ĐẠI VIÊN MÃN TỰ NHIÊN

NYOSHUL KHENPO

1

NỘI DUNG Lời nói đầu của nhà xuất bản Mở đầu – Tự Do và Thong Dong: Một Bài Ca Kim Cương Tự Phát, Lama Gendun Rinpoche 1. Một kẻ lang thang chứng ngộ: Một phác họa tiểu sử Giáo lý GIÁO LÝ 2. Phật Pháp Căn Bản: Một thuyết giảng ở Vương quốc Bhutan 3. Bạn là Đại Viên Mãn: Một lời dạy về Bồ đề tâm Tương đối và Tuyệt đối vào dịp Ẩn cư hai tháng ở Hoa Kỳ 4. Nền Tảng, Con Đường và Quả: Những chỉ dạy Bản Tánh-Tâm về Tri Kiến, Thiền Định và Hành Động của Dzogchen, Đại Viên Mãn Vốn Sẵn Đủ 5. Đại Viên Mãn và Phật giáo Tây Tạng: Một giảng dạy ở Cambridge, Masschusetts Bài Ca và Bình Giải BÀI CA VÀ BÌNH GIẢI 6. Tấm Gương của những Điểm Thiết Yếu: Một bức thơ Tán Thán tánh Không, từ Khenpo Jamyang Dorje cho Mẹ ngài 7. Bình Giải của Khenpo về “Tấm Gương của những Điểm Thiết Yếu: Một bức thơ tán thán tánh Không” 8. Tấm Gương Kim Cương của Tỉnh Giác: Một bài ca tự phát 9. Bài ca Kim Cương của Chỗ Ẩn Tu Công Viên Nai. 10. Bài ca Như Huyễn: Lá Thơ Giáo Huấn của Khenpo Jamyang Dorje gởi cho các đệ tử. 11. Một Bài Ca Ngẫu Phát cho Damchư Zangmo:

2

Tâm Yếu Thiêng Liêng của Những Giáo Huấn Cốt Lõi 12. Ý Nghĩa Thiết Yếu Lịch Sử LỊCH SỬ 13. Dòng Đại Viên Mãn của Nyoshul Khenpo Lama Surya Das Thuật ngữ Chú thích Một Lời Cầu Nguyện Trường Thọ cho Nyoshul Khenpo Rinpoche của Đức Rinpoche

3

Lời nói đầu của Nhà Xuất Bản

Có thể nói một cách không sai lầm, Đại viên mãn (Dzogchen) và Đại Ấn (Mahamudra) là Thiền Tây Tạng. Chúng ta đã từng biết đến Thiền Việt nam, Thiền Trung Hoa, Thiền Nhật Bản, nhưng quả thật chúng ta biết rất ít về Dzogchen, Tối Thượng Thừa, thừa Tối Cao trong sự phân định chín thừa của Cổ phái Nyingma Tây Tạng. Với Kiến (cái thấy, tri kiến), Thiền (thiền định) và Hành (hành động sống tương ưng với chân lý) để hoàn toàn chứng ngộ Phật tánh là đã trọn vẹn con đường đốn ngộ tiệm tu (hay diệu tu) của Thiền Việt Nam và Trung Hoa. Trạng thái tự nhiên của Đại viên mãn và Đại Ấn đích thị là “Bình thường Tâm thị Đạo” của Thiền Tông. Tổng quát là vậy, nhưng chắc chắn Đại viên mãn Dzogchen sẽ giúp chúng ta nhiều điều mới lạ do bởi con đường đặc trưng của Phật giáo Tây Tạng. Ngay trong phần tiểu sử những vị Tổ Đại viên mãn trong sách này, chúng ta cũng tìm thấy những cách thực hành quý báu của một hành giả trước và sau ngộ như thế nào. Hơn nữa, còn có những lời tiên tri mà khởi đầu là của cho đến các đạo sư hiện tại về sự phát triển rộng rãi của Đại viên mãn ở Tây phương và sự ích lợi của nó nổi bật trong thời mạt pháp. Đặc biệt là tính rộng rãi và công khai so với các tantra đòi hỏi một sự trao truyền riêng tư nghiêm ngặt (xem Một Con Đường Lồng Lộng Đến Tự Do – Gyatrul Rinpoche, chương Ati Yoga – Kim Cương dịch, NXB Thiện Tri Thức). Việt Nam xưa nay vẫn tự xem mình là nơi hội tụ của những nền văn hóa. Chúng ta vẫn thường nói đây là nơi hội tụ xưa kia là văn hóa Ấn-Hoa, và nay có thêm văn hóa Tây phương. Chính vì là nơi hội tụ để chắt lọc những tinh hoa của những nền văn hóa trên căn bản nội lực của mình đó, mà sự hiểu biết thêm những tinh hoa của nền văn hóa thuần túy Phật giáo của Tây Tạng là một điều bổ ích. Hơn nữa, chúng ta đều biết Thiền tông là dòng chảy

4 chính trong mạng mạch của Phật giáo Việt Nam, thì sự hiểu biết thêm về Thiền Đại viên mãn của Tây Tạng sẽ là một điều tốt đẹp hun đúc cho sinh lực của dòng chảy ấy. Trong ý nghĩa đó, chúng tôi xin được giới thiệu cùng độc giả cuốn Đại Viên Mãn Tự Nhiên, phát xuất từ dòng thiền cổ sơ nhất của Phật giáo Tây Tạng, Ati Yoga hay Dzogchen, pháp thiền cao nhất của Guru Padmasambhava, vị cha khai sanh ra Phật giáo Tây Tạng. Tháng 3 năm 1999 Kỷ niệm 700 năm ngày vua Trần Nhân Tông về Yên Tử xuất gia và lập nên phái Thiền Trúc Lâm.

Nhà xuất bản Thiện Tri Thức.

5

Mở Đầu Tự Do và Thong Dong: Một Bài Ca Kim Cƣơng Tự Phát Thượng tọa Lama Gendun Rinpoche

Hạnh phúc không thể được tìm thấy qua cố gắng và ý chí lớn lao, mà đã sẵn hiện tiền, trong sự buông xả trống trải và để mặc.

Chớ có ráng sức, không có cái gì để làm hay không làm. Cái gì chốc lát khởi lên trong thân tâm không có chút quan trọng thực sự nào, không có chút thực tại nào. Tại sao đồng hóa với, và trở nên bám chấp vào nó, đặt phán xét lên nó và lên chính chúng ta?

Tốt hơn là đơn giản để cho toàn bộ trò chơi xảy ra riêng phần nó, khởi lên và lặng xuống như những cơn sóng – không biến đổi hay mó tay vào bất cứ cái gì – và nhận thấy mọi sự tan biến và lại xuất hiện như thế nào, trở đi trở lại như huyễn thuật, thời gian không có lúc chấm dứt.

Chỉ sự tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta Đã ngăn cản chúng ta thấy nó. Nó giống như một cầu vồng sống động bạn theo đuổi mà không bao giờ nắm bắt được,

6

hay như một con chó rượt theo cái đuôi của mình.

Dù an lạc không hiện hữu như một sự vật và nơi chốn hiện thực, nó luôn luôn hiện tiền và đi cùng bạn mỗi một phút giây. Chớ tin vào thực tại của những kinh nghiệm tốt xấu, chúng như khí hậu phù du của ngày hôm nay, như những cầu vồng trong bầu trời.

Muốn nắm bắt cái không thể nắm bắt, bạn tự làm kiệt sức mình vô ích. Ngay khi bạn mở trống và buông xả nắm tay siết chặt của sự bám nắm này, không gian vô biên là ở đấy – rỗng rang, mời mọc và thoải mái tiện nghi.

Hãy dùng lấy cái trống rộng này, cái tự do và thoải mái tự nhiên này. Chớ tìm cái gì khác hơn nữa. Chớ đi vào rừng rậm um tùm tìm kiếm con voi Giác ngộ vĩ đại, nó vốn đã an nhiên trong nhà ở trước lò sưởi của bạn. Không có gì để làm hay không làm, không có gì để động sức, không có gì để muốn, và không có gì thiếu sót, trệch sai – Emaho! Kỳ diệu! Mọi sự xảy ra tự chúng. Gedun Rinpoche là một lama Kagyu trưởng, trụ trì và vị thầy ẩn tu của Tu Viện Dakpo Kagyu Ling ở Dordogne, Pháp, nơi bài thơ này được dịch ra từ tiếng Tây Tạng.

7

1 Một Kẻ Lang Thang Chứng Ngộ Một phác họa tiểu sử Đây hoàn toàn không phải là một namthar – một tiểu sử tâm linh – nó chỉ là một chuỗi những chuyện rủi ro. Tôi sinh ở miền đông Tây Tạng năm 1932. Cha tôi là một kẻ cướp lang thang, một kẻ cướp đường. Ông ta đánh đập, cướp giật và ngay cả giết người. Tôi thực sự không biết cha tôi, vì ông đã bỏ gia đình khi tôi còn rất nhỏ. Cha tôi giống như người các bạn thấy trong phim cao bồi, sống ngoài luật lệ trên lưng ngựa. Ông thường sống trong những miền hoang dã xứ Kham, miền đông Tây Tạng. Trong gia đình tôi có ba trai và bảy gái. Hai người anh tôi thì rất mạnh và thô lỗ, như cha vậy; ông cũng rất yêu quý hai đứa con cứng rắn này. Tôi là đứa thứ ba, có hơi yếu đuối và nhút nhát. Cha tôi thường chê tôi, nói rằng tôi giống một đứa con gái và chẳng được gì. Cha tôi dạy các con mình chiến đấu, nhưng những đứa con gái và tôi không thích lắm sự đánh nhau, cho nên cha chúng tôi không để ý đến chúng tôi. Mẹ tôi là một tâm hồn dịu dàng và từ ái, một con người mộ đạo, với nhiều kiên nhẫn và chịu đựng. Bà có những ước mong thành thật thực hành Pháp, dù bà có quá nhiều con và nhiều chuyện để đối phó trong nhà. Bà nuôi hy vọng lớn lao rằng tôi sẽ đáp ứng những ước mong về Pháp của bà, bởi vì tôi giống bà ở tính cách dịu dàng và từ ái. Mẹ tôi tự bằng lòng với những phần thưởng đơn giản của đạo đức, cầu nguyện và sự hiến mình cho gia đình. Bà nội tôi, mẹ của người cướp đường, cũng thuần thành. Bà là một đệ tử không thường xuyên của đại sư Đại viên mãn Nyoshul Lungtok Nyima, người là đệ tử ruột của Patrul Rinpoche. Rất say mê Pháp và thực hành, bà không học nhiều nhưng đã nhận những giáo lý rồi thực hành và hiểu chúng, như thế chuyển hóa bản chất bà. Bà cầu nguyện thường trực cho đứa con cướp bóc ương ngạnh của bà chuyển biến và thay đổi cuộc đời của nó.

8

Khi tôi còn là một em bé, bà nội tôi và mẹ tôi thường hát đi hát lại bên nôi, “Chúng con quy y Phật, chúng con quy y Pháp, chúng con quy y Tăng.” Cũng thế, họ thường cầu nguyện và nói với người khác về những giáo lý, và cầu nguyện đến Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima, dù ngài ở đâu – họ thường không biết ngài ở đâu – một cách nhiệt thành, biểu lộ mong muốn tha thiết ngài sẽ đến để dạy và ban phước cho họ. Họ nhắc nhở mọi người ngài là một đại đạo sư như thế nào. Đó là lần đầu tiên tôi nghe đến tên thiêng liêng của vị guru này, Nyoshul Lungtok, – một cái tên gây cảm hứng cho tôi đến tận ngày nay. Khi tôi lớn lên, bà nội tôi giải thích cho tôi Nyoshul Lungtok là lama gốc tôn kính của bà, và ngài đã cho bà một đời sống mới. Dù không học kinh điển, bà có kinh nghiệm trong Đại viên mãn, và cũng thực hành những giáo lý bồ đề tâm. Bà hát tụng thần chú của lòng đại bi, Om mani padme hung, ba trăm triệu lần trong đời bà. Nếu người ta trì tụng một trăm triệu lần một thần chú, đếm mỗi lần với một xâu chuỗi, đó gọi là một toong-jor. Bà đã làm ba lần như thế trong đời bà – ba trăm triệu trì tụng thần chú của lòng đại bi, thần chú của Quán Thế âm, Om mani padme hung, thực hành thiền định và từ bi như vậy. Bà nội tôi khuyên tôi, bởi vì bản tánh tôi hiền lành, thực rất thích hợp để theo lối sống của mẹ tôi hơn là bắt chước cha tôi. Bà còn khuyến khích tôi tìm một lama-bồ tát thông thạo để dạy và huấn luyện tôi, và cố gắng trở nên giác ngộ như chính vị lama ấy – vì đó là điều Phật dạy. Trong ba năm tôi chăm sóc gia súc của gia đình và những việc lặt vặt khác. Tôi chẳng học thứ gì, nhưng tôi nhớ nghĩ về vị lama mà tôi đã nghe tên. Trong thời gian này, khi tôi lên năm, mẹ tôi và bà đưa tôi đến tu viện Sakya gần đấy, nơi tôi được cắt tóc và cho một pháp danh. Năm tám tuổi, tôi vào tu viện. Có khoảng một trăm nhà sư, người thực hành và những lama trong tu viện ấy ở xứ Kham. Pháp danh của vị trụ trì là Jamyang Khenpa Tapkye; ngài là ông cậu họ của tôi.

9

NHỮNG NĂM ĐẦU TIÊN Ở TU VIỆN Là bà con, Jamyang Khenpa Tapkye quan tâm đến tôi. Tôi liền được dạy cho biết đọc và viết, chuyện đó là dễ dàng đối với tôi. Không phải đứa trẻ nào cũng có một dịp may như vậy. Để ở trong tu viện này, những người tập sự trẻ phải đi khất thực mỗi ngày chung quanh những làng lân cận. Tôi vẫn còn những vết sẹo nơi chân vì những con chó Tây Tạng khổng lồ, chó giữ nhà dữ tợn, chúng cắn tôi khi đi ngang qua cửa để xin tsampa, một loại bột nướng khô, thức ăn chủ yếu của người Tây Tạng. Khi những đứa trẻ tập sự không có gì, chúng sẽ bị đánh và bắt phải ngồi ở bên ngoài không có gì để chống lại với giá lạnh. Đó là một cuộc sống gian khổ. Vào khoảng mười tuổi công việc của tôi là chăn cừu của tu viện, đôi khi ở trong chùa và đôi khi chăn ở ngoài, nơi những chỗ hoang vu. Khi trời nắng tôi được ra ngoài, rất thoải mái, cảm thấy rất hạnh phúc, chỉ xem chừng cừu gặm cỏ. Nhưng đôi khi trời mưa và lạnh cóng, với mưa đá và gió, tôi không chỗ ẩn núp. Hơn nữa tôi không thể thấy cừu biến mất trong sương mù và hẻm núi. Tôi phải tìm chúng để gom chúng lại và đưa về vào ban tối. Tôi biết chính xác chúng có bao nhiêu con. Tôi nhận ra từng khuôn mặt chúng và gọi mỗi con bằng tên nó. Vào mùa xuân và mùa hè ngắn ngủi, có nhiều hoa dại và đủ loại chim ca hát. Kham rất đẹp vào thời kỳ ấy trong năm. Thời gian còn lại, khí hậu khá lạnh và khắc nghiệt. Tôi nhớ rõ ràng những ngày hè an vui của tuổi thơ khi khí hậu đáng yêu và tôi hoàn toàn sung sướng, ngồi ngoài nắng, hoàn toàn thoải mái và buông xả, khi đàn cừu gặm cỏ và tôi nhìn vào bầu trời xanh đậm màu ngọc bích và chỉ để tâm thức tôi tự do như nó là. Đấy là sự khởi đầu tự nhiên, không tạo tác của sự khai triển thiền định nơi tôi. Đôi khi những con chim ríu rít, và vài tư tưởng bắt đầu đến trong tâm, đại loại: Tôi làm gì ở đây, nghe những con chim chăng? Tại sao tôi ở đây? Bà tôi bảo với tôi rằng chỉ sự việc độc nhất đáng làm là thực hành và chứng nghiệm Pháp thánh, tuy nhiên dù tôi đã vào tu viện, hình như bây giờ tôi chỉ là một người chăn cừu. Làm sao tôi có thể theo những giáo lý và gặp một vị

10 thầy đích thực, hơn là chỉ làm một người chăn cừu mặc đồ thừa rách rưới, phí phạm thời gian trong những cánh đồng? Thu hết can đảm, tôi nói với mẹ tôi muốn học với một lama thật sự, có được những giáo lý tâm linh đích thực, và tìm ra Pháp thiêng liêng thật sự là gì. Rồi tôi bỏ tu viện và đến một thung lũng khác, nơi ấy có một đại lama cao cấp là Lama Rigdzin Jampel Dorje. Vị lama này quả thật là một đại sư giác ngộ, một đại thành tựu giả đã chứng ngộ sự hợp nhất của hai dòng giáo lý Đại Ấn (Mahamudra) và Đại viên mãn (Dzogchen). Khi tôi khoảng mười hai tuổi, tôi bắt đầu và hoàn thành năm trăm thực hành sơ bộ hay ngondro, dưới sự hướng dẫn cá nhân của vị đại lama này. Rồi tôi cầu thỉnh và nhận lãnh từ Jampel Dorje những giáo lý chi tiết về sự không tách lìa của thực hành thiền shamatha (chỉ) và thiền vipashyana (quán). Tôi áp dụng những giáo huấn Kim Cương thừa về thiền định này trong kiểu mẫu Đại Ấn, theo Dòng Thực Hành. Sự thực hành này gồm bốn yoga nổi tiếng của Đại Ấn – nhất tâm, đơn giản, một vị và siêu vượt khỏi thiền định – chúng được soi sáng hơn trong ba thể thức không-thiền-định, không-tạo-tác (vượt khỏi hành động và không hành động), và không-phóng-dật. Tôi bắt đầu dần dần nhận ra rằng có lẽ thật khó khăn để thực sự tiến bộ trong thực hành tâm linh mà không có một nền tảng hiểu biết vững chắc những giáo lý tổng quát của kinh và tantra, và đặc biệt là Bồ đề tâm quý báu. Có nói rằng, “Thiền định mà không học thì giống như leo một ngọn núi mà không có đôi mắt; học mà không thiền định thì giống như cố gắng leo một ngọn núi mà không có tay và chân.” Rigdzin Jampel Dorje chấp nhận. Thế nên tôi bắt đầu học với một vị khenpo quan trọng ở tu viện, một giáo sư tu viện trưởng uyên bác và thành tựu tâm linh. Tôi phải học và tụng đọc thuộc lòng vô số lời cầu nguyện, sadhana, kinh văn và bình giải trước chúng hội – một công việc khổng lồ.

11

Tôi nghiên cứu ba lời nguyện của ba thừa, gồm những lời nguyện pratimoksha hay những lời nguyện giải thoát cá nhân từ Luật, những cam kết bồ tát và những samaya Mật thừa. Tôi nghiên cứu Bồ tát hạnh của đạo sư Đại thừa Ấn Độ Shantideva, những giáo lý Bồ đề tâm về tu hành tâm thức (sự chuyển hóa thái độ), của Atisha và rất nhiều giáo lý tương đối và tổng quát của Phật pháp, theo những kinh điển và bình giải của truyền thống Phật giáo. Tôi nhớ Mười Ba Đại Bản Văn. Về sau tôi nghiên cứu sâu về triết học Trung Đạo của Nargarjuna, biện chứng Trung Quán, ngữ nguyên học, luận lý, văn học Bát Nhã ba la mật, Năm Trang Hoàng của Asanga, A tỳ đạt ma câu xá của Vasubandhu và v.v… Cuối cùng tôi nghiên cứu toàn bộ Ba Tạng, gồm trong toàn bộ Tây Tạng gọi là Kangyur trong một trăm lẻ tám bộ lớn, cũng như những luận giải chi tiết của các pháp sư Ấn và Tạng trong một toàn bộ còn lớn hơn là Tangyur. Theo cách này, phối hợp với thực hành, tôi thông thạo ba thừa, gồm kinh và tantra – tất cả những giáo lý của đức Phật. Được phấn khích mạnh mẽ, tôi theo đuổi sự tu hành học giả này một cách cần cù. Dưới đạo sư phi thường Rigdzin Jampel Dorje và khenpo của tôi, tôi trải qua mười hai năm acharya hay tu học khenpo theo đúng truyền thống phối hợp với thiền định và hành thiền của Dòng Thực Hành Rimé không bộ phái, cho đến năm hai mươi bốn tuổi. Tôi nghiên cứu mọi giáo lý cần thiết để trở thành một khenpo, một tu viện trưởng và một giáo sư và đảm nhận mọi thực hành Đại thừa và Kim Cương thừa và những nhập thất trong đơn độc để thực hiện chúng. Tôi còn nhớ tôi là một chú bé nhỏ con và đơn độc, trong một vùng tôi không quen biết một ai, và người ta thường giễu cợt tôi như thế nào. Tôi cũng nhớ một cách biết ơn lòng tốt khó tin và sự rộng lượng hào phóng của vị thầy vô ngã của tôi khi tôi theo đuổi tất cả những học hành và tu tập này trải hơn mười hai năm.

