mặc những bộ áo dài quá diêm dúa, màu sắc rực rỡ hay

283 thêu đắp nhiều. Mà phải may cho cô ý những mẫu áo dài nền nã, tinh tế phù hợp với không gian, hay vận động, cử chỉ khi dạy học. Hay khi thiết kế cho một siêu mẫu, một cô Hoa hậu dùng trong những buổi tiệc và họ là nhân vật chủ thể thì cần thiết kế những mẫu áo dài phải lộng lẫy, cầu kỳ trong tạo hình nhằm thu hút tạo tâm điểm của buổi tiệc đó. Như vậy tùy vào mỗi hoạt cảnh mà nhà thiết kế sáng tạo áo dài sao cho phù hợp và tôn vinh được người mặc. Xin cám ơn chị! 7.4. NTK La Hằng - Hỏi: Xin chị cho biết, là người có nhiều năm thiết kế áo dài và đạt được những thành công nhất định. Vậy điều đặc biệt của áo dài là gì ? - Trả lời: Chị thấy áo dài của Việt Nam mình rất đẹp, đó là cái đẹp bởi sự đơn giản. Nó chỉ là 2 mảnh tà buông kết hợp với quần đã làm nên người phụ nữ Việt Nam. Hai tà áo dài như 2 lá mầm của hạt đậu, khi tách mở ra để hở một khoảng trời nhỏ. Điểm hở đó chính là điểm thắt eo, từ điểm eo đó tách ra thành 2 tà áo. Điểm thắt đáy lưng ong đó còn thể hiện một đức tính của người phụ nữ Việt Nam tần tảo, chịu thương chịu khó, khéo chiều chồng và khéo nuôi con. Áo dài mà lùng tùng có nhiều hoa văn, mũ mã thì nó làm mất đi vẻ giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Nó là áo dài của bậc vương giả, chỉ phù hợp với các cuộc biểu diễn. Và như 2 tà áo giáp, người mặc dường như đang phải chịu đựng. Do đó áo dài chỉ đẹp khi nó đơn giản! Ngoài ra áo dài còn giúp khắc phục những nhược điểm, bởi người Việt Nam dóng chân thường là ngắn, cong, lưng dài chân ngắn. Chính tà áo và quần đã che được những khuyết điểm đó. - Hỏi: Ngày nay có rất nhiều xu hướng thiết kế áo dài khác nhau, và chịu nhiều tác động của các yếu tố khách quan như xu hướng thời trang, yếu tố khoa

284 học kỹ thuật, giao thoa văn hóa. Vậy quan điểm thiết kế áo dài hiện đại của chị là gì? - Trả lời: Trước hết người thiết kế phải có tâm và trình độ thẩm mỹ tốt và là người phải hết sức tinh tế, sâu sắc để nhìn và cảm nhận được đối tượng mặc áo dài. Do đó tùy từng người mà thiết kế, bởi mỗi người mỗi vẻ, có người lại cần phải thiết kế đơn giản, nhưng có người lại cần đẩy hoa văn trang trí để tạo nên mẫu áo ấn tượng. Có người thì cần đẩy thiết kế bằng phom dáng, có người lại phải cho họ mặc bằng tinh thần. Tinh thần được thể hiện qua sự sang trọng, mà sự sang trọng đó là chất liệu và màu sắc. Như tùy vào nước da của người mặc mà người thiết kế sử dụng màu sắc cho hợp lý, như người da sẫm màu thì nên chọn những màu không quá chói hay quá nhạt. Nếu cần thiết thì phải đẩy cả hoa văn. Hay có người phụ nữ tính cách hiền dịu, nói năng nhẹ nhàng lại cần thiết kế toát nên sự đơn giản, bởi nó phù hợp tính cách dịu dàng của họ. Do đó khi thiết kế áo dài khó có thể theo xu hướng nào cả, bởi có xu hướng này phù hợp với người này nhưng không phù hợp với người kia. Tuy nhiên cũng tùy từng người mà người thiết kế chọn lọc xu hướng phù hợp với hình dáng, tinh thần của họ. - Hỏi: Tiêu chuẩn trong thiết kế áo dài của chị? - Trả lời: Tiêu chuẩn quan trọng nhất đó là áo dài phải tôn lên được người mặc. Áo dài đẹp là sự đơn giản, đơn giản đó là sự sàng lọc của những thứ phức tạp, chứ không phải là không có gì. Xin cám ơn chị!

285

7.5. NTK Hương Giang - Hỏi: Xin chị cho biết, những thập niên gần đây áo dài đã có nhiều biến đổi do các yếu tố khác nhau. Vậy những mẫu áo dài chị thiết kế có thay đổi, và những thay đổi đó có theo xu hướng hay theo điều gì ? - Trả lời: Chị thường thiết kế theo nhu cầu của mọi người trong xã hội. Tuy nhiên dù có thay đổi đến đâu thì áo dài không được mất đi những đường nét đặc trưng cơ bản như phần tay raglan, hay phần tà áo (tỷ lệ dài tà không quá ngắn hay tay áo không quá cộc/ sát nách). Những mẫu thiết kế của chị thường thay đổi nhiều nhất là màu sắc và họa tiết. Đây là những yếu tố chị biến đổi theo nghiên cứu xu hướng thời trang trong nước và thế giới. Mỗi năm có những thay đổi để áo dài không bị lệnh với thẩm mỹ chung của xã hội. Tuy nhiên cũng có những điều chỉnh theo thẩm mỹ của cá nhân để áo dài chị thiết kế giữ bản sắc riêng. Ví dụ áo dài không nên thiết kế tay quá ngắn (hở bắp tay) như vậy áo dài có tạo hình giống với áo sườn xám. - Hỏi: Những công nghệ kỹ thuật nào được áp dụng vào thiết kế áo dài ? - Trả lời: Bên chị thường dùng những kỹ thuật thủ công là chính như khâu tay ở phần tà, hay thêu tay tạo họa tiết. Tuy nhiên tùy vào đối tượng, mục đích sử dụng mà những mẫu áo dài đã được chị dùng các sản phẩm ren hoa dệt sẵn (sản phẩm của kỹ thuật thêu máy hiện đại) để đính trang trí trên áo dài. - Hỏi: Vậy những hình thức, kỹ thuật nào được chị sử dụng trong trang trí áo dài. - Trả lời: Chị kết hợp rất nhiều kỹ thuật vào làm họa tiết trang trí, như một mẫu áo dài có thể vừa kết hợp đắp vải tạo mảng hình, cùng với đó là thêu tay tạo nét viền quanh các mảng hình đó, tiếp tục đính đá, hạt cườm đè nên tạo

