Đánh Giá Nguy Cơ Thiệt Hại Do Nứt Sụt Đất Gây Ra Ở Khu Vực Tây Nguyên
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 148-155 Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất (VAST) Website: http://www.vjs.ac.vn/index.php/jse Đánh giá nguy cơ thiệt hại do nứt sụt đất gây ra ở khu vực Tây Nguyên Phạm Văn Hùng*, Nguyễn Xuân Huyên Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Ngày nhận bài: 3 - 10 - 2014 Chấp nhận đăng: 10 - 4 - 2015 ABSTRACT The risk assessment of loss due to landslides-cracks in the Tay Nguyen This work presents the initial results of the risk assessment of damage due to landslides caused cracks in the Tay Nguyen. Map damage risk Tay Nguyen area is built on the basis of integrated risk maps with maps cracked landslides hazard level under the socio-economic objects with spatial analysis in GIS. On the basis of analysis of synthetic risk maps for damage caused by landslides cracked Tay Nguyen region showed that the risk of damage due to accidents caused landslides cracked moderate - high. On the Tay Nguyen provinces, the risk level of damage caused by landslides crack distribution are very different. Area at risk of damage from landslides is very high and cracking high 21% area of the Tay Nguyen provinces, mainly along the Po river valley, river, Dong Nai and Ba River. Area at risk of damage from landslides cracked average accounted for 29% of the area of the Tay Nguyen; widely distributed in many parts of the Tay Nguyen region. Area at risk of damage caused by low soil cracks and very low loss accounted for 49,7% of the Tay Nguyen. Areas with high risk and very high damage of cities of Kon Tum, Pleiku, Buon Ma Thuot, Da Lat and Gia Nghĩa, towls of the district of Dak Glay, Ngoc Hoi, Dak To, Dak Ha, Ayun Pa, Krong Pa, An Khe, Duc Co, Chu Se, M'Drak, Krong Pak, Dak Lap, Don Duong, Bao Loc,... in the area above the local planning should be used rational use of territory and reasonable solution to prevent cracking landslides. ©2015 Vietnam Academy of Science and Technology 1. Mở đầu liên huyện, tỉnh,… Tai biến địa chất nói chung, NSĐ nói riêng có nguy cơ thiệt hại lớn ở một số Khu vực Tây Nguyên nằm trong vùng có điều địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch kiện tự nhiên rất phức tạp, hàng năm phải hứng phát triển bền vững kinh tế - xã hội (KT-XH) và chịu những tổn thất không nhỏ do tai biến địa chất bảo vệ môi trường. Do vậy, nghiên cứu tai biến địa gây ra; đặc biệt là nứt sụt đất (NSĐ) đang có xu chất nói chung, NSĐ nói riêng, nghiên cứu đánh hướng ngày một gia tăng cả về quy mô và tần suất giá nguy cơ thiệt hại do NSĐ gây ra là một trong xuất hiện, để lại những hậu quả nặng nề cho cuộc những nội dung quan trọng, làm cơ sở khoa học sống của người dân. Dân cư phân bố tập trung ở phục vụ quản lý tai biến địa chất, phòng tránh các thị trấn và dọc theo các trục đường giao thông giảm nhẹ thiệt hại do tai biến gây nên. Trên khu vực Tây Nguyên, trong thời gian vừa Tác giả liên hệ, Email: [email protected] qua, các tai biến địa chất, đặc biệt là nứt sụt đất 148 P.V. Hùng và N.X. Huyên/Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, Tập 37 (2015) diễn ra bất thường, khó kiểm soát, đã gây nên viễn thám, khảo sát thực địa, phân tích tổng hợp, những tổn thất không những về vật chất, mà cả phân tích đánh giá tai biến (so sánh cặp AHP của tinh thần của người dân địa phương. Ví dụ như: tai Saaty, 1994) và phân tích không gian trong môi biến NSĐ đã phá hủy cả doanh trại của Trung đoàn trường GIS. Bản đồ mức độ chịu tai biến của các 28, Sư đoàn 10 - Quân đoàn 3 đóng quân trên địa đối tượng được xây dựng dựa trên phân tích đánh bàn xã Hoà Bình (thành phố Kon Tum), phá hủy giá vai trò của các đối tượng chịu tai biến NSĐ và hàng trăm hecta cây cà phê, hàng chục ngôi nhà ở được tính theo công thức sau: Pleiku, Tuy Đức, Đắk Rlấp, Bảo Lâm, Di Dinh,... n m Trong thời gian qua