12

NHẬN NHỮNG GIÁO HUẤN CỐT LÕI Khi tôi mười tám, tôi nhận lãnh những giáo lý sâu xa và độc nhất, bí mật về bản tánh chính yếu của tâm, những giáo huấn cốt lõi của Longchen Nyingthig, tinh túy tâm yếu của những giáo lý Đại viên mãn. Tôi đã nhận những giáo lý biệt truyền quý báu này về cái thấy, thiền định và hành động của Đại viên mãn từ tái sanh (tulku) của guru của bà nội tôi – những giáo lý làm rõ nghĩa tối hậu của Phật Pháp và của Rigpa, tâm Phật bẩm sanh, theo sự sắp xếp nền tảng, con đường và quả, một bộ ba được xem là một và không thể phân chia. Tôi sớm đạt được niềm tin không lay chuyển bên trong và sự xác tín về Đại viên mãn tự nhiên này, những giáo lý bất nhị của Đại viên mãn về tánh thanh tịnh bổn nhiên và sự hiện tiền tự nhiên hiện thân trong những thực hành Trekchod – Đốn Ngộ, và Thogal – Siêu Xuất. Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima, người nối pháp của Patrul Rinpoche, đã chết những năm trước đó. Tái sanh tulku của ngài đã sanh lại, lên ngôi và được các đệ tử của vị đời trước gồm cả Khenpo Ngakga dạy dỗ. Chính vị tulku này, pháp danh là Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima, đã đưa tôi vào bản tánh của tâm thức khi trao truyền những giáo lý này. Ngài là guru gốc của tôi. Tôi nhận pháp danh từ ngài và từ tu viện Nyoshul nơi chúng tôi sống với nhau, trong một quận ngoại ô vùng đại tu viện Kathok của Nyingma. Từ những lama này tôi thừa hưởng tất cả những giáo lý của Longchenpa và Jigme Lingpa. Tôi nhớ toàn bộ Bảy Kho Tàng của Longchenpa, cũng như hai bộ ba nổi tiếng của Longchenpa là Bộ Ba của Giải Thoát Tự Nhiên và Bộ Ba của Tự Do Bổn Nhiên của Tâm và Yonten Dzod, Kho Tàng của Những Phẩm Tính Giác Ngộ của Jigme Lingpa, giải nghĩa tất cả chín thừa theo truyền thống Nyingma của Phật pháp. Tôi hoàn toàn hạnh phúc. Tulku Shedrup Tenpai Nyima trao truyền cho tôi Nyengyud Men Ngag Chenmo, những giáo huấn cốt lõi nói nhỏ bên tai của Đại viên mãn. Tulku Shedrup Tenpai Nyima là đệ tử chính của Khenpo Ngakga vĩ đại: Ngakgi Wangpo, một đạo sư Đại viên mãn trí huệ-điên cuồng còn nổi tiếng đến ngày nay – một đạo sư Thogal thấu suốt và là một hiện thân của tổ Đại viên mãn

13

Ấn Độ Vimalamitra. Khi tôi còn rất nhỏ, tôi đã gặp Khenpo Ngakga và nhận vài trao truyền từ ngài. Tôi còn quá nhỏ để học hỏi thực sự sâu xa với ngài Khenpo Ngakga, thế nên tôi dần dần nhận riêng những giáo lý của ngài Khenpo Ngakga từ Nyoshul Lungtok Shedrup Tenpai Nyima. Khenpo Ngakga có một phương cách uy nghi và sự lôi cuốn phi thường, một sự hiện diện khó tin nổi. Chỉ đi vào phòng ngài là những tư tưởng và ý niệm chấp ngã của người ta dừng lặng, mở ra cảnh giới trống trải vô ngã của Rigpa một cách không cố gắng. Dù tôi chỉ là một đứa trẻ, tôi cũng còn nhớ lại đầy biết ơn thời kỳ đó, “Sự hiện diện đích thực của một đạo sư Phật giáo chân thật thực sự là thế ấy. Ai cũng hoàn toàn kinh ngạc và cảm ứng bởi sự rực rỡ tự nhiên và sự tinh thông tâm linh như vậy. Phước đức làm sao khi gặp một vị Phật sống ngay nơi thế gian này!” Ngài Khenpo Ngakga nổi tiếng nhiều vì nhiều lý do. Một lần ngài ngồi ba năm trên đệm thiền, không đi đâu cả. Khi vị đại lama này làm một cuộc nhập thất ba năm, ngài ở trong trạng thái trong vắt của Rigpa gọi là zangtal suốt cả thời kỳ; không ai có thể thấy một cái bóng in xuống từ thân ngài trong suốt ba năm. Điều này tuyệt đối chân thật. Khi Khenpo Ngakga đang trong thiền định, vào những ngày tốt lành như ngày mồng mười mỗi tháng – ngày mỗi tháng của Guru Rinpoche, và ngày mười lăm – ngày trăng tròn, tám dấu hiệu xuất hiện trên thân ngài Ngakga, bởi vì thân ngài là hóa thân, sắc thân thực sự, sự biểu lộ trên trái đất của một vị Phật. Khenpo Ngakga có những phẩm tính không thể nghĩ bàn như vậy đến mức mà phẩm tính nào nghe ra cũng khó tin, nhưng có nhiều lama là đệ tử của ngài đã thành tựu giác ngộ hết lời ca tụng ngài. Jatral Rinpoche và Bairo Tulku Rinpoche ở Nepal là những đệ tử vĩ đại còn sống hiện giờ của Khenpo Ngakga. Truyền thống Đại viên mãn nói rằng mỗi một trăm năm một đại sư giác ngộ của Đại viên mãn xuất sanh từ trái tim của Vimalamitra để làm việc cho ý định của Phật trong thế giới này. Trong thế kỷ mười chín, đó là Jamyang Khyentse Wangpo, và trong thế hệ vừa rồi đó là Khenpo Ngakga.

14

Khenpo Ngakga có hàng ngàn đệ tử chứng ngộ, nhưng Nyoshul Lingtok Shedrup Tenpai Nyima, guru gốc của tôi là người kế pháp của ngài, người nắm giữ những giáo huấn cốt lõi của Đại viên mãn đặc biệt gọi là Nyengyud Men Ngag Chenmo, Dòng Những Giáo Huấn Cốt Lõi Truyền Tải về Tinh Túy Tâm Yếu. Đấy là dòng và giáo lý đặc biệt của tôi, giáo lý thể nghiệm (nyongtri) căn cứ vào những giáo huấn cốt lõi truyền tai của Nyingthig, tinh túy tâm yếu của Longchenpa và Jigme Lingpa toàn giác, cốt tủy của Đại viên mãn vốn sẵn đủ, Dzochen. Đây là một dòng truyền thừa chỉ nói thầm cho một đệ tử vào một thời gian nào, không bao giờ cho đám đông. Nó được xem là cực kỳ hiếm có và quý báu. Tôi cũng truyền nó cho rất ít lama đệ tử thân thiết riêng tư.

Những vị nắm giữ dòng và những đạo sư của giáo lý đặc biệt này đều đã giác ngộ, là những thành tựu giả triệt ngộ với những phẩm tính tâm linh không thể nghĩ bàn, nhưng những lama ngày nay như tôi chỉ là một cái bóng của những thiên thể sáng ngời tâm linh ấy. Những đạo sư thân thể ánh sáng cầu vòng ấy không dọi bóng; ngày nay những người thân thể khuyết điểm như Nyoshul Khenpo tự cho là trao truyền giáo lý siêu việt ấy – vô lý biết bao! Thuốc trường sanh của những giáo huấn cốt lõi để giải thoát trong dòng độc nhất này giống như hơi thở tươi mát của những dakini trí huệ. Tiếng rống sư tử của Pháp đã được tuyên bày bởi những yogi như những sư tử tuyết vĩ đại trong đất nước Tây Tạng từ hàng ngàn năm nay, nhưng ngày nay chỉ có vài con chó như Nyoshul Khenpo đang sủa. Và không chỉ có vậy, họ đang đi đây đi đó đến mọi nước trong thế giới, sủa, ăn thức ăn của những người khác, làm rầm rĩ không biết hổ thẹn – đáng nực cười quá chừng! Tôi đã ở vài năm tại tu viện Kathok, một trong sáu tu viện chính của phái Nyingma. Trong tiếng Tây Tạng Kathok được gọi là Kathok Dorje Den, nghĩa là Kathok Bodhgaya hay Kathok tòa kim cương của giác ngộ. Ngôi chùa đã bảy trăm năm ở Kham này nổi tiếng như Bodhgaya thứ hai. Kể lại rằng một trăm ngàn yogi đã đạt được thân thể cầu vồng ở đó. Một câu chuyện khác nhắc đến màu trời vàng thần thoại của Kathok, nơi nhiều vị tỳ

15 kheo sống đến nỗi bầu trời thường trực phản chiếu màu vàng sáng của y áo các ngài. Ở Kathok những lama của tôi gồm mười hai đại tulku; tám khenpo thành tựu tâm linh và uyên bác, những khenpo (khác với nhiều vị ngày nay) biết mọi thứ và nhớ toàn bộ đại tạng Kangyur và nhiều bình giải; và năm lama giác ngộ không phải là tulku cũng không là khenpo, nhưng đã thành tựu những chứng đắc lớn lao qua nỗ lực tâm linh, trong khi vẫn là những hành giả tầm thường và là những cột trụ vững chắc của tăng đoàn. Sau khi nhận sự trao truyền giáo huấn cốt lõi từ Tulku Shedrup Tenpai Nyima, tôi làm một năm ẩn tu trong hang, thực hành tummo, yoga nội nhiệt bí mật, và tập trung vào những giáo lý cốt lõi truyền tai này. Tôi còn tiếp tục theo đuổi việc học cho đến giữa những năm hai mươi. Tôi thực hành tummo trong nơi hoang dã đầy tuyết cho đến khi tuyết chảy tan quanh tôi. Trong thời kỳ thực hành mãnh liệt khác tôi sống một thời gian như một con thú hoang trong rừng sâu tự do thực hành rushen, những thực hành sơ khởi của Đại viên mãn, với vài yogi khác dưới sự hướng dẫn của guru. Tôi còn nhớ việc sống tự do và buông xả như thế nào, vượt khỏi mọi câu thúc ý niệm và quy ước xã hội – giống như những đại thành tựu giả của thời xưa! Đó là một thời kỳ tuyệt diệu của thực hành tâm linh. Emaho! Tôi thực hành những sadhana Bát Nhã ba la mật đa thuộc Mật thừa gọi là Chošd hay Cắt Đứt Bản Ngã, thiền định suốt đêm trong những nghĩa địa khủng khiếp, hiến thân cho những hồn ma đói khát và những chủ nợ về nghiệp. Những thời kỳ khác tôi dùng để thiền định một mình trên những đỉnh núi đầy gió và trong những hang động đã được những đại sư ngày xưa làm phép để dùng, hay hành hương đến những cảnh trí thiêng liêng và những thung lũng giống như Shangri-la (Shambala) nơi các vị tổ nam và nữ của Phật giáo Kim Cương thừa đã thiền định, ở đó tôi làm những lễ cúng và những hoạt động công đức. Tôi hoàn thành sự tu tập Sáu Yoga của Naropa và Đại Ấn theo hệ thống Kagyu, cũng như Lamdray của phái Sakya – Con Đường và Quả, và Korday Yermay – sự Không Tách Lìa của Sanh tử và Niết

16 bàn, và tantra anuttara yoga Kalachakra. Lama của tôi biết rằng tôi đã hoàn thành những thực hành khác nhau này, gặp gỡ những hóa thần bổn tôn; và nhận những ban phước, trao truyền và quán đảnh trực tiếp từ các vị ấy, giống như những đạo sư gốc của dòng phái trong thời trước. Rồi tôi du hành, nhận những giáo lý và những trao truyền từ mười hai vị đạo sư giác ngộ khác từ mọi truyền thống và dòng phái khác nhau có ở Tây Tạng. Những vị đạo sư này tôi xem là những lama gốc của tôi. Lúc đó tôi biết tôi tìm kiếm cái gì và tìm ra nó ở đâu. Tôi thực hành và hoàn thành những giáo lý này, như thế trở thành một lama Rimé không bộ phái, kẻ thừa kế mọi giáo lý thiêng liêng của Tám Cỗ Xe Lớn của Phật giáo Tây Tạng, chúng hiện giờ được xếp vào bốn phái chính: Nyingma, Kagyu, Sakya và Gelug. ĐI KHỎI TÂY TẠNG Những người đồng tu và tôi phải đi khỏi Tây Tạng vào năm 1959. Sự thực hành tôn giáo vào những năm sáu mươi, bảy mươi được xem là chống phá chính trị. Tôi mất tiếp xúc với những người ở lại, kể cả những dấu vết của gia đình tôi. Tôi chỉ tái hợp với những anh chị em còn sống vào một chuyến viếng thăm miền đông Tây Tạng vào năm 1992. Ở Ấn Độ, tôi đã thỉnh cầu và nhận được những giáo lý và trao truyền đầy đủ từ những vị đại đạo sư, gồm vị nhiếp chính của Padmasambhava tái sanh là đức Dudjom Rinpoche; Dilgo Khyentse Rinpoche – hiện thân của Văn Thù và vị Phật sống, đức Gyalwa Karmapa thứ mười sáu. Về sau, những vị lama này, cũng như những vị khác Tai Situ Rinpoche, Pema Norbu Rinpoche, Sakya Trichen, và Dzigchen Rinpoche yêu cầu tôi làm Khenpo hay giáo sư tại các tu viện của ngài, để giáo dục tăng chúng và huấn luyện để thành khenpo trong các trường. Tôi vẫn cầu nguyện thường xuyên đến hai mươi lăm đạo sư gốc này, các vị đã cho tôi mọi sự tôi biết và tôi có. Cho dù người ta biết hàng trăm ngàn người tuyệt hảo – hay hàng trăm ngàn người xấu – thì tsawai lama hay guru

17 gốc của mình vẫn là người quan trọng nhất trong cuộc đời. Thật ra, cái thực sự làm tôi kinh ngạc nhất không phải là các vị thầy của tôi, mà là giáo lý của Đại viên mãn tự nhiên, Dzogchen: đó thật là sự lạ lùng kỳ diệu, thần tình và không thể quan niệm nhất trong kinh nghiệm của tôi, và là cái tôi biết ơn nhất. Tôi không thể diễn bày nổi sự biết ơn đối với các vị thầy, các vị đã ban cho tôi những giáo lý. Tôi cố gắng làm tất cả những gì tôi có thể để đền đáp lòng tốt của các ngài bằng cách truyền nó cho những người khác, bất cứ nơi nào tôi đã ở. Vì tôi thực sự tin rằng chính cái này, và chỉ cái này là lợi lạc sâu thẳm nhất. Tôi đã sống ở Ấn Độ một mình hai mươi lăm năm, không gom chứa vật gì, chỉ là một người già đơn độc, đôi khi đi dạo quanh với y áo kiểu lama Tây Tạng màu đỏ, đôi khi trong màu vàng cam hay màu vàng khất sĩ hay chỉ là những mảnh vải quấn. Đôi khi tôi thuyết pháp trong những tu viện. Tôi cũng có khi ở với những nhà khất sĩ ở Rishikesh và Haridwar, dọc sông Hằng, trong các tự viện, lều, mái che, dưới những tàng cây, bất cứ chỗ nào khi đêm xuống. Biết bao kinh nghiệm khác nhau như mộng! Đôi khi tôi được tán dương và hoàn toàn thoải mái tiện nghi, thường hơn tôi bị bỏ quên và nghèo đói. Tuy nhiên sự giàu có vô cùng của chân lý và bình an bên trong chính là Pháp, nó luôn luôn nâng đỡ tôi sống hạnh phúc. Đôi khi tôi làm lễ quán đảnh cho những hội chúng lớn, gồm mười hai vị tulku và lama, nơi đó các vị để một cái bình vàng của lễ nhập môn vào tay tôi và tôi đặt nó lên đầu của hàng ngàn vị sư. Những khi khác tôi hoàn toàn nghèo khó, sống bằng tay nuôi miệng trên những con đường của Calcutta, lang thang lòng vòng ngửa tay xin đồng xu. Quá nhiều thăng trầm không ngờ nổi, ai có thể diễn tả cho hết? Đời sống là như vậy, đầy những quanh co khúc khuỷu không mong đợi – như huyễn, vô thường, không chủ định, và không vững bền. Và cuối cùng, tất cả chúng ta đều chết. Thật là một quang cảnh! Quá nhiều những trải nghiệm, ký ức, và suy tưởng khác nhau – một số tốt và một số xấu – như nhiều loại giấc mộng khác nhau. Một đêm năm 1959 tôi cùng với bảy mươi người thoát khỏi Tây Tạng, và một vài ngàn binh lính ngoại quốc ở trên những ngọn núi chung quanh, tìm kiếm những người trốn

18 thoát trong đêm tối. Quân lính thình lình khai hỏa, và đạn súng máy và đạn sáng khắp nơi. Bảy mươi người trong đoàn, chỉ tìm thấy lại năm người còn sống qua ngày sau. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho số còn lại. Nhóm năm người chúng tôi tiếp tục đi bộ qua Hy Mã Lạp Sơn, Bhutan, Darjeeling, và Kalimpong – nơi nào có thức ăn, chỗ ở, và an toàn có thể tìm thấy. Rồi tôi sống nơi vùng thấp nhiều năm như một người tỵ nạn, lưu đày khỏi xứ Tuyết, chen chúc với những người khác trong những trại tỵ nạn đông đặc, những chuyến xe lửa ẩm thấp, xin thức ăn trong những đường xá nóng bức và bụi bặm Ấn Độ. Vài năm sau tôi không ngờ lại thấy mình vượt qua đại dương trong những chiếc phản lực khổng lồ, lên xuống dọc chiều dài của những ngôi nhà chọc trời như cây kim vĩ đại trong những thang máy điều hòa không khí ở những đô thị lớn của thế giới hiện đại, ngủ trong những khách sạn lớn trên nệm dày của những căn phòng hiện đại, ăn trong những nhà hàng và những hàng hiên ngập nắng, được phục vụ như một ông vua. Trong những năm đầu thập niên bảy mươi, tôi bị một cơn bệnh suýt chết. Một số người nghĩ rằng tôi bị trúng độc trong một hiệu ăn ở Kalimpong. Hệ thống thần kinh của tôi bị tê liệt; tôi hoàn toàn là một phế nhân trong vài năm. Trước đó, tôi đã ban những giáo lý rộng và sâu và những quán đảnh cho nhiều người, gồm những nhà sư, lama, tulku và cư sĩ khắp vùng Hy Mã Lạp Sơn. Sau đó tôi không thể thấy rõ, đi khập khiểng, tay run, và tôi chờ chết. Trong thời gian khó khăn ấy, tôi được chăm sóc trong tu viện của Kangyur Rinpoche ở Darjeeling. Kangyur Rinpoche và gia đình ngài đã chăm sóc ân cần cho tôi. Tôi luôn luôn nghĩ đến họ với lòng biết ơn và kính trọng sâu xa. Lama Sonam Tobgyal từ chùa Riwoché là thị giả tin cẩn của tôi trong sáu năm của thời kỳ ấy, ở Ấn Độ và sau này ở Châu Âu. Thời gian sau tôi được đưa đến Thụy Sĩ để chữa thuốc. Tôi ở hai năm với những người Tây Tạng theo tôi trong cộng đồng Tây Tạng ở đấy, rồi bảy đến tám năm ngơi nghỉ trong trung tâm Nyingma ở thung lũng Dordogne miền tây nam nước Pháp, chỉ thỉnh thoảng mới dạy. Trong bốn năm tôi ở và dạy trong trung tâm ẩn cư ba năm Chantelouse ở đó cho đến năm 1984.

19

Vì lúc ấy sức khỏe tôi được cải thiện và tôi hoạt động hơn, đi dạy khắp thế giới, cả Đông lẫn Tây, được những trung tâm của nhiều dòng phái khác nhau mời đến. Tôi có hai cuộc viếng thăm Tây Tạng: một lần với đức Khyentse Rinpoche và một đoàn tùy tùng năm 1990, và rồi với Penor Rinpoche năm 1992, khi tôi gặp những thành viên gia đình còn ở đây. Tôi hiện giờ đang làm việc để trùng tu ba tu viện của tôi và xây dựng vài bệnh viện ở Kham. Tôi hiện ở Thimpu, thủ đô của Bhutan, xứ sở Phật giáo độc lập cuối cùng còn lại trong dãy Hy Mã Lạp Sơn.

NHƢ MỘT GIẤC MỘNG, NHƢ MỘT ẢO ẢNH

Có phải cuộc đời giống như một cuốn phim hay một giấc mộng, như một chuỗi giấc mộng ở trong ảo ảnh như mộng bao la? Làm thế nào để nhớ hết những màn khác nhau tất yếu lộ ra từ thời gian từ lúc tôi là một đứa bé tinh quái nhỏ con thất học cho đến bây giờ, khi tôi đã là một người lang thang đã già và lắm mồm với tóc bạc, kiếng lão và nếp nhăn? Thật là một điều lạ lùng! Già và còng. Một cảnh tượng! Một du khách Tây Tạng đã già, mờ mắt nhìn ngó chung quanh ở những miền đất ngoại quốc! Emaho! Lạ lùng! Kỳ diệu! Làm sao để giải thích những thất thường vô cùng của trải nghiệm, trừ phi xem tất cả là những công việc của luật nhân quả nghiệp báo không sai chạy? Và ai tạo ra nghiệp này, ngoài chính chúng ta? Khi chúng ta nhận thức rằng chúng ta tạo ra nghiệp của chính mình, và do đó chịu trách nhiệm về sự trải nghiệm riêng của chúng ta, tốt lẫn xấu, ưng ý và không ưng, có phải cái nhìn soi suốt này giải phóng chúng ta khỏi bực tức và thất vọng, thấm nhuần một ý nghĩa của tự do và trách nhiệm, cũng như lòng từ bi đối với những ai khổ đau vì thiếu vắng một tỉnh giác như thế?