286

độ sáng lấp lánh và cuối cùng là vẽ điểm chấm màu xung quanh tạo nên hiệu ứng lan tỏa màu sắc từ mảng hình trọng tâm tới các vị trí xung quanh. Tuy nhiên không phải mẫu nào cũng làm vậy, có mẫu áo chị lại tập trung tả sự sống động của bức tranh thiên nhiên như tả bông hoa sen, cành và lá… hay màu cỏ cây của đồng ruộng thì chị lại chọn kỹ thuật thêu thủ công nhằm dùng sắc độ của chỉ, tơ để tạo nên sức sống của nó. Chỉ với kỹ thuật miêu tả sắc độ và hình thể của ý tưởng bằng chỉ, tơ đó thôi cũng đủ để tạo nên giá trị nghệ thuật trang trí áo dài. Xin cám ơn chị! 7.6. Thợ nhộm lụa Đỗ Văn Minh - Hỏi: Qua tìm hiểu, được biết chú là một trong những người có kinh nghiệm làm nghề nhuộm lụa ở làng Vạn Phúc. Vậy xin chú cho biết, dưới tác động của khoa học công nghệ - kỹ thuật có ảnh hưởng vào quá trình tạo màu sắc trên lụa không ạ ? - Trả lời: Gia đình chú làm nghề từ những năm đầu thế kỷ XX, tuy nhiên có thời điểm bị gián đoạn, nhưng đến năm 1996 lại quay trở lại làm nghề cho đến ngày nay. Những năm gia đình chú quay trở lại làm nghề thì khoa học kỹ thuật, phẩm màu công nghiệp đã phát triển lắm rồi. Đa phần sử dụng thuốc nhuộm hóa học và các chất dẫn vào quá trình nhuộm lụa. Lúc đó không ai còn dùng kỹ thuật thủ công như tạo màu bằng lá cây hay vỏ cây gì nữa. Bởi nó không phù hợp với nhu cầu dùng màu sắc của xã hội. Bên cạnh đó là kinh tế thị trường, dùng hóa chất nhuộm màu tạo hiệu quả nhanh – bền – đẹp, đặc biệt là tạo sự đa dạng màu sắc cho sản phẩm. Màu sắc của phẩm màu công nghiệp là không giới hạn, ưu việt hơn bảng màu được nhuộm từ nguyên liệu tự nhiên.

287

- Hỏi: Chú có thể nói cụ thể về kỹ thuật nhuộm màu công nghiệp và chắc hẳn là có những công thức nhuộm? - Trả lời: Tuy dùng hóa phẩm công nghiệp để nhuộm màu nhưng mỗi màu được tạo ra hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm pha chế tỷ lệ hóa phẩm, hay việc dùng các chất dẫn để giúp quá trình tạo màu hiệu quả. Chứ không dập khuôn theo công thức tạo màu. Ví như khi nhuộm lụa mà có 2 chất liệu như sợi tơ tằm tự nhiên và sợ nhân tạo, hay còn gọi là lụa 2 da. Để tạo nên màu sắc cho 1 mặt là màu vàng, mặt còn lại là màu nâu, thì bắt thì trong quá trình nhuộm bắt buộc phải cho soda (soda vốn là một dạng thuốc dùng để tẩy sạch trước khi nhuộm màu). Bởi mỗi sợi (sợi dọc là tơ tằm, sợi ngang là tơ nhân tạo) có đặc tính hấp thụ màu khác biệt và cho kết quả là mỗi mặt vải có một màu. Có những màu khi pha chế thuốc nhuộm với các chất dẫn và xử lý nhiệt độ (thông thường 80 độ C) theo đúng công thức thì ra, nhưng có màu làm đúng công thức không tài nào ra nổi. Đến khi thử nghiệm làm ngược lại qui trình thì ra, ví như tạo màu vàng - nâu cho lụa 2 da. Do đó khi nhuộm không hoàn toàn là theo công thức chuẩn mà còn phải kết hợp kinh nghiệm. Xin cám ơn chú!

288

Phụ lục 8 Đặc điểm thiết kế áo dài của một số tộc người ở Việt Nam và áo sườn xám Trung Hoa 3.1.1.1. Áo dài của phụ nữ Chăm Ở Việt Nam người Chăm phân bố sinh sống ở các tỉnh phía Nam như Ninh Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Tây Ninh… Người Chăm được chia thành nhiều nhóm cộng đồng như Chăm Ninh Thuận, Chăm Nam Bộ, và Chăm H’roi. Sự phân chia này thường theo đặc điểm cư trú vùng miền và tín ngưỡng tôn giáo. Người Chăm có truyền thống trồng lúa nước lâu đời, bên cạnh đó còn có các nghề tiểu thủ công đặc sắc, điển hình có nghề gốm và nghề dệt vải mang lại nét văn hóa đặc trưng. * Các yếu tố thiết kế áo dài Qua khảo sát, áo dài Chăm ở Ninh Thuận được thiết kế mặc chui đầu, thân áo thiết kế theo lối đặc trưng khác biệt so với một số tộc người khác. Với khổ vải nhỏ, họ đã sử dụng phương pháp và kỹ thuật may can ghép thân áo. Tuy nhiên không giống như can ghép thân từ chính giữa thân áo đi ra giống tộc người Tày hay người Việt mà họ đã gập đôi khổ vải hình chữ nhật có chiều dài gần bằng chiều cao cơ thể (áo dài chấm gót) khoét một hình tròn lớn đủ vừa kích thước vòng đầu người mặc và tạo điểm xẻ V phía thân trước dễ dàng khi mặc chui đầu. Tạo dáng cổ tròn xẻ V (hay còn gọi là cổ thìa) tạo điểm nhấn độc đáo và tinh tế. Về hai bên sườn may ghép với mảnh vải gấp đôi từ gầm tay áo chạy qua gầm nách xuống hết gấu áo tạo nên hình tam giác. Nếu gỡ tấm vải ghép thân đó sẽ tạo nên hình đồng hồ cát, điểm thắt của hình rơi vào đúng điểm eo của người mặc (đo từ đỉnh vai xuống tới điểm thắt của hình tam giác bằng 35cm – con số này trùng với thông số đo hạ eo). Chính mảnh vải ghép thân trước và sau ở sườn áo tạo nên độ rộng và tạo dáng xòe đáy cho trang phục. Tạo hình của áo dài còn gọi là áo dài bít tà. Phần tay áo may ghép nối vào điểm