đã có một số công trình V = wj Xij nghiên cứu, đánh giá tai biến NSĐ ở nước ta trong j 1 i1 đó có khu vực Tây Nguyên (P.V. Hùng, 2013; Trong đó: V - là chỉ số mức độ chịu tai biến nứt N.T. Yêm, 2006). Phần lớn các công trình khoa sụt đất của các đối tượng, Wj - là trọng số của các học mới đi sâu đánh giá về nguy cơ và thống kê đối tượng thứ j, Xij - là giá trị của lớp thứ i trong đối một số thiệt hại do tai biến NSĐ gây nên. Cho đến tượng chịu tai biến j. nay, ở khu vực Tây Nguyên chưa có công trình nào nghiên cứu dự báo, khoanh vùng nguy cơ thiệt Việc tích hợp thông tin trong môi trường GIS với phương pháp phân tích đa biến đã cho phép hại do tai biến NSĐ gây nên làm cơ sở cho quản lý xây dựng bản đồ mức độ chịu tai biến do NSĐ gây tai biến và phòng chống giảm nhẹ thiên tai. Công nên trên địa bàn khu vực Tây Nguyên. Bản đồ trình này trình bầy những kết quả nghiên cứu bước nguy cơ thiệt hại (R) được thành lập trên cơ sở tích đầu về đánh giá nguy cơ thiệt hại do tai biến nứt hợp thông tin từ các bản đồ nguy cơ tai biến (H) và sụt đất gây ra ở Tây Nguyên; một phần kết quả bản đồ mức độ chịu tai biến của các đối tượng chịu nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước: tai biến (V). Như vậy, bản đồ nguy cơ thiệt hại “Nghiên cứu một số dạng tai biến địa chất điển được thành lập theo công thức sau (Природные hình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội khu vực опасности России, Т3, 2002; T6, 2003): Tây Nguyên” mang mã số TN3/T04 do TS. Nguyễn Xuân Huyên làm chủ nhiệm, Viện Địa R = V * H = f (nguy cơ tai biến, đối tượng chịu n chất là cơ quan chủ trì. tai biến) = XiYj 2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu i, j1 Các tài liệu sử dụng để đánh giá nguy cơ thiệt Trong đó: R là bản đồ nguy cơ thiệt hại, V là hại do tai biến NSĐ gây ra bao gồm bản đồ nguy bản đồ mức độ chịu tai biến của các đối tượng KT- cơ tai biến NSĐ (H) và bản đồ mức độ chịu tai XH, H là bản đồ nguy cơ tai biến, X là điểm số cấp biến của các đối tượng KT-XH (V). Bản đồ nguy nguy cơ tai biến i, Y là điểm số của cấp chịu tai cơ NSĐ khu vực Tây Nguyên đã được thành lập biến j. năm 2013 tỷ lệ 1:250.000 (P.V. Hùng, 2013). Các Phương pháp đánh giá nguy cơ thiệt hại đã đối tượng chịu tai biến NSĐ ở khu vực Tây được đề cập đến trong các công trình khoa học trên Nguyên rất phức tạp, được đưa vào để đánh giá thế giới và Việt Nam (L.M. Đích, 2001; N.T. Yêm, nguy cơ thiệt hại (R) bao gồm: dân cư, các công 2006; Природные опасности России, Т3, 2002; trình kinh tế dân sinh, các công trình giao thông, T6, 2003). Tuy nhiên, ở nước ta còn là vấn đề khó, thủy lợi, thủy điện và tài nguyên đất đai. Trên cơ bởi những bất cập chính trong việc xác định giá trị sở tài liệu quy hoạch phát triển KT-XH các tỉnh bằng tiền của các đối tượng chịu tai biến; cũng Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm đồng thời là những số liệu thống kê sử dụng để Đồng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ đánh giá nguy cơ thiệt hại luôn biến động khá phê duyệt cho phép đánh giá nguy cơ thiệt hại do phức tạp. Do đó, những kết quả đánh giá nguy cơ NSĐ gây ra ở khu vực Tây Nguyên. thiệt hại do tai biến gây ra của những công trình Để đánh giá nguy cơ thiệt hại do NSĐ gây ra, nghiên cứu trước đây còn mang tính định tính. các phương pháp áp dụng bao gồm: phân tích ảnh Việc tính toán giá trị các đối tượng chịu tai biến 149 Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 37 (2), 146-155 bằng tiền rất khó khăn, mặt khác lại luôn biến có thể được đến thời gian hiện nay. Trong đó, đáng động. Vì vậy, trong đánh giá nguy cơ thiệt hại, chú ý nhất chính là yếu tố con người và công trình việc xác định vai trò của từng đối tượng KT-XH ở kinh tế dân sinh. địa phương mới dừng ở mức độ: coi con người là Mật độ dân số được coi là đối tượng quan trọng tài sản vô giá, không thể tính được bằng tiền và là nhất đối với tai biến NSĐ, cho 9 điểm.