20

Hẳn là chẳng có ý nghĩa gì với tôi khi nói về cuộc đời này, nhưng nó nhắc lại cho tôi tất cả giáo pháp thiêng liêng mà tôi đã thọ hưởng – một nguyên nhân đích thực cho sự hưởng thụ trong những màn ồn náo rộn ràng này. Pháp đến trong nhiều hình thức, nhưng tất cả đều có một vị đơn nhất của bình an vĩ đại. Thật ra tôi chỉ là một con người tầm thường; sự quan tâm duy nhất của tôi là phụng sự, giúp đỡ những người khác và phụ vào việc duy trì truyền bá Pháp. Tuyệt đối tôi không có công việc đặc biệt nào để làm, nhưng tôi cảm thấy bởi vì Phật giáo đã giúp tôi quá nhiều trong cuộc đời này, nên tôi rất sung sướng khi giúp đỡ bằng cách đưa chính kinh nghiệm của tôi cho bất kỳ ai thích thú với Pháp. Tôi hy vọng trong tương lai, Pháp cao cả, những giáo lý giải thoát, sẽ nở rộ và làm lợi lạc cho mọi người dù họ là ai ở bất kỳ nơi đâu. Tôi không phải là một dịch giả, nên tôi không thể nói với người Tây phương trong ngôn ngữ của họ; tôi chỉ cố gắng trình bày Pháp trong mọi cách tốt nhất mà tôi có thể làm. Tôi vui sướng khi thấy nhiều người Tây phương cũng cảm xúc khi thấy Pháp là lợi lạc, quan trọng và thật sự có ích như thế nào. Đó là cái duy nhất mà tôi thực sự biết trong cuộc đời: những công đức tuyệt vời của Phật pháp. Bởi thế tôi cũng hoan hỷ thấy rằng người khác cũng cảm nhận như thế, và tôi biết rằng nếu họ áp dụng nó trong thực hành cụ thể, với sự soi chiếu vào trong, họ sẽ có thể rút ra lợi lạc từ những giáo lý sâu xa và ý nghĩa này. Không vĩ đại sao khi thấu hiểu cái Tự Biết độc nhất, trị bá bệnh này nó giải thoát và giải phóng mỗi một và tất cả, thay vì cứ tiếp tục trong sự theo đuổi không cùng vô tận những hình thức của cái biết, mà không có cái nào trong ấy có lợi lạc tối hậu cho mình và cho người? Ngay trên những ga xe điện ngầm ở Paris và London tôi đã thấy những người – họ không phải là Phật tử – mà những khả năng tâm linh đã sắc bén để có thể làm cho họ trực tiếp nắm lấy nội dung chân thật của Pháp bất nhị, nếu họ chỉ cần được giới thiệu với nó bởi một vị thầy đủ phẩm chất. Khi giây phút của Đại viên mãn xảy tới, à, nó đấy! Đó không phải là vấn đề văn hóa

21 hay nghiên cứu; mà là hấp lực tâm linh và sự chín thành nghiệp quả của mỗi người. Những ngày hôm nay tôi phấn khởi được gặp các người thực hành Pháp của Tây phương, họ thành thực tìm kiếm hiểu biết kinh nghiệm đích thực và không bằng lòng với chỉ những nhạt nhẽo vô vị và sự kiện tôn giáo bên ngoài. Đấy là những người mong muốn và thiết tha phóng mình sâu vào trong chính họ, để học và hành những giáo lý, thậm chí làm những việc hy sinh, để nỗ lực trong sự trau dồi tỉnh giác tâm linh. Chẳng phải là Pháp ở khắp mọi nơi sao? Chẳng phải là không có nơi nào khác để tìm kiếm và thấy ra nó, chỉ trừ trong chính mình, trong tâm và lòng của chính mình sao? Như terma sadhana tối thượng Longchen Nyingthig Guru Yoga, Tigle Gyachen của Jigme Lingpa bắt đầu với: Không chư Phật không chúng sanh, vượt khỏi có và không có, Bản thân tánh giác bổn nhiên là guru tuyệt đối, chân lý tuyệt đối. Bằng cách an trụ tự nhiên, vượt ngoài bám trước, trong Bồ đề tâm vốn sẵn tự do và bẩm sinh toàn thiện này, Tôi quy y và làm lộ bày Bồ đề tâm tuyệt đối. Một Vidhyadhadra hay đạo sư Rigpa như Rigdzin Jigme Lingpa đã thực sự chứng ngộ Phật tánh qua con đường Đại viên mãn. Bấy giờ, dù chưa từng học nhiều, bởi vì luân xa trí huệ của ngài nở bừng trọn vẹn, ngài có thể tự phát viết ra những bình giải vô giá, hát những bài ca giác ngộ doha rạng ngời, phát giác những terma quý giá của Longchen Nyingthig bằng sự phát hiện huyền bí, và chỉ dạy rộng rãi, soi sáng con đường chúng ta đi cho tới tận ngày nay, ba thế kỷ sau đó. Cá nhân tôi không đạt đến Phật tánh và tôi không biết tôi sẽ ở đâu trong tương lai, trong đời này cũng như trong đời tới. Nhưng đấy thực sự không phải là vấn đề, hoàn toàn không! Dù gì cái xảy ra, cứ xảy ra. Tuyệt đối không có cái gì để phải quan tâm. Tôi chỉ cảm thấy biết ơn những vị thầy

22 của tôi, biết ơn giáo lý và biết ơn đức Phật, và tôi mong muốn rằng tất cả đều có thể tham dự vào nguồn ban phước này, những công đức này, nó thực sự thuộc về tất cả không trừ một ai. Bởi thế tôi liên tục cầu nguyện rằng tất cả chúng sanh có thể tạo nên sự tiếp xúc, kết hợp tốt lành này, qua bất kỳ phương tiện gì lợi lạc và thích hợp. Nguyện tất cả chúng sanh thức tỉnh trong ánh sáng của Đại viên mãn vốn sẵn và thực hiện tự do, an bình và mãn nguyện toàn hảo! Sarva mangalam! Nguyện mọi sự đều tốt lành toàn thiện, và nguyện hòa bình có trong thế giới này và phổ khắp toàn thể vũ trụ!

23

GIÁO LÝ 2. Phật Pháp Căn Bản Một thuyết giảng ở Vƣơng quốc Bhutan Lama Matthieu Ricard dịch

Hiện giờ nhiều người nhận được một nền giáo dục hiện đại, làm sắc bén trí thông minh của họ, và thu hoạch một số kiến thức. Họ mở tâm trí ra với hiện trường bao la của kiến thức khoa học và những phương pháp rèn luyện khác. Đồng thời, nhiều người trong họ, sau khi hoàn tất học tập, đã hỏi, “Pháp là gì?” Dù họ sống trong một đất nước Phật giáo, nhiều thanh niên nam nữ ở đây không có dịp may tìm ra Phật pháp nói về cái gì và dùng nó để có lợi ích gì. Đối với nhiều người, Pháp là nhận những quán đảnh nhập môn và ban phước từ những lama, cúng dường đèn sáp, đi nhiễu tháp và chùa, mặc y và những hoạt động bên ngoài tương tự. Làm điều này thực ra là công đức và chỉ ra sự quan tâm chung của dân chúng với tôn giáo, nhưng đấy chỉ là những cành nhánh của Pháp; chúng không phải là điểm chánh. Có một cái bình nghi lễ được đặt trên đầu quả thật là một ban phước, nhưng đó không phải là cái chúng ta gọi là thánh Pháp. Bấy giờ, cái gì là nhu cầu hướng đến Pháp? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải nhìn chung quanh và suy nghĩ về tình trạng của chúng ta trong thế giới này. Nếu chúng ta làm như vậy mà không che mù mình với sự thật, chúng ta tìm thấy một điểm chính yếu, chung cho tất cả chúng sanh: khổ đau và không toại nguyện. Mọi người đều khổ đau trong cách này hoặc cách khác. Một người lãnh đạo có những vấn đề của người lãnh đạo, một công nhân có những vấn đề của công nhân. Khi các bạn thấy một người lãnh đạo đi qua đường phố, các bạn có thể nghĩ, “Ông ta đã đạt đến hàng cao cấp, ông ta có một ngôi nhà tiện

24 nghi, một chiếc xe đẹp, và v.v… Ông ta phải là một người hạnh phúc.” Nhưng hoàn toàn không phải như thế. Người lãnh đạo ấy khổ đau. Ông ta lo âu mất địa vị, hay ông ta có quá nhiều việc, hay ông ta khổ sở bởi ham muốn trở thành một nhà lãnh đạo của thế giới, hay gia đình ông ta không hạnh phúc… Người công nhân phải chạy đây chạy đó, có công việc chán ngắt, và được trả ít tiền. Ngay cả tổng thống của một siêu cường quốc cũng lo âu vì sợ không được tán thành, vì không thành công khi đặt ảnh hưởng của mình lên thế giới… dầu ông ta có thể làm thế, ông ta cũng bị khổ sở vì cần thiết phải giữ mọi việc trong vòng kiểm soát. Có một giải pháp tối hậu cho những vấn đề này không? Trong thế giới bình thường không có. Các bạn có thể nghĩ rằng nếu các bạn cho một người ăn xin 1 triệu đô la thì điều đó sẽ làm cho người ấy hạnh phúc. Nhưng hoàn toàn không! Nếu người ấy có 1 triệu đô la, anh ta ước lượng đã đủ cho ăn mặc, nhưng rồi anh ta còn muốn 2 triệu! Không có ai thỏa mãn lâu dài với sự giàu có và quyền lực thế gian. Điều này bởi vì người bình thường bị mê lầm; họ không biết cái gì là giàu có đích thực, quyền lực chân thật, sự mãn nguyện lâu dài thật sự. Như Nagarjuna (Long Thọ) nói, “Bằng lòng là sự giàu có thật sự.” Một người giàu có thể không bao giờ hoàn toàn hạnh phúc. Trước hết người ấy bị ám ảnh có được giàu có, rồi bị ám ảnh bảo vệ và tăng thêm nó. Hơn nữa, có bao nhiêu người hiện nằm liệt giường trong các bệnh viện, chết vì đói hay chiến tranh? Có biết bao nhiêu gia đình tan tác vì xích mích, và rốt cuộc là cái chết? Điều ấy không xảy ra bây giờ cho các bạn, nhưng ai biết đâu? Dù cho thế giới hiện đại đã phát triển khoa học và kỹ thuật đến một mức độ không thể tưởng tượng nổi, tuy nhiên không có máy móc nào, phương pháp đặc biệt nào, viên thuốc đặc biệt nào có thể cất đi khổ đau và phát sinh hạnh phúc lâu dài. Vậy mà trừ tuyệt khổ đau, không chỉ những triệu chứng của khổ đau mà là nguyên nhân sâu xa nhất của nó mới là mục tiêu của thánh Pháp.

25

Những giáo lý thực hiện một mục đích cao cả như thế bằng cách nào? Lý do thật sự khiến người ta khổ đau không tìm thấy ở bên ngoài, mà chính trong bên trong họ. Chúng ta khổ đau vì tham bám, ham muốn, giận dữ, ác cảm, kiêu mạn, ghen tỵ và mê lầm, mọi loại thuốc độc thuộc về tâm thức Bởi thế, chánh pháp được làm trên tấm lòng và tâm thức. Tâm thức thì rất quyền năng: nó có thể tạo ra cả khổ đau và hạnh phúc, thiên đường và địa ngục. Nếu với sự trợ giúp của những giáo lý và thực hành tâm linh, các bạn hàng phục chính những độc dược bên trong, những thức tình xung đột của các bạn và vượt khỏi vô minh hạn hẹp, bấy giờ không bao giờ có cái gì có thể làm hại hạnh phúc của các bạn. Nhưng chừng nào những độc này còn cắm neo trong tâm thức các bạn, thì không ở đâu trong thế giới này có thể tìm ra cái ước muốn vĩ đại nhất là hạnh phúc. Cho dù bạn đi bất cứ nơi đâu, những phóng chiếu và điên đảo của chính các bạn vẫn theo đến đó. Làm việc trên tâm thức là một chủ đề rất rộng lớn; thật vậy, nó là chủ đề của toàn bộ Phật pháp. Trong bản chất, lý do chính khiến tâm thức phát sinh những thức tình mê lầm và những xúc động mãnh liệt của nó là sự bám chấp mạnh mẽ vào Tôi và của tôi. Bởi vì sự bám chấp này, chúng ta khổ đau khi chúng ta không đạt được điều “cái tôi” muốn, và chúng ta khổ đau khi phải trải nghiệm điều “cái tôi” không muốn. Chính qua việc thiền định trở đi trở lại về bản tánh như huyễn và không có tự tánh của tâm thức, của bản ngã, của tự ngã mà chúng ta dần dần có thể làm tan biến sự chấp ngã. Trong mọi phương pháp để đạt tới kết quả cái sâu xa nhất là thiền định về Bồ đề tâm này là tình thương và lòng bi vô ngã. Tràn đầy tình thương với tất cả chúng sanh và xem những người khác quan trọng hơn chính chúng ta là cội gốc đích thực của Pháp, đó là sự kết hợp của trí huệ và đại bi. Chúng ta cũng phải có niềm tin, sùng mộ và tin cậy. Niềm tin không có nghĩa là tin mù quáng vào tôn giáo vì lama của chúng ta nói thế. Niềm tin là một sự cảm kích chân thật và vui sướng về những phẩm tính vô biên của giác ngộ, như Phật hay bậc giác ngộ nào khác, nam hay nữ. Đó là sự nhận ra

26 cái khác biệt giữa một vị Phật thức tỉnh hoàn toàn, bi mẫn hoàn toàn với một người bình thường, xao động và rối rắm. Sự khác biệt này đơn giản là tâm của một vị Phật thì sáng tỏ và thoát khỏi mê vọng, trong khi tâm của người bình thường thì bị che tối. Có được sự xác quyết trọn vẹn trong sự khác biệt này, và mong mỏi sâu sắc có được trí huệ tỉnh giác của Phật, là cái chúng ta gọi là niềm tin. Vô cùng chư Phật đời quá khứ, hiện tại và tương lai là những đối tượng thích hợp của lòng tin. Nếu trong thời hiện đại này, các bạn dâng hiến niềm tin của mình cho Guru Liên Hoa Sanh, Padmasambhava, các bạn sẽ nhận những ban phước của ngài. Ngài đã hứa rằng lòng bi của ngài cho chúng sanh của thời đại đen tối này sẽ nhanh chóng hơn bất kỳ vị Phật nào khác. Như ngài đã nói, “Ta luôn luôn ở bên cạnh, ngay nơi ngưỡng cửa của lòng sùng mộ của các con.” Đặc biệt trong đất nước Bhutan này, người ta có thể thấy nhiều bằng chứng về những ban phước của Guru Rinpoche. Nếu Guru Rinpoche để lại những dấu chân, dấu tay của ngài ở Paro Taksang, ở Tango, ở Bumthang Kuje, đấy không phải vì Guru Rinpoche không tìm ra công việc nào khác để làm, hay chỉ tự giỡn chơi với mình bằng những phép lạ. Đó đơn giản chỉ là để lại những dấu hiệu thấy được của sự tinh thông vô biên của ngài về tâm linh để giúp đỡ chúng sanh bằng cách khơi cho họ đức tin và sùng mộ, và làm cho đáng tin sự thật của lời ngài nói. Nếu bất kỳ ai ở đây nam hay nữ xác nhận được cho chính mình chân lý của thông điệp đức Phật, người nam hay người nữ đó ngay trong khoảnh khắc này bình đẳng với Padmasambhava. Hãy đánh giá giá trị và cơ hội của đời sống làm người này. Hãy cho đời sống đó có ý nghĩa chân thật, vì chính các bạn và vì những người khác, bằng cách khai mở tất cả cái gì trong chính các bạn. Hãy có niềm tin, lòng bi và sùng mộ. Hãy tìm ra hạnh phúc ở bên trong: hãy chuyển hóa tâm thức các bạn và thế giới bên ngoài tự chuyển hóa nó một cách tự nhiên thành phúc lạc bất biến và không có cái chết.

27

KHAI TRIỂN THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN Để là một người nhận thích hợp những giáo lý thiêng liêng, đòi hỏi đầu tiên này là có thái độ đúng đắn, hầu có thể nhận nó trong một đường lối phù hợp. Chúng ta cần phải nhớ rằng điểm chính yếu của Pháp là xử sự với lòng và tâm, bấy giờ chúng ta nên tự chuẩn bị trong một cách thức tương xứng. Để chuẩn bị tâm thức chúng ta cần kiểm điểm thái độ của chúng ta: Tại sao chúng ta đến đây để nhận lãnh những giáo lý? Chúng ta mong chờ gì ở chúng? Đâu là động cơ của sự nhận lãnh những lời dạy? Khi chúng ta nhận những lời dạy, suy nghĩ về ý nghĩa của điều chúng ta vừa mới nhận thì quan trọng hơn bản thân những lời nói. Những lời, chữ có thể rất đẹp đẽ, uyên bác, rất thơ, nhưng đó chỉ là mặt ngoài của giáo lý. Cái quan trọng là ý nghĩa của chúng, thật nghĩa của chúng. Để có thể nắm lấy ý nghĩa, trước tiên chúng ta phải xoay tâm thức mình vào bên trong, kiểm điểm động lực của chúng ta, và trở nên mẫn cảm với những lời dạy, bằng cách mở lòng và tâm của chúng ta. Xoay tâm thức chúng ta vào trong thì rất quan trọng. Cho đến bấy giờ, vì vô minh, chúng ta đã lang thang lòng vòng từ vô thủy trong sanh tử, tâm thức chúng ta thường trực phóng ra những hiện tượng bên ngoài. Bởi thế, bước đầu tiên là xoay lại vào trong, kiểm điểm thái độ của chúng ta, và trở nên tỉnh giác ở đây và bây giờ điều tâm thức đang làm, những thái độ nó đang có, nói chung, tỉnh giác với những công việc của tâm thức chính chúng ta. Chúng ta có thể tự xem mình là Phật tử. Trong một cách nào, điều đó là tốt, vì những giáo lý Phật giáo thì cực kỳ rộng lớn và ân phước. Tuy nhiên, chúng ta không nên có một cái nhìn giới hạn và chật hẹp về điều đó. Nghĩ mình là Phật tử có nghĩa là gì? Có phải nó chỉ là một cách khác cho sự ích kỷ của chúng ta để làm cho chúng ta cảm thấy cao hơn những người khác trong thế giới này? Có phải chúng ta thực sự là những Phật tử, những bồ tát, những người thực hành tâm linh hay có lẽ chúng ta chỉ theo tổ tiên không có gì ngoài sự giống nhau bên ngoài với những tín đồ thực sự của đức Phật toàn giác? Chúng ta nên có một tâm thức rất rộng mở hơn nữa và hãy nhìn xem

28 tất cả những Pháp khác nhau, những tôn giáo và hiểu biết triết học khác nhau trong thế giới này. Ngay sự hiểu biết này cũng còn rất hạn hẹp, vì không chỉ có thế giới này mà còn có hàng tỷ vũ trụ khác. Để cho mỗi hệ thống thế giới ấy, từ lòng bi của Phật, có những giáo lý để giải thoát khác nhau. Tương tự, vì số chúng sanh là vô cùng, thế nên những phương pháp để đưa chúng sanh đến mục đích tối hậu cũng vô cùng. Tất cả những giáo lý ấy tham dự vào việc chứng ngộ chân lý tuyệt đối, trạng thái tự nhiên của tất cả các hiện tượng, đó là cái hiểu biết tối hậu. Nhưng bởi vì những chúng sanh khác nhau có những khả năng, khuynh hướng và nguyện vọng khác nhau, thì cũng có những phương tiện khác nhau để dẫn họ đến sự thấu hiểu tối hậu. Bởi thế, chớ nên có một quan điểm chật hẹp chỉ nhìn thấy tôn giáo riêng của các bạn, hay ngay chỉ vũ trụ của các bạn, mà hãy cố gắng rất khoáng đạt và thấu hiểu có vô cùng chúng sanh, vô số đường lối tiếp cận khác nhau và giáo lý khác nhau dẫn đến mục tiêu tối hậu. Chúng ta cần có một thái độ rất rộng rãi và trống thoáng, cởi mở với mọi hình thức của chân lý, tất cả những con đường khác nhau có thể đưa dắt chúng sanh đến sự thấu hiểu rốt ráo. Ý nghĩa của việc có một tâm cởi mở như vậy là để thấu hiểu rằng có rất nhiều biểu lộ khác nhau của chư Phật để gặp gỡ những nhu cầu của mỗi một chúng sanh. Những bậc giác ngộ có thể biểu lộ trong rất nhiều hình thức khác nhau, trong rất nhiều cảnh giới hiện hữu khác nhau, lưu xuất theo những chiều kích pháp thân, báo thân hay hóa thân của tâm Phật. Tất cả những cách thức để làm lợi lạc cho chúng sanh này là để giúp đỡ chúng ta chứng ngộ bản tánh tối hậu của tâm thức.