289 vai hay còn gọi là vòng nách, và tạo thành hình thang. Độ dài của ống tay áo đo được là 55cm, trong khi đó khổ vải vào khoảng 40, vậy là theo khổ vải thì không đủ chiều dài tay áo. Như vậy, có lẽ riêng phần tay áo người Chăm đã xoay ngang khổ vải ngược với chiều thân áo thiết kế theo dọc khổ vải. Về cơ bản áo dài Chăm tạo hình khá đơn giản, họ đã xử lý kích thước rộng thân áo và kích thước của cơ thể người rất hợp lý, nếu thoáng qua người nhìn có thể không nhận biết được sự can chắp. Bởi phía thân trước và thân sau không để lộ đường can ghép thân. Nếu áo dài được may để mặc vào lễ cưới hoặc các ngày hội, thì tại đúng đường can ghép thân đó được may gắn đè lên một dải dây trang trí có kích thược rộng 1cm chạy dài theo đường kết cấu dọc thân áo, dải trang trí có dạng họa tiết thổ cẩm, màu sắc nổi bật tạo điểm nhấn trang trí cho trang phục. Áo dài của người Chăm cũng không quá cầu kỳ về kết cấu, hình dạng. Kết cấu được dùng phổ biến cho tất cả phụ nữ Chăm. Tuy nhiên về màu sắc thì người Chăm cũng có những sự đa dạng tùy vào độ tuổi, hoặc tuy theo tín ngưỡng. Như phụ nữ theo đạo Bàni, ưa chuộng màu trắng và một số màu trầm như tím sậm hoặc nâu. Phụ nữ theo đạo Bàlamôn lại ưa thích nhiều màu sắc nhưng không quá lòe loẹt. Người Chăm sử dụng áo dài khá phổ biến trong ngày thường và lễ hội. Với trang phục lễ hội, họ kết hợp áo dài với các phụ kiện như khăn dài để choàng cổ và một cắp dây, một là để vắt chéo qua vai xuống ngang hông, một dây thắt ngang eo – bụng, hai dây này được gọi là Talei ka-ing. Áo dài thường mặc kết hợp với váy, váy có dạng hình ống, đôi khi là váy quấn. Kích thước rộng váy hẹp, khi di chuyển phụ nữ thường phải đi những bước chân ngắn và chậm dãi. Có lẽ yếu tố này cũng góp phần tạo nét duyên của phụ nữ Chăm. Nhìn chung, áo dài của phụ nữ Chăm rất đặc biệt, áo được thiết kế phần thân trên ôm sát cơ thể, làm nổi bật phần ngực của người phụ nữ, phần thân từ

290 hông xuống gấu váy xòe mềm mại tạo sự tương phản với thân trên. Phần tạo hình này vừa phù hợp với văn hóa tộc người – họ thường quì gối khi tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng đồng thời cũng thể hiện giá trị thẩm mỹ đặc trưng. 3.1.1.2. Áo dài của phụ nữ Thái Tộc người Thái được xác định có nhiều nhóm, nhóm đan xen, cư trú xen kẽ ở các xã, huyện như Văn Chấn – Mường Lò, Than Uyên – Mường Than, Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Sơn La, Mai Châu…Tuy nhiên, theo nghiên cứu cho thấy phần lớn tồn tại 2 nhóm Thái là nhóm Thái Đen và Thái Trắng. Bởi đây là 2 nhóm Thái có bản sắc văn hóa đặc sắc tộc người, Thái Đen mặc trang phục màu đen và chít khăn đen, Thái Trắng mặc đồ trắng chít khăn trắng. * Các yếu tố thiết kế áo dài Nhìn chung hai nhóm Thái đều có những điểm giống và khác nhau trong quá trình tạo kết cấu áo. Như áo dài – xửa chai đều là dạng áo lớn mặc ngoài chui đầu, khoét cổ, vạt vuông, có tay và không xẻ tà. Nhóm Thái Trắng: Áo dài – xửa chai của người Thái có hình dáng được phát triển từ khổ vải truyền thống – 40cm. Do đó hình dáng xửa chai có dáng hình chữ nhật. Tuy nhiên kết cấu của áo được chiết eo – xửa eo hắt. Kiểu xửa eo hắt được thiết kế ngay dưới điểm gầm nách. Từ điểm này được vẽ thẳng khổ vải, tiếp tục đánh xòe xuống gấu áo. Tuy nhiên để tạo độ xòe của áo, người cắt phải chắp đáp thêm một phần vải ngoài. Ý tường này một phần đảm bảo tính công năng khi sử dụng, thuận lợi trong di chuyển và hoạt động khác, phần đảm bảo tính thẩm mỹ đặc trưng của người Thái Trắng. Phần tay áo được thiết kế dạng hình ống thẳng từ đường vòng nách đến gấu tay. Do đó để tạo dáng được đường cong theo cơ thể và vừa kích thước vòng ngực người ta cần can một miếng vải dưới gầm nách. Miếng vải có hình tam giác, phía đỉnh góc nhọn được can với thân tay, cạnh đáy can vào đường

291 vòng nách và thân áo. Miếng vải tam giác dưới gầm nách không có kích thước cụ thể mà được ước lượng tạo sự và ôm kít phần ngực của người mặc. Tùy vào kích thước và đặc điểm phần ngực của người mặc để thiết kế miếng vải tam giác đó. Miếng tam giác này được gọi là lịn xửa hay gọi chung là lưỡi áo. Đối với thiết kế áo của người Thái Trắng thì lưỡi áo được áp dụng cho cả áo xửa cỏm và áo xửa chai. Bởi theo quan niệm, chức năng và kỹ thuật tạo dáng thì lưỡi áo là điểm quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về cơ thể của người con gái. Khi con gái lớn, trưởng thành thì lưỡi áo càng lớn và tạo nên kích thước chuẩn của trang phục. Như vậy hình dáng chung của kết cấu xửa chai là sự kết hợp chính từ hình chữ nhật và hình tam giác. Hình tam giác thứ nhất được thiết kế ở gầm nách tạo kích thước ôm vòng ngực, sự vừa vặn cho thân trên cơ thể. Hình tam giác thứ hai là phần can sườn có chiều dài kéo từ gầm nách xuống gấu áo tạo độ xòe loe. Chiều dài hình tam giác được xác định theo chiều dài váy, nhưng độ rộng lại không hạn chế, tùy theo nhu cầu của người dùng độ rộng có thể lớn hay nhỏ. Tuy nhiên vẫn đảm bảo được công năng và thẩm mỹ chung cho xửa chai. Hình dáng thân áo chính đươc thiết kế dựa theo khổ vải – hình chữ nhật. Do kích thước khổ vải nhỏ hơn với kích thước cơ thể người nên người Thái Trắng đã chia thân trước thành 3 mảng theo dọc thân, 2 mảng kích thước rộng từ ¼ rộng cổ trước đến hết điểm đầu vai, mảng giữa thân rộng khoảng 2/4 rộng cổ (khoảng 7cm). Ba mảng được nối ghép với nhau tạo độ rộng thân trước tương đương với kích thước của cơ thể. Thân sau chia thành 2 mảng theo dọc thân nối ở sống lưng. Phần cổ áo thiết kế xẻ V trước có chân cổ 3cm và đỡ phía trong là mảng vải hình chữ nhật cách đều chân cổ 5 cm tạo độ chắc chắn cho phần vai. Nhìn chung cách tạo hình dáng trang phục và kết cấu của người Thái Trắng đã tạo nên giá trị đặc sắc không chỉ về sự linh hoạt trong kỹ thuật xử lý