29

SỨC MẠNH CỦA MÊ LẦM Trong mọi vũ trụ vô cùng này và trong tất cả chúng sanh, yếu tố chung là họ đều có một tâm thức, tỉnh giác, một hình thức ý thức nào đó phân biệt họ với vật chất vô tri. Và đối với mỗi chúng sinh, tâm thức bị rơi vào quyền lực của mê lầm. Cách tốt nhất để giúp đỡ chúng sanh là xóa sạch mê lầm nhờ những phương pháp thiện xảo khác nhau và những giáo lý đưa đến sự chứng ngộ bản tánh tuyệt đối của tâm thức. Một khi chúng ta trở nên rõ ràng tầm bao quát vô lượng của thời gian và không gian, những con số vô cùng của những vũ trụ, chúng sanh và chư Phật, bấy giờ cuộc đời của riêng chúng ta có vẻ ngắn ngủi như một tia chớp trong bầu trời. Không chỉ cuộc đời chúng ta, mà vũ trụ riêng biệt này cũng chỉ là một khoảnh khắc thoáng chốc, dù cho nó có hiện hữu hàng tỷ năm; vì nó cũng giống như một giây ngắn ngủi so với sự vô cùng của toàn thể vũ trụ. Viễn cảnh rộng lớn này sẽ dẫn chúng ta đến sự tỉnh giác sống động và rất hiện tiền về tánh vô thường và thoáng chốc của cuộc đời chúng ta. Hơn nữa, trong ánh sáng của vô cùng, chúng ta sẽ thấu hiểu những khuyết điểm và giới hạn của cuộc đời sanh tử, bị điều kiện trói buộc này. Cởi mở mình ra với những cái vô cùng này, chúng ta tỏ biết rõ ràng những giới hạn của chúng ta, những thăng trầm của hiện hữu bị điều kiện hóa ngắn ngủi, tính vô thường trong một cuộc đời và thời gian của chúng ta. Chúng ta thấy chật hẹp, ngột ngạt và thiển cận làm sao những quan tâm quy ngã thường trực của chúng ta, trong ánh sáng của cái trống không vô cùng và lung linh. Nếu chúng ta nhìn vào những tia sáng của mặt trời, đôi khi chúng ta có thể thấy một hạt bụi nhỏ. Theo cách nhìn Phật giáo về vật chất, nếu chúng ta lấy một phần bốn mươi của hạt bụi rất nhỏ này, chúng ta đến nguyên tử hay phân tử căn bản. Còn có nói rằng trong phần tử nhỏ ấy có vô số vũ trụ, và trong mỗi vũ trụ này có đủ sáu cõi có những địa ngục, cõi tương đương với người, cõi chư thiên… Cũng có ở đấy sự khổ đau.

30

Nếu chúng ta nhìn gốc rễ của khổ đau này, chúng ta sẽ thấy rằng nó có từ sự khác biệt giữa tâm mê lầm và tâm không mê lầm. Tất cả những vũ trụ này, và tất cả những tri giác khác nhau về những cõi khác nhau trong những vũ trụ này, khởi ra từ tâm thức mê lầm. Mục đích của Pháp là tìm ra chính xác cái gì là tâm không mê lầm; cái là chân tánh của chúng ta. Cái này chúng ta gọi là Phật tánh, hay Phật bên trong. Tất cả tóm lại trong sự khác biệt giữa mê lầm và không mê lầm, giữa khổ đau và hạnh phúc, giữa bám nắm và không bám nắm, giữa tự do và giác ngộ tuyệt đối. Đấy là vì sao khi chúng ta bắt đầu nhận những lời dạy, chúng ta cần kiểm điểm lại thái độ của chúng ta, kiểm tra trạng thái tâm thức hiện giờ của chúng ta. Nó đang làm gì? Nó đang cảm thấy gì? Nó có phóng dật, hôn trầm, phân tán hay hiện diện và cảnh giác sống động? Nó có sửa soạn để nhận lãnh những giáo lý sâu xa? Mọi sự đều xoay quanh, hay hội tụ nơi cái hiểu biết bên trong của tâm thức. Theo cùng cách có vô số vũ trụ và chúng sanh, chính chúng ta cũng đi qua vô số tái sanh, những hình thức sống, vô số thân thể, vô số đời… Chúng ta sanh ra lập đi lập lại. Vì sao thế? Bởi vì dòng tâm thức của chúng ta hoàn toàn bị điều kiện hóa, bị quy định và phó mặc cho những cơn gió nghiệp và phiền não. Tất cả mọi thứ này phát sanh từ tâm thức mê lầm. Có nói rằng sanh tử thì không bắt đầu (vô thủy), nhưng có một chấm dứt trong niết bàn, giác ngộ; và rằng niết bàn giác ngộ thì có một bắt đầu nhưng không có chấm dứt. Như người ta không thể xác định điểm bắt đầu cho sanh tử, người ta cũng không thể xác định điểm bắt đầu của tâm thức. Tâm thức mãi mãi làm công việc tự bổ nhiệm của nó là phát sanh những tư tưởng không cùng, cái này đi sau cái trước, những chuỗi xích tư tưởng trói giam chúng ta. Ngay chỉ trong một ngày chúng ta cũng không thể đếm được số tư tưởng mà chúng ta có, vì chúng thì vô số. Khi chúng ta thử thiền định một lúc, chúng ta thường ngạc nhiên bởi con số tư tưởng tấn công chúng ta, như thể khi chúng ta ngồi thiền thì tư tưởng còn nhiều hơn trong những hoàn cảnh bình thường. Nhưng điều này là lầm; chỉ bởi vì khi thiền định chúng ta

31 lần đầu ý thức được rất nhiều tư tưởng mà bình thường chúng ta luôn luôn có, tâm thức chúng ta ngoài sự kiểm soát biết bao nhiêu và tư tưởng bắt chúng ta làm nô lệ như thế nào. Chắc hẳn vì công việc của những tư tưởng này, vì những tư tưởng tiếp nối nhau này mà chúng ta dấn thân vào những lời nói và hành động, và làm chín nghiệp bằng cách liên tục làm như thế. Sức mạnh của nghiệp ấy kéo dài dòng sanh tử và thường trực giữ chúng ta lòng vòng, tái sanh trở đi trở lại trên bánh xe sanh tử. Tất cả mọi thứ này căn bản xảy ra là do sự mê lầm của tâm thức. Đó là tại sao mục tiêu chính của những giáo pháp này là tìm ra cái gì là bản tánh của tâm thức không mê lầm, cũng như tâm thức mê lầm làm việc như thế nào. Không chỉ chúng ta, mà vô số chúng sanh đang xoay vòng một cách vô vọng trong vòng lẩn quẩn của sanh tử. Họ đang chịu đựng rất nhiều loại khổ đau, vì cùng lý do ấy. Tất cả những khổ đau của họ đều đến từ sự mê lầm của tâm thức. Nếu chúng ta muốn tìm một phương thức cho sự ấy, không có phương thuốc nào khác ngoài chân lý là Pháp. Nếu nó hiện thân trong bất kỳ phương pháp nào khác thì đó sẽ là thất bại. Đây cũng là lí do tại sao tất cả các tôn giáo đều nhắm vào sự thấu hiểu công việc của tâm thức, giải thoát tâm thức khỏi mê lầm của nó, ấy là điều các tôn giáo làm dù trực tiếp hay gián tiếp. Dĩ nhiên có vài phương diện mà tôn giáo không rõ ràng nêu ra, “Đây đặc biệt làm việc về tâm thức của bạn, làm lợi lạc cho tâm thức bạn.” Nhưng thật ra, dầu nó nói điều ấy trực tiếp hay gián tiếp, mục tiêu của tất cả tôn giáo là giải thoát tâm thức khỏi sự mê lầm của nó và tìm ra an lạc. Cũng như dù mọi dòng sông trên trái đất đều đổ ra biển thì có một số đi thẳng ra biển, trong khi số khác đi uốn khúc, rồi dọc đường hợp với những sông khác thì cũng thế, dù có nêu ra hay không, chủ đích căn bản thật sự của bất kỳ giáo pháp nào, Phật giáo hay không Phật giáo, đều là chuyển hóa lòng và tâm và rốt ráo đạt đến giải thoát khỏi mê lầm, sự siêu thoát đích thực. Không phải tất cả tôn giáo đều y như nhau, nhưng điều này là điểm thiết yếu của Pháp giải thoát. Đôi khi người ta tìm ra những trái ngược rõ ràng trong

32 những diễn tả và những biểu lộ bên ngoài của những tôn giáo khác nhau của thế giới. Chẳng hạn trong Phật giáo chúng ta nói rằng là một tội nặng khi giết, lấy đi mạng sống, trong khi trong vài mặt của Hồi giáo và cũng cả trong Ấn Độ giáo thì những con dê bị hy sinh. Nhưng thực sự có nhiều tương đồng hơn là khác biệt. Nếu chúng ta khảo sát tất cả tôn giáo thế giới chúng ta thấy điều đó và chúng ta có thể hòa hợp với những nguyên lý thật sự chính yếu của chúng. Tất cả những cách thức diễn tả và biểu lộ khác nhau trong khi người ta tìm kiếm cái tốt đẹp tối thượng của họ đều khởi ra từ tâm thức. Sự mê lầm của tâm thức là cực kỳ mạnh mẽ và nắm chặt chúng ta một cách rất chặt chẽ. Không dễ dàng giải tan sự mê lầm này của tâm thức, nhưng đó là mục đích chính của sự thực hành Pháp. Toàn thể sự khác biệt giữa vô minh và giác ngộ, giữa tự do và nô lệ nằm trong việc tâm thức có bị mê lầm hay không. Cuộc đời bình thường thì giống như một giấc mộng, một ảo ảnh, một tiếng vang. Cái chúng ta thường gán cho nhiều quan trọng, và bởi thế sẵn sàng tin vào nó, thì hoàn toàn mê lầm, không bản chất, không thực. Nó dễ dàng được bịa đặt ra như những giấc mộng ban đêm của chúng ta. Bởi thế, một người đã thức dậy, đã chứng ngộ, đã vượt khỏi sự mê lầm của tâm thức, thấy trạng thái mê lầm bình thường của chúng ta giống như một giấc mộng, và không bị nhiếp vào đó. Đây là một lý do quan trọng tạo sao người ấy có thể thực sự giúp đỡ và giải phóng cho chúng ta. Cái chúng ta đang sống thì giống như một giấc mộng dài, một giấc mộng dài hơn những giấc mộng bình thường trong giấc ngủ ban đêm, nhưng dầu chỉ mười phút hay kéo dài suốt cả đời, bản chất như huyễn của những giấc mộng chỉ là một thứ như nhau. Khi chúng ta thấy biết, trải nghiệm giấc mộng dài của đời này, rồi sau đó khi chết, chúng ta sẽ có một giấc mộng dài khác và trong trạng thái khác của một đời sanh tử. Như thế, một giấc mộng dài sẽ theo sau một cái khác, bao giờ mê lầm còn tồn tại.

33

Phẩm tính phi thường của Phật pháp là nó cho chúng ta những phương tiện để nhận biết rằng cuộc đời này giống như một giấc mộng, nó không có sự hiện hữu chân thật, và tất cả những mục tiêu quy ngã sanh tử của chúng ta là vô nghĩa và chẳng tạo ra điều gì hữu ích, rằng chúng ta không có bản chất và không có thật tánh. Chúng ta không chỉ chứng nghiệm được điều này mà Pháp còn cho chúng ta cơ hội để thấy rằng có một cách thức để xua tan mê lầm của chúng ta và qua những phương tiện thiện xảo, đạt đến sự chứng ngộ tối hậu về Phật tánh, đó là sự giải thoát hoàn toàn khỏi mê lầm, tự do toàn hảo và bình an siêu việt. Đây là điều làm cho Pháp thành ra viên ngọc quý báu nhất, viên ngọc của lòng chúng ta, bởi vì nó là phương pháp duy nhất cho chúng ta dịp may nhận biết bản chất mê vọng của thế giới và đồng thời đưa chúng ta vượt khỏi sự mê lầm đó đến chứng ngộ chân thật. Chúng ta hãy lấy ví dụ thân thể chúng ta để hiểu sức mạnh và quyền lực của mê lầm. Vào lúc này, thật tự nhiên với chúng ta là mình có thân thể này; chúng ta yêu quý và bám chấp vào nó một cách lớn lao. Sự an toàn tiện nghi và những cảm giác thích thú của thân thể chúng ta là một mối bận tâm chính của chúng ta, một trong những đối tượng chính cho sự bám chấp và gắn bó. Nhưng nếu chúng ta dần dần cố gắng khám phá thân này có ra như thế nào, trở về tuổi thơ của chúng ta, rồi khi chúng ta còn là một em bé, và cuối cùng những hạt giống của cha và mẹ, chúng ta thấy rằng toàn thể thân của chúng ta bắt đầu từ sự gặp gỡ của hai hạt giống. Và sự gặp gỡ ấy xảy ra như thế nào? Chính là bởi sức mạnh của ham muốn, nó đến từ mê lầm của nghiệp quá khứ. Bởi vì sự bị quy định thuộc nghiệp hay khuynh hướng này, mà ham muốn có mặt. Nó tạo ra một thúc đẩy để nắm lấy đời sống trở lại trong một hiện hữu bị quy định. Năng lực tâm thức làm gắn bó hạt trắng và hạt đỏ của cha và mẹ; như thế một chúng sanh ra đời trong một thân thể. Rồi thân thể lớn lên; ý thức làm thêm sự cá biệt, tiến hóa và bám chặt vào nó. Sẽ lại đến lúc chúng ta gặp cái chết. Điều gì sẽ xảy ra cho thân thể? Nó sẽ lại tan biến vào khoảng không, như khi một cầu vồng tan biến trong bầu trời: khi nó có đó chúng ta có thể thấy năm màu của nó một cách sinh động, nhưng khi nó tan đi, nó không đi xuống thung lũng, nó không đi lên đỉnh núi

34 mà nó chỉ biến mất. Thân thể mà chúng ta bám vào quá nhiều sẽ thành ra hư không. Chỉ có thức là sẽ tiếp tục, và nó sẽ bị thúc đẩy trở đi trở lại bằng sức mạnh của nghiệp và những khuynh hướng thói quen và những bám níu để tìm kiếm những hạt giống của cha và mẹ và tiếp tục vòng sanh tử này. Tuy nhiên mỗi thân thể chúng ta dùng lấy, như những cái bình đất sét, chỉ được tạo thành từ năm đại và lại hoàn toàn biến mất không để lại dấu vết nhỏ nhất nào. Mọi sự thì vô thường. Tất cả mọi cái gì có sanh ra đều chết. Do sức mạnh của mê lầm, những thân thể của chúng ta liên tục hình thành và biến mất, tiếp diễn vòng sanh tử không ngừng. Cái chúng ta thực sự cần là một chỉ dạy sẽ có thể đem chúng ta đến một trạng thái không mê lầm và giải phóng chúng ta khỏi vòng sanh tử lẩn quẩn này. Đây là tại sao chúng ta cần xoay tâm thức chúng ta vào trong, chú tâm xem xét và và làm việc trên chính tâm thức khi nào chúng ta bắt đầu được nghe hay thực hành Pháp, bởi vì tâm thức là chủ đề chính của những giáo lý Phật giáo. Nếu chúng ta xoay chính tâm thức chúng ta vào để thấy nó làm cái gì, bấy giờ chỉ có ba cách thức của tư tưởng mà tâm thức có thể có. Thứ nhất là những tư tưởng tiêu cực: tham, sân, si v.v… Cách thức tiếp theo là những tư tưởng tích cực: bi mẫn, vị tha, lòng tốt, tình thương, ước mong làm chúng sanh được lợi lạc, sùng mộ v.v… Rồi có những trạng thái trung tính, thản nhiên của tư tưởng, như khi chúng ta ngủ say, tự mãn và vô tâm, chúng là những phương diện không tiêu cực cũng không tích cực. Không có phạm trù nào khác ngoài ba xếp loại này. Trước tiên chúng ta cần trừ bỏ những tư tưởng tiêu cực, gồm tham, sân, si. Chúng ta không cần từ bỏ những tư tưởng trung tính: chúng ta cần chuyển hóa chúng và đưa chúng vào Pháp. Và chúng ta phải trau dồi và phát triển những tư tưởng tích cực, sùng mộ và Bồ đề tâm với thái độ giác ngộ. Sự thực hành là từ bỏ những tư tưởng, lời nói và hành vi xấu, tiêu cực, chuyển hóa những cái trung tính và tăng trưởng cái tốt, tích cực.

35

Khi chúng ta khảo sát những tư tưởng xấu, chúng ta thấy có ba thứ: sự thúc đẩy bám nắm, sự thúc đẩy chối bỏ, và vô minh hay sự tối tăm hẹp hòi của tâm thức. Nếu chúng ta khảo sát những cái này, chúng ta thấy rằng tham và sân căn bản được gây ra bởi sự tối tăm của tâm thức hay vô minh. Nghĩa là không thấy, không hiểu hay không chứng ngộ thật tánh của sự vật. Tham bám, giận ghét, bám nắm, đánh giá, chối bỏ… khởi ra là do thiếu tỉnh giác về bản tánh chân thật của tâm và những hiện tượng. Biết rằng đây là nguyên nhân chính, chúng ta phải tìm ra phương thuốc cho nó, cái đối trị. Cái đối trị chắc chắn đến từ sự trau dồi những tư tưởng tích cực như sùng mộ, từ bỏ và vị tha, Bồ đề tâm lợi lạc, nó mong muốn giải thoát tất cả chúng sanh đến Phật tánh một cách vô ngã.

TRƢỞNG DƢỠNG BỒ ĐỀ TÂM

Chúng ta cần trưởng dưỡng Bồ đề tâm như là một phương cách để trừ khử vô minh căn bản nó tạo ra những tư tưởng tiêu cực. Có nhiều giáo lý đề cập đến việc làm sao từ bỏ những tư tưởng tiêu cực và chuyển hóa những tư tưởng trung tính. Nhưng bởi vì đây là một chủ đề rộng lớn, chúng ta sẽ chỉ có một ít lời về Bồ đề tâm quý báu, cội gốc của mọi tư tưởng tích cực. Để thiền định về Bồ đề tâm, trước tiên chúng ta phải có một cái hiểu rất đầy đủ, bởi vì đây là một chủ đề rộng lớn vô cùng. Vì nó liên hệ với sự hiểu biết cái mê lầm phổ khắp của tất cả chúng sanh trong những vũ trụ vô số. Không chỉ chúng ta, mà cha mẹ chúng ta và tất cả chúng sanh đã mê lầm từ vô số đời, và vì sự mê lầm ấy, họ đã khổ đau to tát không trừ một ai. Bởi thế, sự trưởng dưỡng căn bản Bồ đề tâm đòi hỏi một hiểu biết về tính cách rộng lớn của mê lầm và những khổ đau của chúng sanh. Khi người ta ý thức được độ dài rộng vô biên của những đời và những vũ trụ trong đó chúng sanh rơi vào mê lầm và khổ đau, chỉ lúc ấy những cảm nhận đích thực về lòng bi và những mong muốn giải thoát cho những chúng sanh ấy mới có thể phát triển

36 trong tâm thức chúng ta. Như thế, chúng ta cần ý thức độ dài rộng của mê lầm và khổ đau, không phải để trở nên chán chường hay yếm thế, mà để thấy mọi sự như chúng là và để đem lại cái tốt nhất cho chính chúng ta và tất cả chúng sanh ở khắp nơi. Với chúng ta Bồ đề tâm có nghĩa là gì? Bồ đề tâm tiếng Tây Tạng là changchub. Từ này có hai nghĩa căn bản. Trước hết, chang nghĩa là “làm sạch.” Trong ngôn ngữ giáo pháp chúng ta thường nói “làm sạch hai cái che chướng.” Trong ngôn ngữ bình thường nó có nghĩa là trừ sạch mọi lỗi lầm, vết bẩn, bất toàn và khuyết điểm của tâm thức chúng ta. Khi chúng ta nói đến chub, nó có nghĩa là khai triển đến mức rốt ráo mọi phẩm tính bẩm sinh vốn có, hay mọi tiềm năng, trong lòng và tâm. Bởi thế, Bồ đề tâm, chang- chub, nghĩa là trừ sạch bất cứ lỗi lầm nào có thể có và khai triển mọi phẩm tính giác ngộ đã vốn có. Tạo sao chúng ta nói Bồ đề tâm hay tâm giác ngộ? Bởi vì điểm bắt đầu là cái tâm tối tăm, mê lầm, và điểm kết thúc là tâm giác ngộ. Thế nên Bồ đề tâm liên hệ với sự tịnh hóa và sự khai triển rốt ráo của tâm thức. Khi sự tịnh hóa của tâm thức và sự khai triển tất cả những phẩm tính giác ngộ ấy đạt đến điểm rốt ráo thì sự hiện thực hóa tất cả những phẩm tính của tâm và sự gỡ bỏ mọi tấm màn che chướng thì trạng thái này được gọi là Phật, hay Guru Rinpoche, hay Chenrezig hay Quán Thế Âm. Không có gì ngoài trạng thái giác ngộ trong đó mọi phẩm tính đã được khai triển, không có chút mê mờ nào do vô vàn hình tướng, bởi vì tất cả là một bản tánh tinh túy đơn nhất. Tạo sao chúng ta cần thiền định về Bồ đề tâm, tâm giác ngộ? Bởi vì điều kiện giới hạn của chúng ta, sự khổ đau và mê lầm của chúng ta. Khi mọi mê lầm đã được trừ sạch, đây là trạng thái được gọi là “Phật tánh”: trạng thái của người đã hiện thực hóa những phẩm tính rốt ráo và đã trừ sạch mọi lỗi lầm. Người ta có thể tiến hành từ trạng thái mê lầm bình thường đến trạng thái giác ngộ; đây được gọi là “con đường.” Nhưng bản tánh giác ngộ này hiện ở trong mỗi chúng ta, vì nó là bản tánh chân thật của chúng ta.