292 khổ vải mà còn tạo nên giá trị thẩm mỹ riêng. Người Thái không dùng đến hình dáng của các đường cong nhưng vẫn tạo nên độ mềm mại cho người phụ nữ khi sử dụng. Từ phom dáng ôm phần ngực thân trên chuyển xòe dần xuống phần gấu, vừa tạo sự thuận lợi trong di chuyển nhưng cũng vừa tạo giá trị nghệ thuật cho trang phục. Nhóm Thái đen: Được xác định là có 2 loại áo dài, một loại có hình dáng và kết cấu gần giống với áo dài năm thân của người Việt. Tuy nhiên loại áo này không mặc phổ biến mà thường mặc cho người quá cố, với quan niệm khi mặc áo dài – xửa chai thì người chết đó sẽ được tổ tiên nhận biết qua trang phục trong Miềng trời bao la và đưa về đoàn tụ. Do đó áo này ít được phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Còn loại áo dài thứ hai có hình dáng theo hình chữ nhật được ghép từ những mảng hình nhỏ ghép dọc thân. Tạo hình thân trước và thân sau gần giống nhau, thân trước là 5 mảng lớn, tuy nhiên phần thân phía bên trái chia mảng thành 3 mảng nhỏ. Bởi có lẽ, người Thái rất thích số lẻ, ta cộng tổng các mảng hình dọc thân trên toàn thân áo được là 9 mảng. Với họ số lẻ là số chưa hoàn thiện, là số của người sống, luôn cần cố gắng để hoàn thiện bản thân hay số lẻ còn biểu hiện của sự sinh sôi nảy nở. Còn số chẵn là số hoàn thiện dành cho người chết khi về với tổ tiên. Do đó là khi NCS đo trực tiếp kích thước của các mảng hình trên áo thì đều cho ra con số lẻ. Như cửa tay áo là 17, tổng chiều dài tay là 41, các mảng can ở thân áo có mảng: 20.5; có mảng: 11.5. Với người Thái Đen, tạo hình của họ cũng không có đường cong lượn, tất cả là những mảng hình cứng với những tỷ lệ lớn nhỏ khác nhau, may ghép thành mảng lớn tạo thân áo. Tuy nhiên, nếu nhìn theo bản vẽ thông số thì cho thấy áo dài của họ khá cứng và thiếu sự linh hoạt cho người mặc. Về điểm này có lẽ là do quan niệm trong văn hóa, bởi trên thân áo họ lại sử dụng rất nhiều hình họa tiết trang trí với màu sắc sặc sỡ trên nền màu chàm của áo. Đây có lẽ là điểm nhấn có giá trị văn hóa đặc trưng của người Thái Đen.

293

Điểm đặc biệt là ở phần chân cổ áo thân sau được thiết kế có 2 ly rúm từ điểm tra vòng cổ. Hai ly này được thiết kế tạo độ ôm chân cổ nhưng lại tạo độ loe phía trên. Điểm tạo dáng này có lẽ do người Thái muốn phần cổ áo không ôm sát cổ mà có điểm mở xòe phía trên, rất đặc trưng. - Chất liệu: Người Thái cũng như một số tộc người khác ở Việt Nam đều sử dụng những nguyên liệu từ thiên nhiên để may trang phục. Nguyên liệu chủ yếu sợi bông, và tơ tằm, đây là những nguyên liệu gắn bó lâu đời với đời sống của người Thái. - Kỹ thuật tạo kết cấu: Áo của người Thái được làm theo nguyên tắc gập đôi mảnh vải khổ hẹp theo chiều dọc, khoét cổ phía trên mảnh vải và không hạ xuôi vai áo. Nhìn qua cho thấy áo vai ngang, về kỹ thuật và thẩm mỹ thì kiểu vai này chưa thực sự đẹp mắt bởi kiểu vai ngang này sẽ tạo nên những phần vải thừa của vải vì theo cấu trúc cơ thể - nhân trắc học: từ điểm cạnh cổ đến hết xương đòn có một phần cơ nổi ụ lên, phần cơ này tạo nên một đường cong – hay thường gọi là xuôi vai, trung bình đường xuôi này vào khoảng 5cm dóng ngang từ vị trí xương đòn đến chân cổ. Như vậy người Thái thiết kế vai ngang thì 5cm này sẽ tạo nên những nếp nhăn thừa ở phần nách áo. Trên áo có “lưỡi áo” ở gầm nách, “lưỡi áo” là mảnh vải nhỏ được may ghép gầm nách tạo độ rộng của phần ngực áo, và được thiết kế theo kích thước của cơ thể nhằm tạo lên sự vừa vặn cho áo. Nếu phần vai của họ bị thừa và có nhiều nếp nhăn thì có lẽ họ sẽ làm giảm nếp nhăn đó theo kích thước của lưỡi áo. Do đó khi phụ nữ Thái Trắng mặc áo dài ta không thấy rõ được các nếp nhăn. Còn với người Thái Đen, theo đặc điểm thiết kế áo dài của người Thái Đen có hình chữ nhật kéo thẳng, không có đường lượn cong. Với dáng áo này tạo nên kích thước rộng so với đặc điểm cơ thể người. Do đó ở một số vị trí như eo, ngực, nách và phần thân dưới – chân, sẽ có cảm giác rộng đều. Chính cách thiết kế rộng đều toàn