37

Bản tánh Phật vốn sẵn có này thì giống như bầu trời, như hư không, là nền tảng tâm giác ngộ trong mỗi chúng ta, nó bao la, thanh tịnh và bất biến một cách không khuyết hụt. Trong bản tánh tự nhiên và sâu xa này, những phẩm tính của Phật tánh giống như những tia sáng tỏa ra từ mặt trời. Sự diễn đạt không thể quan niệm và phong phú những phẩm tính giác ngộ thì giống như đại dương, trong đó mọi ngôi sao và hành tinh đồng phản chiếu. Trong cùng một cách, những phẩm tính giác ngộ của Phật đều tự nhiên hiện diện trong mỗi chúng ta. Chúng ta chỉ thể hiện chúng, khai mở và khám phá chúng, giải thoát tâm thức chúng ta khỏi mê lầm bằng phương cách thực hành Bồ đề tâm trên con đường. Sự khác biệt giữa tâm không trong sạch và tâm trong sạch, tâm mê lầm và tâm giác ngộ, chủ yếu là sự khác biệt của chật hẹp và rộng mở. Trong trạng thái mê lầm hiện thời của chúng ta, tâm thức chúng ta thì cực kỳ chật hẹp. Chẳng hạn, chúng ta sống cô độc và hiếm khi, nếu không nói là chưa bao giờ, nhìn xem sự vô biên của chúng sanh. Tâm thức càng co rút và chật hẹp, càng chỉ nghĩ đến chính nó, hoàn toàn chẳng để ý gì đến sự an vui, hạnh phúc và những đau khổ của những người khác. Ngược lại, Phật giác ngộ là người xem thấy sự vô biên của chúng sanh hơn là lưu tâm tới bản ngã và cá thể của ngài. Như thế, toàn bộ con đường là sự mở rộng dần dần của tâm thức, từ một chúng sanh bình thường tới Phật! Và đó chính là cái chúng ta gọi là chang-chub hay sem-kye: nghĩa đen là làm lớn và khai triển thái độ giác ngộ này. Khái niệm “làm lớn lên” được dùng ở đây để chỉ sự đi từ một thái độ hoàn toàn chật hẹp, chỉ chủ yếu nhắm vào chính mình, đến một tấm lòng thương yêu rộng mở mà khung cảnh của nó tự động bao trùm vô biên chúng sanh. Khởi từ một thái độ hoàn toàn ích kỷ, chúng ta cần tìm ra một cách thức để rộng mở và phá thủng qua sự chật hẹp bó chặt này. Làm sao để chúng ta thực sự bắt đầu quan tâm một cách thành thật đến sự an vui, của những người khác, nhận ra họ không quá khác với chúng ta? Căn bản, chúng ta có thể tiến hành như thế này: Như một kết quả của sự ích kỷ của chúng ta, chúng ta có một thương mến tự nhiên đối với cha mẹ chúng ta, họ đã cho chúng ta cuộc

38 sống và nuôi nấng chúng ta trong đời này. Nếu chúng ta sử dụng cảm giác tự phát đã sẵn có này, chúng ta có thể trải dài nó một cách chầm chậm và tiệm tiến đến những chúng sanh khác. Với những phương tiện thiện xảo, trước tiên chúng ta nghĩ đến lòng tốt của mẹ chúng ta sanh ra chúng ta, chăm sóc chúng ta, giáo dục chúng ta v.v… Từ sự cảm kích này đối với lòng tốt của mẹ chúng ta sẽ khởi lên ước muốn đền đáp lòng tốt của mẹ, và tâm thức sẽ bắt đầu mở ra với thái độ vị tha. Lấy nó như là căn cứ, chúng ta có thể chủ động trải rộng sự nồng ấm căn bản này đến thân thuộc và những chúng sanh khác. Đây là căn cứ của tiến trình thiền định làm tăng trưởng tình thương cho tất cả chúng sanh. Một trong những bước đầu tiên trong thiền định về Bồ đề tâm là trở nên ý thức đến lòng tốt của những người khác. Như Phật đã dạy, điều này bắt đầu bằng sự cảm kích lòng tốt của chính bà mẹ của chúng ta. Chẳng hạn, nếu người nào cho chúng ta một trăm đô la hay chở chúng ta đi đến chỗ mình, chúng ta nghĩ người ấy là một người rất tốt. Nhưng thật ra điều ấy quá nhỏ so với lòng tốt của mẹ chúng ta, người đã cho chúng ta thân thể từ chính thịt xương của bà và chăm sóc chúng ta ngày đêm khi chúng ta không thể làm gì được. Một khi chúng ta đã được sanh ra, chúng ta không thể tồn tại chỉ mười phút nếu không có mẹ chúng ta thường trực chăm nom chúng ta. Như chính đức Phật đã nói rằng trao một quà tặng là một thân thể là một trong những lòng tốt vĩ đại nhất chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới. Chúng ta cần ý thức và cảm kích lòng tốt này. Nếu chúng ta chỉ nghĩ, “Rốt cuộc, điều đó chẳng có nghĩa gì cả. Bà làm điều đó cho ích lợi riêng của bà, chỉ sự tốt đẹp riêng của bà,” đó là một sai lầm rất nghiêm trọng. Để khai triển Bồ đề tâm, trước tiên chúng ta phải ý thức và biết ơn, và cảm kích lòng tốt bao la của người đã cho chúng ta đời sống này, cũng như người nào khác làm lợi lạc cho chúng ta. Ngay trong thế giới bình thường, một cảm thức chung khi một ai đó làm một điều gì cho chúng ta từ lòng tốt lớn lao của họ, và chúng ta biết ơn và cư xử theo một cách đền đáp lòng tốt của họ, ai cũng nghĩ điều chúng ta làm là đúng. Nhưng nếu người nào làm điều gì rất tốt cho chúng ta, và đáp lại

39 chúng ta đối xử với họ theo một cách rất xấu, bấy giờ ai cũng nghĩ chúng ta là một người xấu. Chúng ta cần bắt đầu cảm kích lòng tốt của những người khác, đặc biệt là của mẹ chúng ta. Rồi chúng ta nên nhận thấy rằng qua khắp các đời của mình, không có một chúng sanh nào không từng là mẹ hay cha chúng ta vào một lúc này hay lúc khác. Bởi thế, không có lý do gì chúng ta không nên cảm thấy cùng một tình thương và biết ơn tự nhiên mà chúng ta có cho cha mẹ trong đời này, đối với tất cả chúng sanh. Điều này dẫn đến một thái độ bao la, một Bồ đề tâm có cùng một lòng biết ơn đối với mỗi một chúng sanh không phân biệt, và mong muốn cho họ mọi điều tốt đẹp như chúng ta mong muốn mọi điều tốt đẹp cho cha mẹ chúng ta trong đời này. Bởi vì tâm thức có tiềm năng này để trở thành giác ngộ, qua thực hành, tiềm năng lớn lên dần dần. Đấy là lý do tại sao Bồ đề tâm có thể bừng nở và trải rộng không bờ. Và một khi nó trở nên bao la, nó có năng lực vô biên. Có nhiều điển hình về sức mạnh của lòng bi trong đời những bậc thánh. Chẳng hạn có một vị thánh nổi tiếng tên là Libpon Pawo, ngài thiền định về lòng bi trong mọi lúc. Một lần nọ, ngài gặp một con cọp cái gần chết đói không thể nuôi sống những con của nó. Ngài nghĩ đến việc cho cọp thân ngài. Nhưng dù ngài là một bồ tát hoàn hảo, khi đến lúc cho thân thể, ngài cảm thấy một ngại ngần và nghi ngờ tự nhiên. Ngài chuyển hóa sự nghi ngờ này thành một sự mở rộng đầy đủ cho khả năng biếu tặng thân thể. Để diễn tả sự nở hoa trọn vẹn này của Bồ đề tâm, lòng bi của ngài, trước khi cho con cọp máu của ngài, ngài dùng chính máu mình viết những câu kệ về cách làm thế nào khai triển Bồ đề tâm trên đá. Những câu kệ này còn được tìm thấy trong tạng Tengyur. Rồi ngài cho những con cọp thân thể mình. Một bồ tát Tây Tạng thế kỷ thứ mười một, một hóa thân của ngài Shantideva có tên là Gyalse Ngulchu Thomay đã soạn ra Ba Mươi Bảy Thực Hành Của Bồ Tát rất nổi tiếng nơi ẩn tu của ngài, tất cả thú vật đều sống trong hòa bình với nhau. Ngay cả chó sói và cừu cũng chơi đùa với nhau, cho dù chúng thường là những kẻ thù hung tợn của nhau. Đây bởi vì sự thiền định liên tục

40 về Bồ đề tâm và lòng từ của ngài quá mạnh đến nỗi nó có thể biến đổi tâm thức của những thú vật hoang dã và dữ tợn. Thực sự có thể khai triển Bồ đề tâm qua sự thực hành của chúng ta. Có vị đại sư tên là Nyoshul Lungtok là một đại đệ tử của Paltrul Rinpoche. Ngài bắt đầu thiền định mười năm trong một cái hang, chỉ tham thiền về Bồ đề tâm. Một hôm Nyoshul Lungtok ở trong rừng trên một ngọn đồi nhỏ, ngài nghe dưới đồng bằng một âm thanh, như có người đang cỡi ngựa và hát những bài ca vui vẻ. Dù Nyoshul Lungtok không thấy anh ta, nhưng ngài có thể nghe. Bởi vì ngài là một thiền giả cao cấp, Lungtok nhìn thấy qua thiên nhãn của mình rằng người cỡi ngựa chỉ còn sống thêm một ngày nữa. Khi nghĩ đến con ngựa, ngài thấy con ngựa chỉ sống được một tuần nữa. Thình lình ngài nhận ra rằng người đàn ông kia, không nghĩ đến và không lo âu gì về chuyện đó, không thấu hiểu sự ngắn ngủi và mong manh của cuộc đời, sự bất toàn của sanh tử, và nghiệp của người ấy đang kéo anh ta ra khỏi cuộc đời này sang một đời khác trong khổ đau như thế nào. Điều này chạm đến Nyoshul Lungtok một cách sâu xa đến độ ngài không thể ngừng khóc trong bảy ngày từ lòng bi hoàn toàn dành cho người đó, anh ta vẫn vui vẻ một cách vô ý thức trong đại dương khổ đau này. Ngài trở nên được biết đến do lòng bi bất khả tư nghì tự phát và lòng tốt đối với mọi chúng sanh. Chính bản tánh đích thực của tâm thức khiến nó có thể phát triển và tiến bộ vượt qua những giới hạn hiện thời của nó. Tuy nhiên nó có thể phát triển theo cả hai cách tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta thường xuyên nhắm vào sự tiêu cực, tâm thức lớn lên rất mạnh trong sự tiêu cực. Ban đầu có vẻ rất khó giết một người nào; nhưng dần dần, trở nên hung bạo và quen với chuyện đó, không chỉ nghĩ mà thôi, chúng ta còn có thể lấy đi hàng trăm hàng ngàn mạng sống mà không có dằn vặt xung đột nào trong chúng ta. Cũng như thế, chúng ta có thể phát triển tâm thức trong đức hạnh. Bởi thế, điều chính yếu là tịnh hóa và tu hành tâm thức chúng ta, để chuyển hóa thái độ và động lực của chúng ta thành tích cực. Điều này được gọi là lojong trong tiếng Tây Tạng – tu hành tâm thức.

41

Chúng ta không nên nghĩ rằng chúng ta chỉ là một công chức hay một nông gia, và do đó không thể là những hành giả thật sự. Một mặt, quả thật nếu chúng ta có những trách nhiệm và bó buộc thì chắc chắn chúng ta sẽ không dùng nhiều thì giờ của đời mình để dấn mình trong định hay trong chốn ẩn cư. Nhưng mặt khác, điều đó không đúng, bởi vì tinh túy của Pháp là Bồ đề tâm quý báu, nó có thể được trau dồi trong bất cứ hoàn cảnh nào và qua bất cứ hoạt động nào. Đó là cái mà ai cũng có thể khai triển trong bất cứ công việc gì họ dấn thân. Đó chính là Pháp chân thật. Như thế chúng ta có thể hoàn toàn thực hành Pháp trong tâm thức, trong khi vẫn dấn thân vào bất cứ loại hoạt động nào với thân và lời. Như có nói, “Nếu ý định là tốt, bấy giờ mọi cấp độ của con đường sẽ tốt. Nếu không, mọi cấp độ sẽ xấu.” Nếu chúng ta có một tấm lòng rất trong sạch và một tâm thức trong sáng vị tha, thì dù chúng ta có thể gặp những khó khăn hay đau khổ, nhưng cuối cùng chúng ta chắc chắn đạt đến an lạc: nó là kết quả không thể tránh được của việc có ý định tốt, thái độ tích cực, và sự trong sạch của lòng. Nếu chúng ta có một tâm thức rất xấu, bất hòa và tiêu cực, chúng ta có thể gặp những thành công tạm thời, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ nếm trái cây của khổ đau, cả cho chính chúng ta và cho những người khác. Bồ đề tâm chắc chắn có thể được khai triển qua sự trưởng dưỡng có chủ định, để làm thế, chúng ta có thể tham chiếu những lời dạy khác biệt, như Ba Mươi Bảy Thực Hành của Bồ tát của Nyulchu Thomay đã nói ở trên, hay Bảy Điểm Tu Hành Tâm Thức của Atisha, hay Bồ Tát Hạnh của Shantideva, và những lời dạy rõ ràng khác chuyển hóa tâm thức thành từ và bi. Điều này thiết lập một nền tảng tuyệt hảo cho sự thực hành tâm linh.

42

KHAI TRIỂN CÁI THẤY CHÂN CHÁNH

Bồ đề tâm là sự thực hành chính yếu nhất của tất cả. Nó chỉ có nghĩa là tấm lòng tuyệt hảo thành thực mong muốn hoàn thiện cho chính nó để có thể giải thoát tất cả chúng sanh khỏi khổ. Nó đặt nền trên sự thấu hiểu rằng không có một chúng sanh nào không muốn thoát khỏi khổ và thành tựu hạnh phúc, như bản thân chúng ta. Tuy nhiên, hầu hết chúng sanh không có cách gì để hoàn thành những mục tiêu đó. Bồ đề tâm có hai phương diện: tuyệt đối và tương đối, hay chân lý và tình thương. Để thành tựu giác ngộ cho lợi lạc của tất cả chúng sanh, chúng ta muốn nhận những giáo lý và đưa chúng vào thực hành. Một số người tự nhiên có thái độ toàn hảo và tâm tốt này, một số phải phát triển nó, và những người khác phải nỗ lực nhiều để quen với ý niệm ấy. Nhưng bất cứ trường hợp nào, luôn luôn có một cách thức để chuyển hóa tâm thức mình và phát triển Bồ đề tâm. Chúng ta có thể nuôi dưỡng những tư tưởng tốt, chúng dẫn chúng ta đến niết bàn, sự giác ngộ thức tỉnh vượt khỏi khổ đau; nhưng chúng ta cũng có thể trở nên quen thuộc với những tư tưởng xấu, chúng sẽ kéo chúng ta xuống những trạng thái thấp nhất của đời sống. Trong cả hai trường hợp, chính do sức mạnh của sự tu hành tâm thức chúng ta theo một cách thức suy nghĩ nào đó sẽ dẫn đến kết quả riêng biệt. Đó là tại sao chúng ta phải cố gắng trau dồi bản tánh tâm linh của chúng ta. Phật giải thích Pháp cho chúng sanh trong ba giai đoạn, được gọi là “ba thời kỳ hay ba dịp,” trong đó đức Phật chuyển bánh xe Pháp. Điều này cũng được gọi là “ba lần chuyển bánh xe Pháp.” Lần thứ nhất là cái chúng ta gọi là “những giáo lý căn bản,” gồm Bốn Chân Lý Cao Cả (Tứ Diệu Đế), Tám Con Đường Chân Chính (Bát Chánh Đạo), ba tính chất căn bản vô thường, khổ và vô ngã, và mười hai khoen xích thành vòng xích duyên sanh (Thập Nhị Nhân Duyên) v.v… Chúng ta có thể nghĩ sai lầm rằng Theravada hay Tiểu thừa, cái gọi là “Thừa thấp” là thấp hơn, nhưng không phải thế. Tốt hơn nên nói đến truyền thống Theravada như là Thừa Nền Tảng, Căn Bản, Thừa Gốc.

43

Điều này nghĩa là tất cả mọi giáo lý đã xây dựng trên nền tảng này, được thiết lập trong Luật tạng và Kinh tạng do đức Phật lịch sử dạy. Bởi thế, mọi giáo lý cao hơn của Mahamudra, Maha Ati hay Dzogchen, Đại viên mãn, và Trung Đạo tất cả đều được nâng đỡ bởi nền tảng này, nó phải rất vững chắc và chuẩn bị thật tốt. Đây là chu kỳ giảng dạy thứ nhất của Phật.

TRUNG ĐẠO

Khi tâm thức người ta đã thích hợp với chân lý sâu xa, Phật ban cho lần chuyển bánh xe Pháp thứ hai. Tri kiến sâu xa này là những giáo lý Trung Đạo về tánh Không và hai cấp độ tương đối, tuyệt đối của chân lý qua triết học Madhyamila hay Trung Đạo. Nó được gọi là “sự chuyển bánh xe Pháp thoát khỏi những biểu tượng hay những tính chất bị quy định.” Những giáo lý trong đó được giải thích theo nền tảng, con đường và quả. Đối với giáo lý Trung Đạo, nền tảng là sự không thể phân chia của hai chân lý: chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối. Con đường là sự không thể phân chia hay sự hợp nhất thiết yếu của hai tích tập: tích tập công đức và tích tập trí huệ. Tích tập công đức liên hệ chặt chẽ với hình sắc và ý tượng; tích tập trí huệ vượt khỏi hình sắc và ý tượng. Quả là sự hợp nhất hay không thể phân chia của hai thân, hai phương diện của Phật, đó là pháp thân, phương diện tuyệt đối của thân, và sắc thân hay thân hình sắc. Sắc thân khởi sanh từ sự tích tập công đức và pháp thân từ sự tích tập trí huệ. Trong Trung đạo người ta có thể phân biệt hai phương diện: “Trung Đạo chân lý hay tuyệt đối” (thực tướng Bát Nhã) và “Trung Đạo ngôn ngữ” (văn tự Bát Nhã). Cái trước là thật tánh của tất cả mọi sự vật và hiện tượng. Trung Đạo ngôn ngữ nghĩa là cách thức nhờ đó Trung Đạo tuyệt đối được diễn tả cho chúng sanh có thể hiểu được nó. Chân lý tuyệt đối đứng riêng một mình không giúp cho chúng sanh đang bị giam giữ trong vô minh chứng ngộ được nghĩa tối hậu của nó. Bởi thế, nghĩa này phải được diễn tả bởi các bậc giác

44 ngộ, không phải qua lý luận hay tư tưởng diễn dịch, mà từ một biểu lộ của trí huệ thanh tịnh đến từ giác ngộ. Trung Đạo ngôn ngữ có hai phần: Một là ngôn ngữ Trung Đạo từ những lời của chính đức Phật. Cái này được tìm thấy trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa và nhiều nhánh khác của nó. Cái thứ hai là ngôn ngữ Trung Đạo tìm thấy trong những bình giải được các vị vĩ đại đi theo đức Phật như Nargajuna (Long Thọ), Chandrakirti (Nguyệt Xứng), Asanga (Vô Trước), Aryadeva (Thánh Thiên) và Shantideva (Tịch Thiên) viết ra. Những hành giả này luận về những lời nói của Phật để cho chúng sanh thấu hiểu. Có trừ phi chúng ta đi vào rất nhiều luận giải triết học hết tất cả những nghiên cứu này trong chi tiết, khó mà có được một ý niệm rõ ràng về mọi sự khác biệt. Căn bản, trong Trung Đạo cái kiến giải tuyệt đối nhất là cái nhìn của phái Prasangika do Nagarjuna, Chandrakirti, và những đệ tử của họ chủ trương. Rồi cũng có cái nhìn của phái Svatantrika trong trường phái Trung Đạo. Trong thật tế, nền tảng căn bản và bản tánh chân thật của mọi sự là shunyata, tánh Không. Cái này là như nhau trong mọi phái của Trung Đạo. Sự khác biệt độc nhất là nằm trong khả năng của một người để hiểu chân lý tuyệt đối này, bản tánh Không này. Một số người thấy nó theo một cách thức hạn hẹp, những người khác theo một cách thức hoàn toàn rộng mở. Khi người ta cố gắng diễn tả và suy nghĩ về tánh Không này, nó sẽ được bày tỏ trong những cách khác nhau theo cấp độ và những khả năng của họ. Điều này tạo thành những diễn tả khác nhau về cái thấy tuyệt đối, dù cho nền tảng căn bản thì luôn luôn là bản thân tánh Không, nó như kim cương, không bao giờ biến đổi, và siêu vượt tất cả mọi loại giáo lý khác nhau. Chủ đề căn bản của Trung Đạo là hai chân lý, tuyệt đối và tương đối. Từ Uma, trong tiếng Tây Tạng ám chỉ Trung Đạo, thực sự có nghĩa “trung tâm” hay “ở giữa.” Nó ám chỉ chân lý tuyệt đối. Tại sao chúng ta gọi nó là ở giữa? Bởi vì nó không rơi vào cực biên nào, và luôn luôn ở trong trung tâm. Căn bản, chúng ta có thể hình dung bốn cực biên: có, không có, sanh và diệt. Đối

45 với cái thấy chân lý tuyệt đối, người ta phải không tin vào cái nào trong bốn cực biên này; người ta phải ở trong một trạng thái không có cũng không phải không có; không sanh cũng không diệt, vượt khỏi cả hai và không cả hai. Chúng ta cũng có thể nói đến những ý niệm này như cực biên đến và đi, có sanh và có diệt, có và không, một và khác v.v… Cái thấy căn bản của Trung Đạo là cái thấy tánh Không siêu vượt khỏi tất cả các cực biên như vậy. Nó được gọi là cái thấy pháp tánh hay bản tánh tuyệt đối, nó giống như hư không: không có biên giới, không có trung tâm và chu vi, không có trong và ngoài, vượt khỏi điều kiện và giới hạn. Chân lý tuyệt đối thì vượt khỏi mọi điểm quy chiếu hay định tính nào. Khi chúng ta nói đến chân lý tương đối, nó ám chỉ toàn thể thế giới hình tướng, những phương diện khác nhau của đời sống: vũ trụ và chúng sanh, chúng hình như xuất hiện như thế nào, những tính chất của chúng, những nguyên tố, uẩn, thức khác nhau… Sự giải thích cách thức theo đó những biểu lộ khởi lên và phát khởi dù không bao giờ lìa khỏi bản tánh Không của chân lý tuyệt đối là cái chúng ta gọi là chân lý tương đối, và bao hàm sự vận hành của luật nghiệp quả. Điểm chính yếu là chứng ngộ rằng hai chân lý không lìa rời nhau. Thật tánh của thế giới hình tướng là tánh Không, và trong tánh Không này thế giới hình tướng xuất hiện. Những lời dạy căn bản về hai chân lý này được Nagarjuna giải thích trong năm luận chính của Trung Đạo. Chúng còn được Aryadeva luận giải thêm trong cuốn luận được gọi là Bốn Trăm Bài Tụng. Những học giả Ấn Độ và Tây Tạng, như Longchenpa và Tsongkapa, tiếp tục xây dựng một dãy rộng lớn viết về Trung Đạo, nhưng tất cả đều từ sự thấu hiểu hai chân lý và sự liên hệ của chúng với nhau. Khi chúng ta nói rằng mọi hình tướng là Không, nó không có nghĩa là một khoảng trống trơn hay toàn không, không có phẩm tính hay tiềm năng nhỏ nhất nào. Thật ra, nó là cái gì mang những phẩm tính vĩ đại và tiềm năng vĩ đại cho giác ngộ.

46

Chẳng hạn, nếu chúng ta nói, “Cái tách này trống không,” thì không có phẩm tính lớn lao nào trong sự nhận biết này. Hoặc nếu chúng ta nói, “Không gian này trống không,” đây cũng giống như tìm ra một cái gì không giúp ích gì nhiều. Nhưng nhận biết rằng tất cả mọi hình tướng là trống không, và chứng ngộ sự không hiện hữu của cái ta hay bản ngã, sẽ tự nhiên có lòng bi tự phát, không cố gắng cho tất cả chúng sanh họ không thấu hiểu chân lý tánh Không và tiếp tục khổ đau bởi mê lầm và bám giữ. Nhận ra và tiến bộ trong sự thấu hiểu bản tánh trống không, lồng lộng và vô ngã, là điều sẽ đem chúng ta đến giác ngộ hoàn toàn, và khai mở mọi phẩm tính vô biên khác của chứng ngộ tâm linh. Nó sẽ làm khởi lên cái thấy biết thanh tịnh trong đó chúng ta có thể thấy biết Phật tánh trong mọi chúng sanh. Đối với chúng sanh bình thường đang ở trong bóng tối của vô minh và mê lầm, chỉ trình bày sự kiện rằng mọi sự là trống không sẽ không giúp đỡ cho họ thoát khỏi mê lầm ấy: cũng như trong một giấc mộng, không có cái gì đang thực sự xảy ra, tuy nhiên khi đang mộng các bạn thấy biết nó như là một sự thật, như hoàn cảnh của các bạn, và phản ứng theo nó. Bởi vì chúng sanh thực sự kinh nghiệm mê vọng như cái gì thực có, họ cần nương dựa vào những phương pháp của chân lý tương đối. Cần thiết đưa họ đến một cái hiểu tiệm tiến về chân lý tuyệt đối. Nếu không có mê lầm, thì cũng không cần đến mọi lời dạy này về chân lý tương đối. Nhưng khi nào chúng sanh còn bị giam cầm trong vô minh, họ cần nương dựa vào những giáo lý ấy; họ cần những định luật hiện hành trong sự khai mở của chân lý tương đối: đó là định luật của tất cả những hiện tượng, định luật nghiệp không thể tránh khỏi của nhân và quả. Sự thấu hiểu tánh Không này được đạt đến bằng cái hiểu tánh vô ngã thực sự, nó có nghĩa là sự không hiện hữu của bản ngã riêng biệt, cá thể, và sự không hiện hữu của những những hiện tượng độc lập. Tất cả các pháp là hiện tượng bên ngoài và biến cố tâm thức bên trong đều thực sự không có hiện hữu độc lập.

47

Sự không hiện hữu của bản ngã cá biệt đã được Chandra-kirti trình bày rõ ràng trong một phân tích có bảy phần. Ngài dùng một ví dụ một cái xe như là cái được gọi là một bản ngã (atman) cá nhân, nó chỉ là một liên kết những yếu tố với những tác nhân tương thuộc, và có rất ít hay không có gì để chúng ta có thể gọi là bản ngã của một cá thể. Cái xe không phải là bánh xe, không phải là trục xe. Ngay cả chúng ta không thể tìm thấy một thực thể bằng cách gom những cái ấy lại với nhau. Nó hoàn toàn là một sự đặt tên gán cho một cái gì tự nó không hiện hữu: giống như sự đặt tên cho một nhóm sao là “Cái Gáo lớn,” trong khi không có cái gáo nào cả thường dùng để múc chất lỏng. Đã hiểu sự không hiện hữu của bản ngã cá nhân, người ta sẽ đến chỗ phân tích sự không hiện hữu của những hiện tượng nói chung. Bấy giờ người ta sẽ dễ dàng hiểu ý nghĩa sự không tách lìa của hai chân lý: bản tánh trống không, rỗng rang và sự xuất hiện như huyễn không ngừng của tất cả hiện tượng. Nền tảng của Trung Đạo là hai chân lý: tuyệt đối và tương đối. Con đường của Trung Đạo là cách thức kinh nghiệm trực tiếp chân lý của sự hợp nhất của tương đối và tuyệt đối. Điều này được làm qua sự tích tập công đức và trí huệ. Tích tập trí huệ nghĩa là an trụ trong một trạng thái bình đẳng và trong sự nhìn thấy tánh Không, Shunyata, vượt khỏi mọi ý niệm và tính chất. An trụ bằng phẳng trong bản tánh tuyệt đối này là cái chúng ta gọi là thiền định. Khi có sự tích tập công đức trong thời gian sau thiền định đó bởi vì cách hành động của chúng ta tương ưng với cái hiểu về bản tánh Không, và bởi thế nó tự nhiên chuyển hóa thành đức hạnh. Sự tích tập trí huệ thì vượt khỏi mọi tác ý biểu tượng; sự tích tập công đức thì hòa hợp với tác ý biểu tượng. Khi chúng ta nghĩ đến sáu hoàn thiện hay sáu ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ thì lúc ấy ta sẽ có ý tưởng giúp đỡ những người khác. Từ đây có chủ thể, đối tượng, và hành động và một loại khuôn khổ ý niệm hay tác ý biểu tượng. Con đường Trung Đạo phối hợp sự hiểu biết về tánh Không tuyệt đối trong thiền định với sự áp dụng cái hiểu biết đó vào hoạt động Bồ đề tâm hoàn hảo, như

48 thế đáp ứng cho sự tích tập công đức qua sáu ba la mật và hiện thực hóa rốt ráo Phật tánh. Lý do hoàn thành hai sự tích tập này không phải là cho chính chúng; mà bởi vì có một quả kết thành từ hai sự tích tập đó. Quả của tích tập trí huệ là pháp thân; quả của tích tập công đức là sắc thân. Pháp thân là mục tiêu tối hậu của sự chứng ngộ bản tánh tuyệt đối hay pháp tánh, bản tánh Không của mọi hiện tượng, sự hợp nhất của tánh Không và những hình tướng. Sự chứng ngộ này có những phẩm tính giác ngộ vô biên, chúng biểu lộ một cách tự phát như những tia sáng phát ra từ mặt trời. Chúng ta nói đến mười sức mạnh của Phật, mười tám sự vắng mặt của mê lầm, mười lực… những cái ấy là tất cả những phẩm tính giác ngộ của một vị Phật giác ngộ viên mãn và có sẵn trong pháp thân hay thân tuyệt đối. Bản thân cái đó là Phật tánh và là quả của tích tập trí huệ. Điều này nghĩa là chư Phật tự nhiên lưu xuất những biểu lộ, như những đạo sư tâm linh, bồ tát,… để giúp đỡ cho chúng sanh trong vô số cách. Trong sắc thân hay thân hình sắc, chúng ta phân biệt giữa báo thân sự biểu lộ ở cấp độ vi tế, và hóa thân – sự biểu lộ ở mức độ thô nặng. Cái sau là thân mà những chúng sanh bình thường có thể tri giác. Hóa thân bao gồm những những lama bồ tát tái sanh, những biểu lộ như những tulku đạo sư tâm linh, những đại bồ tát, và những vị Phật hiện thân như Phật Thích Ca Mâu Ni. Tam bảo cũng có thể biểu lộ thành bất cứ thứ gì lợi lạc cho chúng sanh, như thuốc thang, cầu đường, kinh văn, tượng ảnh… Theo cách này, quả của hai sự tích tập là cả hai sự chứng ngộ tuyệt đối của giác ngộ (pháp thân), và tất cả những biểu lộ vô số của nó cho lợi lạc của chúng sanh (sắc thân). Rất dễ dàng nói rằng bản tánh của mọi sự là Không, và Không không tách lìa với những hình sắc và những xuất hiện. Tuy nhiên đây là một ý niệm cực kỳ sâu xa khó hiểu, khó nắm bắt trọn vẹn. Trung Đạo vĩ đại là một chủ đề bao la như chính giác ngộ. So sánh với cái thấy của Trung Đạo, cái chúng ta thường tri giác thì giống như sự khác biệt giữa cái chúng ta thấy qua một lỗ

49 kim hay một ống hút giải khát với cái nhìn thấy trực tiếp chính bầu trời. Khi chúng ta nói “tánh Không,” đấy vẫn cùng một tánh Không, dù được nhìn theo cách rộng hay hẹp, như trong thí dụ cái thấy qua cọng rơm, nhưng có sự khác biệt lớn lao trong quy mô, hiểu biết và chứng ngộ thực sự. Nó đòi hỏi nhiều hơn chỉ là hiểu biết trí thức đơn thuần. Một sự hiểu biết chân thực về tánh Không tăng trưởng sâu hơn, càng lúc càng rộng hơn, đến chứng ngộ về sự hợp nhất nền tảng và vốn vậy của chân lý tuyệt đối là tánh Không và chân lý tương đối là luật nhân quả của những hiện tượng, nó tăng trưởng thành sự chứng ngộ hoàn toàn của giác ngộ. Suốt sự thực hành của mình, chúng ta cần thường trực làm cho tâm thức chúng ta rộng rãi hơn, kém khô cứng và rỗng rang hơn. Sự cố gắng này là đáng giá trong rất nhiều lối. Trong những hoạt động bình thường, tâm thức chúng ta thường chật hẹp và khép kín vào chính nó, thật rất khó khăn để hoàn thành bất kỳ một mục đích nào, để thực sự liên hệ và có một thái độ vô ngã đối với những người khác. Một tâm thức khép hẹp như thế chỉ có thể dẫn tới những hậu quả bi thảm. Ngược lại, nếu chúng ta chuyên cần nỗ lực mở rộng tâm thức chúng ta, chúng ta tự nhiên sẽ có lòng bi, đức tin vào Tam Bảo, sự bình an bên trong và một tri giác thanh tịnh về những người khác. Thái độ này sẽ không chỉ đưa đến một đời sống hạnh phúc thoát khỏi những chướng ngại, mà chắc chắn nó còn là đường lối để dần dần hiểu ra chân lý tuyệt đối và bản tánh sâu xa của mọi sự đúng như nó là, trong một đường lối hoàn toàn mở trống và không bị điều kiện hóa. Trong cả hai sự thiền định và những hoạt động của cuộc đời thường ngày, rất quan trọng cho chúng ta là liên tục khai mở tâm thức mình và giải thoát nó khỏi những ý niệm, sự tối tăm của tâm thức, những tình cảm xung đột và mê lầm. Người ta có thể thấy trong đời sống của những con người cao cả sự chứng ngộ chân lý thì mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sự chứng ngộ tánh Không tự nhiên mở ra lòng bi vô hạn và tri giác thanh tịnh. Điểm rốt ráo của chân lý tuyệt đối là sự chứng ngộ tánh Không. Sự thực hành rốt ráo của chân lý tương đối là sự thực hành Bồ đề tâm, lòng bi.

50

Khi chúng ta nói đến sự không tách lìa của hai chân lý, đấy chính là vì khi người ta chứng ngộ tánh Không, người ta sẽ tự nhiên và tự phát có lòng bi; sẽ không cần chế tạo ra nó. Thực hành Bồ đề tâm sẽ tự động dẫn chúng ta đến sự hiểu biết chân lý tuyệt đối. Đấy không phải là những thứ khác biệt; hơn nữa, chúng luôn luôn xuất hiện cùng nhau. Do đó tại sao là quan trọng khi thường trực phối hợp chúng, cố gắng khai triển sự thấu hiểu của chúng ta về chân lý tuyệt đối trong khi cố gắng sử dụng những phương tiện thiện xảo của Bồ đề tâm. Sự thực hành của chúng ta trong cả hai chân lý, tương đối và tuyệt đối, phải đi cùng với nhau không tách lìa. Chúng ta phải hiểu từ trên với quan điểm tuyệt đối, trong khi thực hành bằng sự leo lên ngọn núi tâm linh từ dưới với những thực hành tương đối, phù hợp với khả năng và khuynh hướng cá nhân. Đó là điều trong Đại viên mãn có nghĩa là “lao xuống từ bên trên trong khi leo lên từ bên dưới,” sự thực hành phối hợp hai cấp độ của chân lý, cũng được biết như là “hiểu theo cái thấy tối thượng và thực hành theo khả năng mình.” Đây là hình thức đầy đủ và hiệu quả nhất của thực hành tâm linh, nó có thể được áp dụng trong bối cảnh của hầu hết loại hình thức thực hành riêng biệt nào gồm cả những hoạt động bình thường của đời sống hằng ngày. Đây chỉ là một ít lời về giáo lý. Điều chúng ta cần cho điều này hay một giáo lý khác là thường trực tu hành tấm lòng và tâm thức chúng ta để mở rộng, khai mở, ôn hòa và chuyển hóa chúng. Trước tiên, hãy nghe những lời dạy, rồi tư duy chúng sâu xa, và cuối cùng thâu hóa chúng, qua sự áp dụng chúng vào thực hành thật sự. Nếu chúng ta làm thế, thì cũng giống như sự chuyển hóa của thuật luyện kim biến kim khí thành vàng. Khi chúng ta thực hiện tiến trình luyện kim, nếu chúng ta bắt đầu với sắt, nó sẽ được chuyển thành vàng; nếu nó là đồng, nó sẽ biến thành vàng; nếu là bạc, nó cũng sẽ biến thành vàng. Tương tự, nếu chúng ta áp dụng sự thực hành huấn luyện tâm thức này với Bồ đề tâm, dù chúng ta đi vào những hoạt động thế gian, làm việc cho chúng ta hay cho những người khác, cho chính phủ, dịch vụ v.v…, chúng ta sẽ chuyển hóa tất cả những hoạt động ấy thành con đường của Pháp. Như thuật luyện kim biến bất cứ thứ kim loại nào thành vàng, thực

51 hành Bồ đề tâm sẽ chuyển hóa mọi hoạt động, mọi tư tưởng, mọi điều chúng ta nói thành ra sự thực hành Pháp. Thế nên cực kỳ quan trọng phải duy trì, tiếp tục và tăng trưởng sự tu hành tâm thức. Tại sao chúng ta làm một cầu nguyện hồi hướng và chia xẻ công đức vào lúc kết thúc sự giảng dạy? Bởi vì hiệu quả của bất kỳ thứ gì tích cực chúng ta đang làm đều nương dựa vào việc chúng ta có hồi hướng nó hay không. Nếu chúng ta hồi hướng một hành động tích cực cho lợi lạc của tất cả chúng sanh với ước mong rằng họ sẽ thành tựu giác ngộ, nó sẽ thực sự giúp đỡ tất cả chúng sanh đạt được trạng thái đó, bởi vì tất cả chúng ta đều tiếp hợp và tùy thuộc lẫn nhau. Những sự cầu nguyện thì rất mạnh mẽ, hiệu quả và tỏa xa. Năng lực của hành động tích cực đó bấy giờ sẽ tiếp tục không ngừng nghỉ, từ ngay giây phút của sự hồi hướng cho đến khi mục đích được đạt tới. Nếu chúng ta không hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh, năng lực tích cực có thể nhanh chóng tan mất. Ngay lúc một hành động đức hạnh, nó sẽ có một hiệu quả tích cực, nhưng nó sẽ không chuyển đi dài thêm, nó cũng sẽ chẳng giúp gì nhiều cho chúng ta và những người khác đạt đến giác ngộ. Luôn luôn tốt nhất là hồi hướng hành động trong khi đang trụ trong sự hiểu biết về bản tánh tuyệt đối, đúng như sự hiểu biết của tất cả chư Phật toàn thiện. Nói lên hàng trăm lời cầu nguyện hồi hướng như vậy chắc chắn làm lợi lạc không cùng cho sự tiến bộ của chúng ta và giúp đỡ đưa những chúng sanh khác đến giác ngộ. Bởi thế những lời hồi hướng là rất sâu thẳm, sâu xa và quan trọng. Những cái ấy chớ nên chểnh mảng, mà nên luôn luôn áp dụng cho bất cứ thực hành nào cũng như cho bất cứ hành động tốt nào được làm trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

52

3 Bạn là Đại Viên Mãn Một lời dạy về Bồ đề tâm Tƣơng đối và Tuyệt đối vào dịp Ẩn cƣ hai tháng ở Hoa Kỳ

Tất cả các bậc giác ngộ đã thấu rõ Phật tánh tối thượng và toàn hảo: tất cả chúng sanh, gồm chính chúng ta, cũng có thể làm như thế. Đó không phải là cái gì riêng tư giữa các Lama và đệ tử. Đó là cái khai mở tính vô hạn của bản tánh bổn nguyên của chính chúng ta, tâm thức và tấm lòng tận cùng của chính chúng ta, Bồ đề tâm, một tặng phẩm bẩm sinh không tách lìa với tất cả những sự vật sống động. Ở mức độ tương đối của đời sống hàng ngày, Bồ đề tâm là lòng bi, lòng từ và một sự bằng lòng ưng chịu vô điều kiện. Ở mức độ tuyệt đối hay tối hậu, Bồ đề tâm bao gồm những phương diện trống không, mở khắp, bí mật nhất của cái đang là. Đấy là hai mặt của Bồ đề tâm: tương đối và tối hậu, sự thật và tình thương. Bất cứ thứ gì chúng ta làm với động cơ ích kỷ, nhỏ hẹp, quy ngã đều rất giới hạn và chắc hẳn nhất thời. Khi chúng ta hành động với sự quan tâm cho chỉ đời này, trong thế giới ta bà này, phạm vi của chúng ta thu nhỏ lại đối với cái thực sự là. Có một câu nói Tây Tạng rằng, “mọi sự đều nằm trên ngọn của động lực mỗi người.” Điều này chỉ ra ý nghĩa trong mỗi phút giây của sự trau dồi ý Bồ đề tâm. Với một tấm lòng vị tha, vô ngã sáng soi như vậy, ngay cả những lời nói, hành vi và hành động nhỏ nhất mà người ta thực hiện cũng có những nội dung bao la và lợi lạc. Đây là phép thần thông chuyển hóa của Bồ đề tâm, một viên ngọc như ý đích thật, giống như hòn đá huyền thoại của những triết gia biến ra vàng từ mọi thứ nó chạm đến. Với Bồ đề tâm vị tha ý nghĩa sâu xa, hoặc chúng ta thực hiện những hành động lớn hay nhỏ, cũng có những lợi lạc rộng lớn và xa cho chúng sanh ở bất cứ đâu, gồm cả chúng sanh đời quá khứ, hiện tại và tương lai bởi vì phạm vi