294 thân này tạo đã làm dung hòa, không gây chú ý đến điểm thừa ở phần nách do thiết kế vai ngang tạo nên. Kỹ thuật khâu ghép thân áo của người Thái cũng rất tinh tế, họ chủ yếu khâu tay. Những mảng vải ghép thẳng họ thường khâu đột bằng chỉ đôi hoặc chỉ bốn nhằm tạo sự chắc chắn cho đường may những cũng vừa mang hàm ý trang trí. Với những mảng hình cong mềm mại thì họ lại chọn kỹ thuật khâu vắt lỏng chỉ. Kỹ thuật khâu vắt được xử lý mũi chỉ chạy theo đường chéo giống hình tam giác, khi khâu không rút chỉ chặt chỉ tạo độ vừa êm của 2 mặt vải chồng lên nhau. Kỹ thuật này vừa tạo độ êm phẳng cho mặt vải lại khiến 2 mặt vải có thể di chuyển tách nhau nhưng không bị rời khi người mặc có những cử động làm căng điểm may ghép. Như vậy sự tài tình, khéo léo của người Thái thể hiện qua kỹ thuật may ghép trên trang phục rất rõ. Từ những mảng hình nhỏ (khổ vải nhỏ 40cm) người ta đã chắp ghép những mảng hình đó với nhau để tạo nên những tấm áo - xửa chai đẹp. Kỹ thuật thiết kế áo dài còn thể hiện về khả năng ước lượng kích thước cơ thể người, từ đó lựa chọn kích thước thân áo cho phù hợp và vừa vặn với cơ thể. - Màu sắc: Màu chủ đạo của áo dài Thái là những màu chàm đen, chàm tím, đỏ, vàng... và màu bạc ánh kim loại từ những hàng khuy. Tuy nhiên màu chàm là màu được dùng phổ biến, các màu đỏ, vàng, tím, xanh… là những màu tươi rực rỡ chỉ dùng làm trang trí. Màu chàm gắn bó với đời sống, môi trường thiên nhiên của người Thái. Nhìn chung màu sắc của người Thái phản ánh được đặc trưng văn hóa tộc người. - Họa tiết trang trí: Nghệ thuật trang trí của người Thái thể hiện nét tinh tế trên từng loại trang phục. Bởi tùy vào đối tượng sử dụng, nghệ thuật trang trí lại có những phương án, bố cục, họa tiết, màu sắc và chất liệu khác nhau, nhằm thể hiện được chức năng xã hội như giới tính, ứng xử với môi trường sống. Có

295 thể nói trang trí trên trang phục còn biểu hiện của thẩm mỹ dân gian trong đời sống văn hóa của cộng đồng tộc người Thái. Nghệ thuật trang trí trên Xửa chai (xửa luông) của phụ nữ Thái có 2 kỹ thuật chính, là các kỹ thuật như: thêu và chắp ghép vải (xửa cỏm có trang trí 2 hàng cúc bướm bằng bạc). Vị trí trang trí được tập trung vào nẹp cổ và 2 nẹp thân áo trước. Họa tiết chủ yếu là những hình hoa lá, mặt trời, trăng, sao và các họa tiết hình học như hình chữ nhật, tam giác, hình tròn… những họa tiết được sắp đặt theo bố cục cân đối ở 2 bên nẹp áo và bố cục chạy theo vòng cổ áo. Đối với áo xửa chai của phụ nữ Thái đen, vị trí và mật độ trang trí nhiều hơn tập trung ở toàn thân trước - sau, được chải đều theo các mảng vải ghép trên thân. Nếu nhìn ở mặt vải chính ngoài của xửa chai thì những mảng trang trí che lấp kín những đường can ghép vải. Do đó để nhận biết được số lượng mảng vải ghép NCS đã phải lật mặt trái bên trong của vải để đo và vẽ lại những mảng trong kết cấu đó. Kỹ thuật trang trí trên xửa chai của người Thái đen chủ yếu dùng kỹ thuật can ghép và đáp vải. Còn xửa chai của Thái trắng chủ yếu dùng kỹ thuật thêu trên nền vải áo chính, hạn chế dùng đắp vải. Màu của họa tiết trang trí được lựa chọn là những màu nổi bật như trắng, đỏ, vàng, xanh, tím… phối hợp trên nền vải màu chàm xanh. Do đó bộ trang phục khá bắt mắt. Yếu tố nổi bật này phải chăng tạo nên sự tươi vui, rực rỡ cho trang phục mặc với mục đích đi lễ hội hay những buổi lễ trọng đại trong gia đình. Nếu so sánh tính trang trí của xửa chai của 2 nhóm Thái thì xửa chai của ngành Thái đen có phần rực rỡ hơn, mang đậm yếu tố nghệ thuật hơn so với xửa chai của người Thái trắng. Tuy nhiên không phải vì ít tính trang trí mà xửa chai của Thái trắng không nổi bật và không nghệ thuật. Giá trị nghệ thuật của xửa chai của người Thái trắng nằm ở phần thiết kế tạo hình kết cấu trang phục.

296

Kết cấu này mang giá trị thực dụng cao, gắn với đời sống hàng ngày, mang lại những tiện lợi trong các hoạt động của con người với môi trường sống, lao động. Do đó xửa chai của ngành Thái trắng được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày cũng như trong lễ hội, song hành cùng với xửa cỏm và váy (loại thường phục). Còn xửa chai của ngành Thái đen lại chỉ dùng vào những ngày lễ trọng đại, ít phổ biến trong đời sống. Người Thái Đen có hai loại xửa chai, một là loại có kết cấu giống với áo dài năm thân của người Việt, lý giải cho hiện tượng này có lẽ là do hiện tượng giao lưu tiếp biến trong văn hóa mặc của những giai đoạn lịch sử trước kia (phần này NCS xin phép trình bày ở một chuyên đề khác). Loại xửa chai này thường mặc trong những ngày lễ, tang ma và họ mặc cho người chết với mục đích là tín hiệu giúp tổ tiên trong gia đình nhận ra con cháu họ trong thế giới bên kia. Tuy nhiên loại Xửa chai này với người Thái đen ở Tây Bắc lại dùng trong những ngày cưới và lễ hội. Loại thứ hai là xửa chai có kết cấu áo theo cấu trúc hình chữ nhật, đó là những mảng hình chữ nhật, vuông chắp ghép với nhau để tạo nên tấm áo lớn. Loại này thường dùng vào những dịp lễ hội lớn trong năm. Người Thái Đen mặc xửa chai này kết hợp với khăn piêu tạo nên một sự hoàn chỉnh của một bộ lễ phục. Với người Thái Trắng họ đơn giản hóa tính nghi lễ, nên họ sử dụng áo dài thường xuyên và gần với cuộc sống thực. Cũng bởi thế trên áo tính trang trí cũng hạn chế hơn, nhằm phù hợp với môi trường sống. Như vậy trang phục với người Thái không chỉ với chức năng mặc che thân mà còn thể hiện giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật đặc sắc. Dẫn theo lời PGS.TS Lê Ngọc Thắng: Có thể nói trang phục là một “lớp da” nhân tạo để bảo vệ con người trong môi trường tự nhiên và làm đẹp con