53 của động lực mặc nhiên bao gồm tất cả chúng sanh. Hoạt động của chúng ta là thiền định, cầu nguyện hay sự thực hành tâm linh, bất cứ điều gì chúng ta làm đều dựa vào động lực của chúng ta. Theo luật nhân quả, kết quả phải theo hạt giống hay nhân không sai chạy, nhân này đầu tiên và chủ yếu là động lực của chúng ta và thứ hai là tùy thuộc vào hoạt động thể xác của chúng ta. Khi chúng ta làm việc chỉ cho sự thích thú hay hạnh phúc riêng của mình, tự nuôi sống mình hay tìm kiếm tiện nghi cho mình, đây là cái được gọi là một tâm nhỏ hay một cái nhìn chật hẹp. Nó không giống ngay cả với sự làm việc cho gia đình, cha mẹ chúng ta hay như một người bảo vệ cho con cái chúng ta. Khi chúng ta mở rộng động lực này một chút về phía gia đình và bạn bè, tấm lòng và tâm thức cũng mở ra một mức nào đó. Điều quan trọng nhất là có một lòng tốt, một tấm lòng trong sạch và thành thực, nó thực sự là tinh túy nền tảng của tất cả chúng ta, dầu nếu chúng ta không thường hiện thực nó. Thường thường chúng ta thấy mình liên lụy vào xung đột với gia đình, với những đồng nghiệp v.v… Quan trọng và hữu ích là nhận ra rằng điều này không tránh khỏi khởi ra, nhưng không cần phải thấy đó là một vấn đề lớn lao. Vì mọi sự dựa vào ý định của chúng ta. Chúng ta có thể làm việc với bất cứ sự gì và đem nó vào trong con đường, sự thực hành tâm linh của chúng ta, với một tâm thanh tịnh và một lòng tốt, luôn luôn từ quan điểm làm lợi lạc cho những người khác. Tinh túy cốt lõi của Phật pháp là làm lợi lạc cho những người khác, Bồ đề tâm. Bất cứ thứ gì khác chúng ta có thể làm chỉ là thứ yếu so với nó. Và nếu chúng ta trau dồi lòng tốt này, thái độ vô ngã vị tha này, bấy giờ mọi xung đột và chiến đấu sẽ tự nhiên lặng xuống, được tịnh hóa, được chuyển hóa và với lòng tốt này chúng ta trở thành hiện thân của những bồ tát nỗ lực làm lợi lạc cho những người khác ngay cả qua sự tiếp xúc đơn thuần. Dầu cho chúng ta có nghiên cứu đạo trong nhiều năm, nếu chúng ta có một động lực bị pha tạp, không trong sạch, một thái độ quy ngã, con đường của chúng ta bị giới hạn và sự phát triển của chúng ta bị cản trở. Nếu một vị thầy

54 ban cho những bài thuyết pháp tuyệt hảo và những hình thức dạy dỗ khác nhưng động lực của vị ấy bị pha tạp, lợi lạc của những lời dạy ấy cũng cực kỳ giới hạn. Một vị thầy tâm linh cần hiện thân một cách không khuyết điểm sự trong sạch của tấm lòng, chảy tràn sự rộng lượng tự nhiên và sự ấm áp của Bồ đề tâm vị tha, hướng vào nguyện vọng tinh ròng mong muốn phụng sự: Bồ đề tâm có khả năng thực sự giúp đỡ và cắt bỏ khổ sở của những người khác, trong cả hai nghĩa tương đối và tối hậu. Người ta thường cảm thấy mình ở trong những tương quan khó khăn. Khi nào chúng ta còn lệ thuộc vào nghiệp và phiền não, chúng ta sẽ còn không tránh khỏi vô số trồi sụt. Tuy nhiên nếu người ta đã cam kết giúp đỡ lẫn nhau, phụng sự lẫn nhau, tiến bộ và thức tỉnh lẫn nhau, bấy giờ mọi hoàn cảnh và tình huống đều có thể làm việc được, dù bất cứ chìm nổi trắc trở nào bất ngờ xảy đến. Đây là một thí dụ thực hành Bồ đề tâm bằng cách áp dụng thực sự trong đời sống hàng ngày của chúng ta, đấy quả thật là điểm chính yếu. Khi chúng ta thực hành thiền định Bồ đề tâm, có vẻ như chúng ta một mình, như chúng ta đang thực hành cho chính mình, nhưng chúng ta không thực hành cho chúng ta, và chúng ta không một mình. Tất cả chúng sanh đều nối kết với nhau, và trong nghĩa đó họ đều hiện diện hay bị ảnh hưởng. hát, “Khi tôi một mình, thiền định trong núi non, tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai ở cùng với tôi. Guru Marpa luôn ở cùng tôi. Tất cả chúng sanh đều ở đây.” Chúng ta không thực hành cho riêng chỉ chúng ta, bởi vì mọi người đều tham dự và bao gồm trong phạm vi bao la của những lời nguyện và thiền định của chúng ta về động lực thanh tịnh toàn thiện này. Sự chảy tràn tự nhiên của cái gọi là “thiền định hay cầu nguyện cô tịch” là sự lợi lạc tự nhiên cho những người khác; nó giống như những tia sáng của mặt trời tự nhiên lan tới. Lòng tốt này, lòng trong sạch này, tâm bao la và mở rộng khắp này, trong tiếng Tây Tạng được gọi là sem karpo, tâm trắng. Nó nghĩa là tấm lòng trong sạch, bao la và mở khắp. Đây là Bồ đề tâm bẩm sinh. Nó không phải là cái gì xa lạ

55 với chúng ta, vì chúng ta biết rõ, tuy nhiên nó là cái chúng ta cần liên hệ hơn nữa, trau dồi, phát sinh, và thể hiện. Chúng ta nói về những giáo lý rộng và sâu của Pháp, như là Đại viên mãn, nhưng không có lòng tốt đẹp này, tính vô ngã này, thì chỉ là nói nhiều, tầm phào và là sự hợp lý hóa của ý thức. Nếu một người đàn ông tìm hiểu một người bạn đời, thường thì anh ta chỉ nghĩ rằng anh ta muốn có một người đàn bà để làm cho anh ta hạnh phúc về phần mình. Ít khi anh ta nghĩ làm sao có thể làm lợi lạc hay giúp đỡ cho người bạn đời. Một tương quan như vậy đã được xây dựng trên ngọn của một động lực hay ý định rất hạn hẹp, và những kết quả từ đó là đáng ngờ. Nhiều người ở trong một khách sạn; khách sạn thì rất quan tâm đến việc làm cho những người khách vui sướng, nhưng thường thường động lực duy nhất của họ là công việc làm ăn. Lý do làm cho khách vui sướng là vì lợi ích của chính họ. Có một lợi lạc tối hậu nào có thể có ở đấy khi cố gắng làm cho người ta vui sướng theo một cách hạn hẹp như vậy, chỉ vì lợi cho riêng mình? Nếu người ta thực hành giáo lý hiếm có và sâu xa đến khó tin Dzogchen, Đại viên mãn bất nhị, với một ý định như vầy: “Tôi muốn thực hành Đại viên mãn, tôi muốn giác ngộ. Tôi sắp có nó trong đời này,” và có nhiều ích kỷ chụp bắt, năng nổ, hẹp lượng như vậy, làm sao có thể có Đại viên mãn nào? Đấy là cái trái nghịch nhất với Đại viên mãn bao la, rỗng rang không điều kiện. Đấy là tại sao chúng ta lạc khỏi con đường chân thật và trở nên những người thực hành hoang dã và có khi còn điên cuồng. Nếu sự chấp ngã, quý trọng mình, và bám lấy sự có thực của những sự vật còn mạnh, làm sao có thể có Đại viên mãn đích thực, nó là trạng thái chân thật tự nhiên của tự do, lồng lộng và sự toàn thiện nguyên sơ? Nếu tu hành tâm thức, bạn làm những thực hành Bồ đề tâm cầu nguyện từ bi, trao đổi mình với những người khác những thực hành này có thể có vẻ như ý niệm và tương đối (tong len)…, nhưng chúng thực sự bao gồm chân lý tuyệt đối, chân lý tuyệt đối này là bản tánh rốt ráo nhất của Đại viên mãn: lồng lộng bao la, tâm trùm khắp, trong sạch, tự do, và không bám níu. Vô ngã

56 không khác với sự rỗng rang bất nhị này, tánh Không bao la này. Đại viên mãn có thể là thanh tịnh và không bao giờ ô nhiễm một cách nguyên sơ như tuyết trinh bạch, nhưng tiếp cận với nó với động lực pha tạp hay nguyện vọng ích kỷ bất tịnh là một giới hạn lớn lao. Khi bạn đi tiểu vào tuyết, tuyết vốn là trắng, nhưng phút chốc hóa màu vàng. Danh từ Bồ đề tâm trong tiếng Tây Tạng là sem kye. Nghĩa đen là “sự khai mở hay nở hoa của tâm thức” nó là cái đối nghịch với tâm thức nhỏ hẹp, với sự tự lo toan, tự co rút, và hẹp lượng. Dù chúng ta đang ở trên bất cứ con đường thực hành nào, dù đó là Thừa Theravada căn bản, hay Thừa Bồ Tát (Đại Thừa) hay Dzogchen, Kim Cương Thừa thì nếu chúng ta có một thái độ lành mạnh, trong sạch và một tâm rộng rãi và khoan dung, bấy giờ sự thực hành của chúng ta thực sự là sự thực hành Phật giáo; nó cùng một mặt với sự thực hành thực sự làm nở hoa và cởi mở tâm thức. Đây là thật nghĩa của Bồ đề tâm. Có thể bầu trời thì luôn luôn trong trẻo, sáng sủa, bao la, vô hạn v.v…, nhưng giây phút Đại viên mãn xảy tới thì cũng như mặt trời thình lình mọc. Không phải bầu trời của bản tánh bẩm sinh của chúng ta được cải thiện, nhưng một cái gì quả thực xảy ra. Ẩn dụ mặt trời mọc này ám chỉ rang jung yeshe, trí huệ tỉnh giác tự nhiên tự hữu hay sự tỉnh thức bẩm sinh mọc lên trong bản thể chúng ta. Đây là khoảnh khắc của Đại viên mãn, bình minh của trí huệ tánh giác tự hữu, trí huệ bổn nhiên. Đây là ý nghĩa của cái được gọi là nyur de dzogpa chenpo trong tiếng Tây Tạng nghĩa là “Đại viên mãn bổn nhiên nhanh chóng và sẵn đủ” – một con đường không đòi hỏi những khổ hạnh hay những thực hành gian nan. Nó là trực tiếp, nhanh chóng, rộng rãi, tự nhiên và sẵn đủ. Nó có thể làm được! Trong một đời người, trong một thân thể, ngay trong một khoảnh khắc của tánh giác tự khởi, cái bình minh của Vajrasattva này – trí huệ tánh giác bổn nhiên tự hữu – chiếu soi như một mặt trời rực rỡ bên trong. Khi bạn liên hệ với trí huệ tánh giác bổn nhiên tự hữu này, khi bạn thực hành Đại viên mãn như nó thực sự là, cuộc đời con người chóng vánh này đầy ý nghĩa tức thời.

57

Và không chỉ cuộc đời này, mà tất cả mọi đời sống của chúng ta có ý nghĩa, như thể tất cả đời sống của mọi người được kết hợp với chúng ta. Kinh nghiệm này về trạng thái tự nhiên của Đại viên mãn bổn nhiên và sáng rỡ bao hàm sự hủy diệt, sự tiêu ma thành bụi nhỏ mọi hình thức chấp ngã và phân biệt nhị nguyên, sự bám chấp vào tính cụ thể có thực của sự vật, vào hình tướng của chúng. Cái tự do vốn sẵn đủ của hiện thể hiện diện một cách tự nhiên và nguyên thủy. Mọi thấy biết giả ảo tự nhiên không hiện hữu trong bình minh của trí huệ tánh giác bổn nhiên này. Sự sanh sôi của nghiệp và phiền não thì căn cứ trên sự bám chấp nhị nguyên, cái vô minh: trong ánh sáng của tánh giác bất nhị, những phiền não là bất khả đắc. Mọi sự “rơi rụng” vì vốn là vô sanh từ nguyên thủy; và sự tự do của hiện thể toàn thiện, của Rigpa, tự nhiên hiện tiền từ vô thủy, được thấu suốt một cách rõ ràng và toàn triệt ngay trong khoảnh khắc ấy. Thật dễ đi lạc vào những lối rẽ trong cái sâu xa bao la và ngời sáng này. Dĩ nhiên chúng ta biết rằng chúng ta cần một Bồ đề tâm bao la, rộng mở, vị tha. Chúng ta có thể thấy rằng cái Đại viên mãn bẩm sinh, bản tánh tối hậu của sự vật, thì vượt khỏi tâm thức ý niệm và những thấy biết nhị nguyên của nó. Nhưng còn – ở đây điểm lạc lối bắt đầu – chúng ta còn dò thám, tìm kiếm trong một lối nẻo rất co hẹp và giãn ước, tự hỏi: Cái gì là Đại viên mãn? Đâu là Đại viên mãn? Nó là gì? Tôi muốn thấy biết và kinh nghiệm nó. Điều này tự nhiên thôi, nhưng nó đi trước sự nhận biết thực tánh của chúng ta. Đây là một điểm trệch đường, mà sau khi nhận biết không cần thiết để xảy ra nữa. Cũng giống như sau khi gặp và biết người nào, ta không phải suy nghĩ quá nhiều để tưởng tượng ra người ấy có vẻ giống hay không giống ai: có một sự giải thoát có tính trực giác khỏi những nghi ngờ và suy tính như vậy, và người ta tiến tới với sự cảm nhận trực tiếp, căn nguyên hơn. Chúng ta có thể có nhiều thắc mắc nảy sanh, như là, khi một tư tưởng khởi lên, nhận xét rằng: Đây là một tư tưởng. Nó khởi lên từ đâu? Nó đang đi đâu? Nó đã về đâu? Đâu là khoảng hở hay không gian mở giữa những tư

58 tưởng mà tôi đã nghe nói trong những giáo lý Đại Ấn Mahamudra, cái tôi tự cho là đã nhận biết? Điều ấy có hơi dính dáng đến sự thực hành thực sự Đại viên mãn: đấy là thực hành tâm thức, sự thiền định do tâm thức làm ra, mà không phải là thực hành tự thân Rigpa. Tuy nhiên những câu hỏi ấy là phần thuộc về những sơ khởi hiển nhiên của thực hành Đại viên mãn và giúp cho người ta biết phân biệt giữa tâm thức (sems) và tánh tỉnh thức bẩm sinh (Rigpa). Sự nguy hiểm là chúng ta nghe quá nhiều và quá sớm. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu tánh Không, trên bình diện tuyệt đối này lạc vào một cách thế hư vô, và bị che ám bởi những ý niệm. Nagarjuna nói, “Thật buồn khi thấy những người tin vào thực tại cụ thể, vật chất một cách sai lầm, nhưng còn đáng thương hơn nhiều là những người tin vào tánh Không trống rỗng.” Những người tin vào những sự vật có thể được cứu giúp bằng nhiều loại thực hành, bằng đường lối những kinh nghiệm thiện xảo, nhưng những người rơi vào vực thẳm của cái không thì khó có thể vượt lên được, vì không chỗ nào để nắm tay, không có chỗ bước chân, không có sự tiến bộ từ từ, và không có gì để làm cả. Người ta dễ trở nên say sưa bởi mớ bòng bong của những ý niệm. Thế rồi chúng ta kiệt sức trong phỏng đoán không kết quả, trở nên thất vọng và cuối cùng vất bỏ. Đây là sự nguy hiểm từ việc nghe những lời dạy bất nhị, như Đại viên mãn và tánh Không, trước khi người ta đã thực sự kinh nghiệm và thực hành chúng. Nhưng ai là kẻ đã tạo ra những nỗ lực đáng ngờ và có vẻ gian dối này? Chính là tâm thức diễn dịch hay ý niệm, kẻ namtok. Namtok nghĩa là tính ý niệm, sự suy nghĩ diễn dịch; nó để chỉ tâm thức nhị nguyên, nó tạo ra không dứt mọi nỗ lực vô ích này. Bộ máy namtok, tri thức phân biệt, có hai loại gia đình. Một gia đình là nhóm ba độc (phiền não), hay năm độc, chúng đại diện toàn bộ sự sinh sôi phồn thịnh của tám vạn bốn ngàn phiền não được kể theo truyền thống; những cái ấy bao gồm tất cả mọi thứ tư tưởng, mọi xúc động tích cực và tiêu cực, mê lầm v.v… – Anh chàng namtok này, tâm nhị nguyên này có ba

59 phạm vi: những tư tưởng quá khứ, những tư tưởng hiện tại và những tư tưởng tương lai. Bộ máy Namtok này, cái tâm thức nhị nguyên này cũng có ba nhóm bà con thân thuộc: những tư tưởng, lời nói, và hành vi tốt; những tư tưởng, lời nói hành vi không tốt; và những tư tưởng, lời nói hành vi trung tính. Không chỉ những xúc tình không tốt – như sân giận, si mê và tham luyến – mới là namtok. Ngay cả những tư tưởng, hành vi, hành động tốt – như tình thương, lòng bi và sùng mộ hiến dâng – cũng là namtok. Cái trung tính hay thản nhiên – và ngay cả những tư tưởng vô thức, không được biết đến – cũng là namtok, bởi vì chúng ở trong vòng rào của tâm hữu hạn, nhị nguyên và vô minh. Bấy giờ, làm thế nào liên hệ với mọi gia đình, giòng tộc này của namtok? Làm thế nào để sống chân lý của Pháp trong cuộc đời bình nhật, nơi mới thực sự đáng kể, nơi mới thực sự có thể phân biệt? Bằng cách thực hành chân lý của tánh giác bổn nhiên tự-khởi-và-tự-giải-thoát-đồng-thời. Mọi sự trong kinh nghiệm của chúng ta thì thật ra tự nhiên xuất hiện, tự nhiên biến đổi, tự nhiên giải thoát hay tự do, mà không có sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta không cần can thiệp, thao tác, tạo tác bất kỳ thứ gì. Đó là quan kiến Đại viên mãn về cách làm thế nào liên hệ với mọi sự, cả trong những thời thiền định chính thức lẫn thời gian sau thiền định, trong đời sống hàng ngày. Nó phối hợp ba phương diện của thực hành Rigpa: cái thấy, thiền định và hành động. Dzogchen, Đại viên mãn tự nhiên, được cho là một sự thực hành và cái thấy một quan kiến hay viễn cảnh, vượt khỏi tâm thức ý niệm. Bởi thế, thuận theo hay chống lại những hình tướng, hiện tượng, xuất hiện – đó là những điều kiện hoàn cảnh, hoặc ở trong hay ở ngoài, hoặc buông lung hay đè nén namtok – đều là thiền định do tâm thức tạo dựng. Đây là tạo tác và mưu định, không phải thực hành Rigpa. Đấy cũng giống như một con chó rượt theo cái đuôi của nó. Đấy không phải là thực hành Đại viên mãn, sự không- thực-hành giải thoát tự nhiên của sanh khởi tự nhiên và giải thoát tự nhiên.

60

Cho đến khi nào người ta biết bản chất vô tự tánh, trống không, như mộng của mọi namtok, mọi sắc tướng, mọi trạng thái của tâm thức, gồm cả hai thứ bản thể tâm thức và hiện tượng bên ngoài, và người ta nhận biết bản chất rỗng rang và sáng soi của chúng, gồm cả Phật tánh vốn vô ngã, mở khắp và sáng soi của chính mình, cho đến khi người ta tự do với trụ chấp, tác ý hay phản ứng bắt buộc; còn không, nghiệp được tích tập là điều không thể tránh. Tuy nhiên, an trụ trong Rigpa – nhận biết bản tánh bổn nhiên của mình, thọ hưởng dòng tự nhiên của tánh thức tỉnh bẩm sinh, tánh giác bổn nhiên bất nhị – cội rễ sâu xa nhất của nhân quả tạo nghiệp, của khổ đau, bị cắt triệt. Hơn nữa, những điều kiện làm chín muồi những hạt giống nghiệp tiềm tàng không thể tụ hội nữa, thế nên ngay cả những lóng cặn tàn dư thuộc về nghiệp của những hành động quá khứ không còn chỗ để chín. Giống như sự sanh khởi của những sóng trong đại dương: chúng không làm tiến triển, hủy hoại, quấy nhiễu hay làm biến đổi đại dương chút nào, có lẽ trừ mức độ trên bề mặt ngoài nhất. Đây là như thế nào chúng ta có thể, trong cách thức của Đại viên mãn, liên hệ với Phật tánh của chính chúng ta: qua và giữa tất cả hình tướng, tất cả sanh khởi, tất cả trường hợp và điều kiện, hòa hợp mọi hành động vào cuộc hành trình tâm linh. Điều này phát lộ sự tự do và toàn thiện vốn bẩm sinh của Đại viên mãn, cái bản tánh không biến chất, không đổi thay như đại dương của tự thân tánh giác. Nếu chúng ta bị trói buộc bởi hy vọng và sợ hãi, mong ước và lo âu, chúng ta lại cần tự định hướng trở lại, dùng cái thấy của Đại viên mãn như là một ngôi sao bắc đẩu để vượt biển dễ dàng hơn. Bởi vì chúng là dấu hiệu cho thấy chúng ta không ở trong Rigpa, mà còn bị lôi cuốn vào tâm thức thuần ý niệm, đó không phải là sự thực hành Đại viên mãn. Tuy nhiên, làm thế nào chúng ta cắt đứt công cuộc tìm cầu của chúng ta trước khi nó được đáp ứng trọn vẹn? Chúng ta cần nhận biết bản chất của người tìm cầu để cho sự tìm cầu của chúng ta được thỏa mãn.