297 người trong môi trường xã hội. “Lớp da” thứ hai này không phải là lớp da “sinh học” mà là “lớp da văn hóa” [64, tr 128 -129]. Ngày nay, trong nhịp sống hiện đại, sự giao thương hàng hóa đã tác động không nhỏ đến văn hóa của các tộc người, với người Thái cũng không ngoại lệ. Do đó có những hiện tượng giao thoa trong nghệ thuật thiết kế, tạo hình trên trang phục, hay trong cách sử dụng trang phục và đặc biệt đã có những quan niệm thẩm mỹ cũng được thay đổi so với những thời kỳ trước. 3.1.1.3. Áo dài của phụ nữ Tày Về trang phục, người Tày không có nhiều kiểu cách, các kiểu mặc phổ biến là những mẫu áo có kết cấu gần giống với áo của người Việt. Loại áo mặc ngoài là áo dài năm thân, cổ đứng – hở cổ. Bên ngoài mặc áo dài được là một dải thắt lưng buộc có màu sắc. Kiểu áo dài mặc cùng với quần, với người già họ lại mặc với váy. * Các yếu tố thiết kế áo dài Hình dáng áo dài của phụ nữ Tày là hình thang kéo dài, tay thiết kế liền vai, được chia làm 3 đoạn theo tỷ lệ nhỏ dần từ chân cổ qua vai đến cửa ống tay áo theo tỷ lệ là 35 - 23 - 9. Sự phân chia này có lẽ là do khổ vải của họ là khổ vải nhỏ nên phần thân áo và vai liền nhau. Theo khảo sát thông số của thân áo từ đường giữa thân đến hết điểm can tay vào khoảng 40cm, đó cũng là con số tương ứng với khổ vải nhỏ truyền thống của các tộc người. Hình dáng của áo là sự kết hợp các hình khối chữ nhật và hình thang tạo sự hài hòa khi mặc trên cơ thể. Tuy nhiên thân áo lại là hình thang có xu hướng xòe rộng phần gấu áo nên khi người mặc tạo sự mềm mại hơn so với việc hình dáng trên mặt phẳng. Điểm đặc biệt trên áo dài của phụ nữ Tày chính là phần lượn gấu hay gọi phần sa vạt. Sa vạt áo thân trước là 11cm, sa vạt sau là 6cm, đây một thông số không hề nhỏ với phần sa vạt áo. Bởi thông thường tỷ lệ sa vạt của các dáng áo thiết kế là 3 đến 4cm cho vạt trước và không có sa vạt thân

298 sau. Nhưng với người Tày họ lại thiết kế phần sa vạt lớn như vậy, có lẽ bởi những quan điểm thẩm mỹ riêng chăng. Theo sự phán đoán của NCS thì phần sa vạt trên áo dài đó không chỉ là tạo dáng áo mềm mại cho trang phục mà có lẽ là còn có ý đồ trang trí hết sức tế nhị của phụ nữ Tày. Kết cấu trang phục của áo dài được tạo bởi 4 khổ vải tương ứng với 2 thân áo, thân trước gồm 2 mảng, thân sau 2 mảng. Phần thân trên của áo được thiết kế ôm sát cơ thể, mặc dù không có các đường can nách như áo dài của người Thái và của người Chăm. Để tạo được ý đồ thẩm mỹ đó, khi mặc phụ nữ thường thắt thêm dải dây lưng quấn từ 1 đến 2 vòng quanh điểm eo. Từ gầm nách 2 thân trước và thân sau được may can ghép tạo đường sườn áo, độ dài đường can là 14cm. Vị trí này cũng là điểm xẻ tà của thân áo. Vì thế dây thắt lưng không những có vai trò tạo độ ôm sát thân áo với cơ thể mà nó còn dùng để giữ 2 phần tà áo thân trước vào thân sau như một cách định hình làm rõ vào tạo điểm nhấn nổi bật của phom dáng áo. Áo dài của phụ nữ Tày có kết cấu 5 khổ vải may ghép hay thường gọi là 5 thân, trong đó 4 thân thể hiện rõ bên ở phía ngoài còn thân thứ năm được nằm ở phía dưới thân bên phải, có vai trò đỡ thân áo phía trên và cũng là điểm cài cúc áo. Vậy áo có điểm mở ở bên phải người mặc, điểm mở xuất phát từ chính giữa cổ áo (hay chính là điểm can thân áo) vắt chéo xuống gầm nách và cài khuy đến đúng điểm xẻ tà. Cổ áo thiết kế tròn ôm khít vòng cổ, có phần dựng lá cổ khoảng từ 2 đến 3cm, phần lá cổ (có người gọi là chân cổ) được thiết kế dựng nghiêng phù hợp với độ nhân trắc phần cổ của người mặc, phía trước có độ mở khoảng 3cm, điểm mở này được tạo nhằm tạo sự thoải mái cho người mặc, nhưng đồng thời cũng là điểm nhấn trang trí đặc trưng. Để tạo thêm độ cứng cáp phần cổ áo, người ta may đáp thêm một mảng vải hình tròn hay còn gọi đáp cổ lá sen phía bên trong của áo. Khi khâu đáp cổ lá sen những mũi chỉ

299

được làm nổi trên mặt vải chính - phía ngoài, tạo nên một đường chỉ nổi chạy xung quanh vòng cổ như một ý đồ trang trí đẹp mắt. Chất liệu vải truyền thống của áo dài chủ yếu là vải thô mộc được dệt từ nguyên liệu sợi bông, nên trang phục có phần mềm mại. Tuy nhiên ngày nay chất liệu truyền thống đó cũng không còn phổ biến như trước. Bởi người ta đã thay thế nó bằng những loại vải công nghiệp, có khổ vải rộng, mềm bóng và không mất nhiều công sức về việc dệt vải cũng như nhuộm màu. Như vậy, mặc dù áo dài của phụ nữ Tày không thể hiện tính trang trí ở những họa tiết hoa văn nhưng lại thể hiện trong tạo hình kết cấu và màu sắc của trang phục. Không sử dụng quá nhiều màu sắc, chỉ với 2 màu của nền vải – màu chàm đen và màu sắc dây lưng cũng đã tạo nên những dải màu đặc trưng núi rừng. Đây chính là những giá trị thẩm mỹ khác biệt của tộc người Tày, dù trang phục của họ có sự giao thoa, hỗn dung văn hóa mặc với người Việt hay không thì với thẩm mỹ và quan niệm văn hóa của mình họ cũng đã tạo nên được bản sắc riêng của một tộc người miền núi có truyền thống lâu đời. 3.1.1.4. Áo sườn xám Thượng Hải (Trung Hoa) Qua những tác động của văn hóa Phương Tây, trang phục của người Trung Quốc đã thay đổi một cách rõ rệt, từ trang phục nam đến nữ. Kết quả của quá trình biến đổi trang phục ở giai đoạn này đã tạo nên một kiểu dáng trang phục đặc trưng của phụ nữ Trung Quốc – áo Sườn xám. Vậy có thể hình dung về nguồn gốc lịch sử của áo sườn xám như sau: Áo sườn xám được cách tân từ chính kì bào của người Mãn Hán (ở Trung Nguyên). Khi tiếp quản triều đình nhà Thanh, nhà Mãn đã ép buộc người dân sử dụng trang phục truyền thống của mình. Kiểu trang phục của nhà Mãn Hán là kiểu áo khoác không cổ và quần dài, không mặc váy. Do đó, giai đoạn này phụ nữ mặc phổ biến là mặc áo bào dài kết hợp với quần hoặc có kiểu mặc thành váy (phần thân dưới để lộ chân).. Kiểu này mặc thịnh hành cho tới những năm 1920, khi xã hội Trung Hoa có

300 những tiếp nhận văn hóa mới từ Âu Mỹ, nhóm nữ sinh du học đã chủ động cải biên kiểu mặc này thành đơn giản hơn, táo bạo hơn. Họ chỉ mặc áo kì bào dài, để hở chân, đi giày cao gót, tức là không mặc cùng quần nữa. Ban đầu các cô gái mặc áo dài đến mắt cá chân, nhưng chiều dài của thân áo cũng thay đổi ngắn dần. Tiếp đó là thân áo, từ mặc rộng suôn thẳng nhưng cũng dần thành ôm sát cơ thể và có xẻ tà đến gần ngang đùi. Chiều dài tay áo cũng được biến đổi, tay áo không còn dài như trước mà thu ngắn lên, về sau có những mẫu áo còn hở cả bắp tay. Những biến đổi này bị tác động bởi xuất hiện rất nhiều kiểu áo, váy đầm của Phương Tây. Đặc biệt các kiểu sườn xám không tay được phụ nữ kết hợp với các kiểu áo choàng khoác bên ngoài (vào mùa đông lạnh) của người Phương Tây tạo nên một thị hiếu thẩm mỹ mới. Nhìn chung, áo sườn xám trở nên đa dạng, có nhiều biến tấu mới. Tuy nhiên ta có thể nhận biết chung về mẫu áo sườn xám về hình dạng như chất liệu của áo được làm từ các nguyên liệu như bông, gai, tơ tằm. Áo có đường xẻ hai bên sườn, vạt áo đôi lúc là vuông, nhưng đôi lúc hình vòng cung. Trên vạt áo có trang trí đáp viền xung quanh. Áo mặc ôm sát cơ thể. Màu sắc trang nhã nhưng đa sắc. * Các yếu tố thiết kế Người Mãn Hán tạo nhiều kiểu dáng áo chủ yếu là sự thay đổi về kích thước dài áo và dài tay áo. Do đặc điểm của khí hậu, là nơi có khí hậu lạnh nhiều do đó họ phải mặc ghép nhiều áo với nhau. Thông thường với thời tiết se lạnh họ mặc áo kì bào dài tay ở bên trong và mặc bên ngoài là kì bào không tay. Áo kì bào không tay có chiều dài thân ngắn hơn áo trong và thường là áo cổ đứng tròn và ôm khít cổ người mặc. Điểm đặc biệt của loại áo là điểm mở thường xuất phát từ chính giữa cổ áo chạy sang bên phải và tạo góc đi xuống sườn áo. Do áo kì bào xuất hiện vào thời kỳ cận đại Trung Hoa, nền khoa học phát triển được ứng dụng trong quá trình dệt vải, nên vải lúc này có khổ rộng,

301 người thợ may không phải nối thân áo hay tay áo như trước nữa. Nhưng trên thân áo vẫn được trang trí bằng điểm đáp nối tay và đắp viền quanh thân. Bởi trong văn hóa của người Trung Hoa, họ rất thích thể hiện màu sắc và đưa các họa tiết hoa văn trên trang phục nói chung và trên áo kì bào nói riêng. Những mảng can ghép được tạo bởi những màu sắc và họa tiết khác nhau, có lẽ nhằm làm nổi bật được ý tưởng trang trí, tạo nên sự trang trọng cho kì bào. Kì bào có hình dáng là hình chữ nhật kéo dài theo chiều cao cơ thể, tạo dáng suông thẳng. Phần tay áo thiết kế nối gần vuông góc với thân và cũng có dáng hình chữ nhật. Cổ áo được khoét tròn và có đường can viền chạy quanh cổ áo cả thân trước và thân sau. Do kì bào được mặc ở phía ngoài nên áo được tạo dáng có phần trang trọng và cầu kỳ hơn. Tạo hình áo cứng, một phần do hình dáng và chất liệu vải gấm, ngoài ra còn do trên thân áo được may can đắp 1 lớp vải viền mép chạy theo tà áo, và những lớp chỉ thêu họa tiết. Vào những năm 20 – 30 thế kỷ XX, áo kì bào đã chính thức thay đổi theo xu hướng thẩm mỹ mới và được gọi bằng áo sườn xám. Hình dáng và kết cấu không có sự thay đổi nhiều, chủ yếu thay đổi về kích thước và tỷ lệ chi tiết áo. Về kích thước thân áo: Sườn xám vẫn được thiết kế theo cấu trúc hình chữ nhật, nhưng tạo sự vừa vặn hoặc ôm sát kích thước cơ thể người mặc thông qua tạo dáng của đường ly chiết ở vị trí eo và hai bên mép sườn ngực áo. Đường ly chiết được đưa vào nhằm giảm độ rộng áo. Theo cấu trúc cơ thể, các vòng ngực, eo, hông có kích thước chênh lệch khá lớn. Như một người phụ nữ trung bình phần ngực có kích thước là 86cm, phần eo là 65cm, phần hông là 90cm. Vậy khoảng cách từ vòng eo so với ngực là 21cm, so với hông là 25cm. Vậy khi tạo ly, trung bình độ rộng của ly áo là 3cm, mỗi thân áo giảm được 6cm, vậy tổng toàn thân trước và sau là 12cm. Đây là con số không nhỏ trong việc giải quyết độ thừa của thân áo. Trước đó, áo kì bào thiết kế thẳng theo kích thước của vai và hông. Tức là theo thông số lớn nhất của cơ thể, do đó dáng áo

302 cứng hơn so với tạo dáng áo sườn xám. Phương pháp tạo đường ly chiết trong thiết kế áo sườn xám được tiếp nhận theo công thức số học từ Phương Tây. Tỷ lệ dài thân áo: chiều dài thân áo sườn xám là một trong những yếu tố được thay đổi nhiều nhất. Khởi nguồn từ áo kì bào có chiều dài thân áo chấm mắt cá chân, tuy nhiên áo sườn xám có chiều dài ngắn lên đến lưng ống chân và đôi khi là ngang gối. Phần vạt áo thiết kế có độ sa vạt nhưng không nhiều (khoảng 1-2cm). Trên thân có xẻ tà tương đương với tỷ lệ 1/3 chiều dài thân tính từ gầm nách xuống gấu, nếu xác định trên cơ thể thì điểm xẻ tương ứng với vị trí ngang đùi người mặc. Phía dưới điểm xẻ, lại được đính những hàng khuy dây nhằm giữ 2 tà. Như vậy điểm xẻ tà trên thân áo tạo điểm nhấn táo bạo cho người mặc, có lẽ đây cũng là một yếu tố Âu hóa trên trang phục của người Phương Đông. Tạo hình tay áo: Tay áo sườn xám có hình dáng dạng hình chủ nhật, được thiết kế từ đầu vai tạo một vòng tròn – đường cắt này là đường vòng nách. Cách tạo kết cấu vòng nách cũng giúp giảm các nếp nhăn, độ rộng thừa giữa phần vai, thân và tay. Tuy nhiên thời điểm năm 1930, song song với thiết kế vòng nách thì có đường cắt tay áo đi từ cạnh đường vòng cổ lượn xuống gầm nách. Cách thiết kế này tạo dáng có phần mềm mại và triệt tiêu được nhiều nếp nhăn hơn cách thiết kế vòng nách, ở Việt Nam cách thiết kế này được gọi là thiết kế tay áo raglan. Độ dài của tay áo được thay đổi tùy theo sở thích của người mặc cũng như là sự thay đổi của thời tiết. Như vậy, tạo hình dáng và kết cấu của sườn xám đã thể hiện được thị hiếu thẩm mỹ thời đại. Và cũng thể hiện được nhu cầu của người mặc, nghệ thuật thiết kế gắn liền với tính thực dụng cao. Tuy nhiên sườn xám vẫn thể hiện được sự kín đáo trang trọng cho người mặc phù hợp với văn hóa Phương Đông. Đây là điểm khác biệt so với trang phục Phương Tây, người Phương Tây

303 thường thiết kế cổ áo sâu và rộng, khi phụ nữ mặc để lộ ra nhiều phần da thịt ở phía thân trên tạo sự quyến rũ mang phong cách đặc trưng. Ngoài kỹ thuật dệt lụa tơ tằm nổi tiếng thế giới, người Trung Hoa còn có các nghề thủ công khác như nghề thêu và đan len. Trong nghệ thuật trang trí của người Trung Hoa, nghề thêu đã xuất hiện từ rất lâu đời và đạt đến thành tựu nhất định. Các hình họa tiết phổ biến thể hiện tinh thần Phật giáo bao gồm hình chim Bồ câu, chim Công, hình dây leo, hình hoa Sen, hoa Cúc…ngoài ra còn có những họa tiết hình học như hình tròn, hình lượn sóng, hình vuông, hình lục lăng, tất cả hòa quyện và tạo thành những họa tiết mang phong cách tự do phóng khoáng. Đây chính là những họa tiết điển hình trên trang phục truyền thống của người Trung Hoa. Trên kì bào họa tiết được sắp xếp theo hai dạng bố cục, ở các vị trí như trên các đường can chắp nẹp tà áo, cổ áo và cửa tay. Họa tiết được thêu theo dạng cân đối chạy đường diềm xung quanh vị trí nẹp. Nhưng trên nền thân áo trước và sau lại sắp xếp bố cục tự do. Tuy nhiên tỷ lệ kích thước của các họa tiết ở viền nẹp, cổ áo, cửa tay thường lớn hơn so với họa tiết ở thân áo. Thời cận đại, kỹ thuật thêu vẫn phát triển và phổ biến trên áo sườn xám. Người ta chọn những loại vải trơn – không có họa tiết để may áo sườn xám, nhằm phát huy những giá trị truyền thống dân tộc. Chính yếu tố này đã tạo nên giá trị trong văn hóa mặc của người Trung Hoa, mặc dù kết cấu và hình dáng của sườn xám đã có nhiều biến đổi của văn hóa Âu Tây. Ngày nay, đất nước Trung Hoa đã phát triển vượt bậc về may mặc như công nghệ, kỹ thuật dệt vải, kiểu dáng và màu sắc… hòa nhập với các nền văn hóa mặc trên thế giới. Tuy nhiên sườn xám vẫn là một sản phẩm văn hóa mặc đặc trưng của phụ nữ Trung Hoa, bởi những giá trị cốt lõi trong thiết kế không thể trộn lẫn với trang phục của dân tộc khác.

304

Thiết kế áo sườn xám khá linh hoạt và thay đổi theo mùa, khí hậu. Mùa đông lạnh, thiết kế sườn xám không tay mặc lồng ngoài của 1 áo sườn xám có tay. Chất liệu chủ yếu là vải gấm dày (là loại vải được dệt từ 54 sợi tơ nhỏ se thành sợi tơ lớn). Trên tà áo thiết kế bản viền nẹp lớn. Mùa hè, sườn xám được thiết kế tay ngắn, cộc ngang bắp tay và sát nách. Chất liệu là lụa mềm, thoáng mát. Tà áo không còn viền nẹp, người ta đã viền 0.5cm vải khác màu chạy xung quanh tà áo. Trên nền vải được thêu nhiều họa tiết hoa văn có bố cục tự do. Có xẻ tà, xung quanh tà áo cũng vẫn can ghép vải khác màu chạy viền xung quanh. Tuy nhiên với xã hội hiện đại ngày nay, kiểu áo sườn xám mặc mùa lạnh cũng không được phổ biến mà thay vào đó là kiểu áo khoác mới, ấm áp và hiện đại hơn bởi chất liệu và kiểu dáng. Sườn xám là dạng trang phục phổ biến vào thời cận đại, do đó những phụ kiện đi cùng với trang phục thường không có qui chuẩn nhất định. Theo Giáo sư Hoa Mai các cô gái mặc sườn xám kết hợp với các phụ kiện như sau: “Hình ảnh những cô gái thời thượng với da trắng, tóc xoăn, lông my cong, mắt kẻ màu, tóc ngắn uốn cong, và cài bông hoa trà hoặc đeo chuỗi vòng ngọc trai dài trước ngực, tay cầm túi xắc nhỏ, chân đi tất và giầy cao gót… ngày càng trở nên phổ biến” [41]. Như vậy hình ảnh các cô gái trên đã kết hợp sườn xám với các phụ kiện du nhập từ Phương Tây trở thành một dạng trang phục hiện đại, tạo nên một diện mạo mới và dần nhanh chóng thay thế trang phục truyền thống xưa kia. Yếu tố truyền thống và hiện đại hòa trộn với nhau một cách hài hòa, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của phụ nữ Trung Hoa trong bối cảnh giao lưu văn hóa.