61

Sùng mộ và lòng tin vào vị thầy của chúng ta là một thực hành có thể bảo đảm cho chúng ta gần gũi với tinh túy của con đường Đại viên mãn. Một số người sớm kết luận rằng một giáo lý tinh yếu, trực tiếp và trần trụi như là những lời dạy bất nhị của Đại viên mãn thì không, và ngay cả không nên, đòi hỏi niềm tin, sự sùng mộ hay sự thực hành tương đối, hay mọi loại tu hành có chủ định nào. Những người ấy nhảy vào một kết luận vội vã rằng Bồ đề tâm vị tha, những hoạt động công đức, giới luật và những thực hành tâm linh liên hệ không liên quan gì với sự thực hành tự nhiên của Đại viên mãn sâu xa. Từ một quan điểm người ta có thể nói đấy là sự thật hay có lẽ gần với sự thật. Quả thật là tất cả những điều ấy đều nằm trong bối cảnh của chân lý tương đối, chiều kích của tâm thức (sems). Điều đó không thể chối cãi. Những cố gắng tâm linh như vậy không tất yếu đồng nhất với chính Đại viên mãn, thực tại tuyệt đối siêu vượt khỏi tâm thức. Bởi thế không phải không đúng, ở một mức nào, khi nghĩ rằng sự tin tưởng, sùng mộ, cố gắng với ý định và sự trau dồi của những thực hành tương đối không phải là chính Đại viên mãn – bản tánh tuyệt đối của sự vật, chân lý tuyệt đối, trí huệ tánh giác tự hữu hay bẩm sinh tự nhiên. Quả thật là những thực hành tương đối này là tâm thức, là namtok; chúng không phải là bản thân Đại viên mãn. Tuy nhiên, những thực hành tương đối này là rất, rất quan trọng cho những người cũng như chúng ta, còn đang bị lôi cuốn sống trong thế giới tương đối. Chúng ta không thể chối bỏ sự vận hành của nghiệp và sự bị qui định của chúng ta tiếp tục trói buộc chúng ta như thế nào. Đối với người nào tức thời chứng ngộ và trong khoảnh khắc ấy hoàn toàn hiện thực hóa Phật tánh toàn thiện của Đại viên mãn – nó không gì khác hơn là Rigpa – họ không phải làm gì tương đối nữa: họ không ở trong thế giới này nữa. Tuy nhiên ngày nào họ còn hiện thân và bước trên mặt đất này, chắc chắn họ cần phải là những con người dễ mến, lành mạnh… Tại sao làm tổn hại những người khác, họ cũng giống như chúng ta?

62

Nếu bạn muốn vào một ngôi nhà, bạn cần đi qua một cửa lớn. Dĩ nhiên vào lúc bắt đầu, quả thực là bạn cần đi qua một cửa lớn, nhưng sau khi bạn hiểu về nhà cửa, bạn thấy có những lối khác để vào, như những cửa sổ, ống khói lò sưởi… Nhưng chúng ta chắc chắn còn dùng cửa lớn trong hầu hết trường hợp, dù chúng ta không nhất thiết phải giới hạn trong cách vào ấy. Tương tự, đã hiện thực được Rigpa, chân lý tuyệt đối, người ta vẫn thường tiếp tục hoạt động trong thực tại tương đối, thể hiện trong một phong cách lành mạnh, hợp lý và bình thường, sống có đạo đức, hành động một cách từ bi v.v… Tại sao chúng ta không như vậy nhỉ? Đức Khyentse Rinpche nói, “Khi bạn thực sự hiểu chân lý tuyệt đối của tánh Không, bạn hiểu những vận hành của nghiệp ở cấp độ chân lý tương đối. Cái gì khác làm chuyển động mọi chuyện đâu?” Đại viên mãn giống như cái chìa khóa mở vào bầu trời, một không gian mở khắp bao trùm không gian trong tòa nhà; lòng tin và sự sùng mộ thì cũng giống như chìa khóa mở cửa. Không gian bên trong và bên ngoài tòa nhà cả hai đều giống như sự mở khắp bao la, “tử tế” của bản thân Rigpa, nhưng ban đầu để đi vào, có lẽ cần có chìa khóa. Hơn nữa phần đông chúng ta thường cần sống trong một ngôi nhà, dầu cho thực sự nó chỉ là một ý niệm do ai đó dựng nên một lúc nào sau thời kỳ người-vượn. Bạn có thấy như thế nào chúng ta không thể từ chối phương tiện của những cơ cấu ý niệm, dù cho chúng là một cái gì giới hạn? Trong thí dụ này, chìa khóa có vẻ như khác với ngôi nhà; nhưng để vào một ngôi nhà khóa cửa, người ta cần một chìa khóa. Niềm tin và sùng mộ thì giống như cái chìa khóa cho ngôi nhà này, lâu đài bao la của Đại viên mãn bổn nhiên. Một khi người ta thực sự ở trong nhà, người ta biết ngôi nhà là gì và có thể hưởng thụ nó theo nhiều cách khác nhau. Bồ đề tâm quý báu, niềm tin, sự sùng mộ, lòng bi vô giá và mọi thực hành tương đối là hữu ích và trợ giúp phi thường cho sự chứng ngộ tuyệt đối được gọi là Đại viên mãn; tất cả những vị Kim Cương Sư đều đồng ý về điểm cốt yếu này. Mọi phương diện này của những cấp độ tương đối và tuyệt đối của thực tại thực sự liên kết với nhau một cách bất khả phân. Sự chứng ngộ tối

63 hậu, hay phương diện tuyệt đối của Bồ đề tâm, là Đại viên mãn, Rigpa, như lai tạng, hay Phật tánh. Đây là tòa nhà vĩ đại, chỗ ở tối hậu chúng ta đang nói. Trong lúc ban đầu người ta có thể quan niệm ra những chìa khóa, và cửa lớn, cửa sổ, trần, tường… Nhưng sau khi đã an trụ trong đó, nó cũng giống như hòn đảo ngọc thần thoại, đó là kinh nghiệm về cái Rigpa bẩm sinh nguyên thủy này. Dầu người ta có tìm kiếm trên hòn đảo huyền thoại ấy, người ta không thể nào tìm thấy chút nhỏ nào là đá, sỏi, hay rác rến. Tương tự, trong cảnh giới bao la của Rigpa, mọi tư tưởng và cảm giác chỉ được thấy như sự phô diễn của Pháp thân. Người ta không thể tìm đâu ra một chút tư tưởng hay thấy biết nhị nguyên. Tòa nhà không thể nghĩ bàn hay đô thị của Rigpa giống như một ngôi nhà vĩ đại và trống không. Nó không cần phải khóa, bảo vệ, củng cố hay giữ gìn, bởi vì những tư tưởng nhị nguyên như những tên trộm không có gì để đánh cắp. Namtok có thể đến và đi như nó muốn, bởi vì ở đây ở đây không có gì để cầm giữ, không có gì để mất, không có gì để bảo vệ. Đúng thế! Emaho! Thật kỳ diệu!

Mọi sự là bản tánh của Đại viên mãn Dzogchen. Bạn là Đại viên mãn – Dzogchen bổn nhiên. Không có cái gì để được hay mất. Đây là bản tánh hay trạng thái của Phật tánh nguyên sơ, Samantabhadra (Phổ Hiền), nghĩa đen là Trọn Hảo. Mọi sự đều ô kê, mọi sự đều tốt đẹp, cái gì cần phải làm đã được làm xong rốt ráo. Vị tổ giác ngộ và người giữ dòng Đại viên mãn Long-chenpa, ngài là Phật nguyên thủy Samantabhadra trong hình thức con người, đã giải thích rằng có năm đại viên mãn trong Đại viên mãn sáng ngời. Ngài nói rằng sanh tử xưa nay là Samantabhadra viên mãn; niết bàn xưa nay là Samantabhadra viên mãn; mọi thấy biết và hình tướng hiện tượng xưa nay là Samantabhadra viên

64 mãn; bản thân tánh Không xưa nay là Samantabhadra viên mãn; và mọi sự là Phật Samantabhadra bổn nguyên. Emaho! Kỳ diệu! Đấy là vì sao Samantabhadra bật lên mười hai cái cười kim cương nổi tiếng của ngài – cái cười vũ trụ, một bùng nổ của niềm vui thanh tịnh. Saraha cũng hát một bài ca như vậy, nhảy múa cuồng loạn và vung vẫy đôi tay, nói rằng mọi sự là “Cái Ấy.” Saraha hát, “Trong mười phương thế giới, bất cứ tôi nhìn chỗ nào, không có cái gì ngoài Phật bổn nguyên này, ngài không tay không chân, và thuần túy là một bầu vô biên và sáng tỏ.” Cũng trong bài ca đó, Saraha hát, “Giờ đây công việc của chúng ta đã chấm dứt trọn vẹn, chúng ta không có gì để làm và có thời gian để làm bất cứ thứ gì chúng ta muốn.” Đây là sự nhảy múa và bài ca tối hậu tự thân chúng ta cần hát. Khi sự thực hành tâm linh là đích thực, nó có thể là bài ca của bạn, sự nhảy múa của bạn, và thực tại của bạn – thực tại của chúng ta. Cái chúng ta cần là cái mà chúng ta vốn đã nhận được, nó vừa vặn với lòng tay của chúng ta. Xin hãy yêu quý nó, giữ gìn nó đúng ở chỗ nó đang là ngay lúc này. Nó là đang cùng với bạn, là bất cứ cái gì bạn đang mong ngóng, ước ao, cần thiết; nó đang cùng chúng ta, và là chúng ta. Dù có nhiều ngàn bình giải, kinh điển và giáo lý đầy ắp những sóng điện âm thanh, tinh túy của chúng là sự nhận biết bản tánh chân thật của tâm thức chúng ta, và sự thực hành hay hiện thực hóa cái ấy. Những người Thiên Chúa giáo có một bộ sách tốt đẹp và khổng lồ là Kinh Thánh, và trong Kinh Thánh có Cựu Ước và Tân Ước và hơn nữa có nhiều tủ sách bình giải từ khi Kinh Thánh mới ra đời. Hai phần Kinh Thánh này có mặt ở Tây Tạng vào thế kỷ mười chín bằng một bản dịch của những nhà truyền giáo Jesuit. Trong Ấn Độ giáo có những kinh Veda, Upanishad, Bhavagad Gita v.v… Nhiều kinh điển và bình giải rực rỡ, nhiều loại trong đó đã được dịch rất tốt ra tiếng Tây Tạng hơn ngàn năm qua. Kinh Koran cũng có đầy đủ một số trang, và nhiều tác phẩm khác hơn ngàn năm qua đã được lấy từ nguồn gốc ấy. Ngoài những truyền thống tôn giáo và tâm linh của thế giới, có rất nhiều sách, triết học, khoa học, tâm lý học, quan điểm chính trị

65 và những thứ thích thú để dọc và nghiên cứu và suy nghĩ, nhiều như vô số lá trong rừng. Nhưng dù người ta biết tất cả các thứ đó hay không, nếu và khi người ta khám phá và nhận biết trí huệ tánh giác bổn nhiên, thật tánh của tất cả mọi sự – gọi là Đại viên mãn hay là Phật tánh – đấy mới là tâm của vấn đề, cái mà tất cả mọi người cần. Đó là thứ thuốc trị muôn chứng có tầm mức vũ trụ, nó chữa lành mọi bệnh, giải quyết tất cả mê vọng và nghi ngờ, và nó giải thoát và tự do một cách toàn triệt. Mười bảy Tantra Dzogchen giống như những kinh điển của Phật nguyên thủy. Một Tantra chính gọi là Kunshi Gyalpo Gyu, Tantra Chủ Quyền Tối Cao Của Mọi Hoạt Động. Nếu người ta hiểu ý nghĩa của Đại viên mãn Dzogchen, chỉ nghe nhan đề của một tantra như vậy là đủ giải thích mọi sự: chỉ có một cái tối thượng vĩ đại, bậc làm chủ của mọi hoạt động – dĩ nhiên ám chỉ đến Rigpa hay Phật tánh, bản tánh bổn nhiên của mọi người. Ý nghĩa và giá trị độc nhất của sự thực hành là thấu hiểu, nhận biết và thực sự kinh nghiệm một cách sâu xa bản tánh chân thực của mọi sự. Nếu bạn thực sự muốn nghiên cứu và nghe về Đại viên mãn, có nhiều tác phẩm: có bộ ba nổi tiếng của Longchenpa, được Guenther dịch thành Tác Phẩm Bộ Ba Của An Nhàn Và Thong Dong, và một bộ ba sâu xa khác của ngài, Rangetrol Kozsum, chưa được dịch; Bảy Kho Tàng của Longchenpa; nhiều bài ca kim cương của Rigdzin Jigme Lingpa, gồm Yonten Dzod rất thấu đáo và nhiều tác phẩm thú vị của con người lang thang giác ngộ đầu thế kỷ Patrul Rinpoche, và vị đồng thời với ngài là Lama Mipham. Gần đây hơn, vị lãnh đạo vĩ đại quá cố của Nyingma, Đức Dudjom Rinpoche, vị thầy yêu quý của chúng ta, đã trang hoàng cho thế giới này với nhiều bài thơ, tác phẩm và bản văn-kho tàng giác ngộ của ngài. Có cả một toàn thể vũ trụ những cái như vậy; chúng ta rất may mắn được tiếp xúc với chúng.

66

Chúng ta cũng may mắn trong việc không phải đọc tất cả các tác phẩm ấy. Những kinh điển, lời dạy và thực hành không phải là đường lối tối hậu, chúng là những suy nghĩ về nó. Ý nghĩa thực sự của Đại viên mãn là tự tánh của bạn, chứ không phải là cái gì bạn cần tìm ở ngoài. Chân lý không có trong sách, nó chỉ được diễn tả trong sách. Nó không phải như thức ăn phải được ăn vào và đến từ bên ngoài. Giáo pháp không giống như thực phẩm, nó chỉ có thể thỏa mãn cơn đói tạm thời; chứng ngộ bản tánh tối hậu thực tại bên trong là sự đáp ứng thực sự lâu dài và thỏa mãn tối hậu. Bản thân Đại viên mãn là Tam Bảo. Nó là tự tánh bổn nguyên của thân, ngữ và tâm của chúng ta: ba thân hay những thân Phật. Hãy để cho nó an nghỉ trong thong dong tự nhiên, thong dong vô tư, tự nhiên và bình an với mọi sự. Không cần tập trung nhất niệm vào đối tượng nào, hay phân tích và cố gắng hình dung hay tìm hiểu sự vật. Những cái ấy chỉ là nền móng sơ khởi cho những người sơ học, nếu đứng trong ánh sáng của loại thực hành tuyệt đối, bất nhị này. Một khi bạn đã được giới thiệu vào thật tánh của bạn, và đã nhận biết nó, bạn có thể thực sự bắt đầu thực hành Đại viên mãn. Bởi thế, hãy ở trong sự thong dong bao la bẩm sinh, mở ra với mọi sự, tỏ biết bản thân cái tỉnh thức bẩm sinh, trạng thái tự nhiên nơi mỗi người. Một trong những cuốn sách hay nhất của Longchenpa toàn giác là Semnyi Ngalso, Sự An Lạc Thong Dong Tự Nhiên Của Tâm. Điều này ám chỉ sự an lạc thong doang bẩm sinh, chẳng phải là thành phẩm của những cố gắng và ráng sức khác thường. Semnyi Ngalso cũng là tên đặt cho tư thế thiền định đặc biệt của ngài, với tay trên đầu gối và cái nhìn thẳng tự nhiên. Nếu bạn muốn nghiên cứu tất cả tác phẩm của Longchenpa, hãy nghỉ ngơi trong sự an lạc thong dong lồng lộng bẩm sinh của tư thế này: điều này làm trọn vẹn sự nghiên cứu của bạn. Hãy thưởng thức Đại viên mãn bổn nhiên, nó là của tất cả các bạn.

67

4. Nền Tảng, Con Đƣờng và Quả Những chỉ dạy Bản Tánh Tâm về Tri Kiến, Thiền Định và Hành Động của Dzogchen, Đại Toàn Thiện Vốn Sẵn Đủ. Kết tập bởi Surya Das với Nyoshul Khenpo

Kính lễ Phật bổn nguyên Samantabhadra, đức Phật bên trong! Kính lễ đạo sư toàn trí Gyalwa Longchenpa! Phật tánh, tinh túy của bản thân giác ngộ, hiện diện nơi mỗi chúng sanh. Tinh túy của nó là mãi mãi thanh tịnh, không pha tạp, không nhiễm ô. Nó siêu việt khỏi tăng và giảm. Nó không hề hoàn thiện hơn khi trụ trong niết bàn cũng không thoái hóa khi lạc vào sanh tử. Tinh túy nền tảng của nó là mãi mãi toàn thiện, không bị che chướng, an định và bất biến. Sự biểu lộ của nó thì vô số. Những ai nhận biết thực tánh của họ thì giác ngộ, những ai không biết hoặc lầm qua nó là mê mờ. Không có cách giác ngộ nào khác ngoài việc nhận biết Phật tánh và hoàn thành sự an trụ trong đó, gồm nhận ra nó một cách đích thực trong dòng hiện sinh của chính mình, và tu hành trong sự nhận biết rõ ràng chính xác ấy chỉ đơn giản qua việc duy trì sự tương tục của nó, không thoái hóa cũng không tạo tác. Mọi thực hành và mọi con đường đều quy về, và được bao hàm, trong điểm cốt yếu này. Sự nhận biết này là lằn ranh phân biệt duy nhất giữa chư Phật và chúng sanh. Đây cũng là những ngã rẽ lớn nơi chúng ta luôn luôn thấy mình mỗi một phút giây của cuộc đời mình. Lịch sử huyễn hóa của sanh tử và niết bàn bắt đầu ở đây và bây giờ; và cũng chính ở đây và bây giờ, khoảnh khắc của Dzogchen, Đại viên mãn vốn sẵn đủ, hiện tiền siêu việt khỏi quá khứ, hiện tại và tương lai, có vẻ giống như một khoảnh khắc vĩnh cửu của cái thời gian không-có-thời-gian. Đây là cái chúng ta gọi là “thời

68 gian thứ tư”: thời gian không-có-thời-gian, siêu vượt ba thời, cái khoảnh khắc không thể diễn tả của hiện diện xuất thần thanh tịnh hay tỉnh giác toàn diện, tánh Giác Rigpa. Rigpa- hiện thể nguyên sơ vốn đã giác ngộ, tánh giác vốn sẵn đủ tự do, vô ngại, toàn hảo và bất biến. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhận biết nó trong chính hiện thể chúng ta nếu nó chưa thực sự được chứng ngộ. Rigpa là sự chia phần Pháp thân của riêng chúng ta. Những ai nhìn trượt qua nó thì đã bỏ quên thực tánh vốn có của mình. Làm nô lệ cho khổ đau, nghiệp và lầm loạn, chúng ta phải nhận biết Rigpa để hiện thực hóa cái tiềm thể toàn khắp của chính chúng ta, cái niềm vui, an bình thiêng liêng và sự tự do của chính giác ngộ. Dilgo Khyentse Rinpoche quá cố đã nói rằng những đại yogi và đệ tử giác ngộ không mong muốn và cần thiết gì hơn là sự chứng ngộ bản tánh nền tảng của chính tánh Giác vốn sẵn đủ. Padampa Sangye, vị thành tựu giả Ấn Độ thời trung đại đem những giáo lý Bát Nhã Ba La Mật Shijey và Chošd đến Tây Tạng, nói rằng mọi ước mong và nguyện vọng có thể được thành tựu trọn vẹn trong “trạng thái tự nhiên.” Emaho! Chớ bỏ qua điều này! Phật nguyên sơ Samantabhadra (Phổ Hiền), nhân cách hóa của Rigpa, là Phật Pháp thân vô tướng ở cội nguồn của những giáo lý Dzogchen và dòng phái, không bao giờ lạc vào suy nghĩ nhị nguyên, và vẫn y nguyên tự do và toàn thiện trong sự phô diễn không cùng của những hình tướng thanh tịnh, sự trình diễn này là cõi thanh tịnh hay là cõi Phật của ngài, ôm trọn sự không thể phân chia của mọi sự trong cả sanh tử lẫn niết bàn. Tuy nhiên, bị mê lầm bởi những vọng tưởng và hình tướng, chúng sanh rơi vào tư tưởng nhị nguyên và bám vào ảo tưởng của chủ thể và đối tượng, như thế họ bị dẫn dắt vào đại dương đục ngầu của những hình tướng bất tịnh, đó là sự hiện hữu bị quy định. Tri giác sai lầm cái tỉnh giác vốn sẵn đủ, tự hữu, không thể diễn tả của tánh giác bổn nhiên thành ra một cái ngã hay linh hồn cố định, cái hiện hữu cá nhân, ích kỷ của bản thân chúng ta và rồi chúng ta

69 tự mắc vào và tự trói mình từ thời gian này qua thời gian khác mà thời gian thì không có lúc chấm dứt. Vô minh là nguyên nhân duy nhất khiến lang thang trong sanh tử. Chư Phật biết và hiểu cái mà chúng sanh bình thường không biết, vô minh, hiểu lầm và nhìn trượt qua: bản tánh bổn nguyên chân thật của mỗi người và của tất cả. Đây là sự phân biệt duy nhất giữa chư Phật và chúng sanh. Tulku Urgyen Rinpoche nói: “Sự mê lầm khởi lên trong… con đường có thể tan biến. Khi chúng ta tẩy sạch những vết bẩn tạm thời khỏi tánh giác Rigpa bổn nhiên, chúng ta trở thành giác ngộ trở lại thay vì vốn đã giác ngộ. Việc này được hoàn thành bằng cách theo lời chỉ dạy của một bậc thầy đầy đủ phẩm chất.” Theo giáo lý tánh Không của Đại thừa, mọi sự vật là trống không và khai mở thông suốt tự bản chất, gồm thân và tâm và tất cả những hiện tượng bên ngoài. Mọi sự đều vô ngã, không có chủ thể, không xác thực và vô thường. Chúng hoàn toàn không có tự hữu độc lập hay thực thể cá nhân thường tại. Cái hiểu tánh Không tuyệt đối này đạt được bằng sự hiểu rõ vô ngã thật sự, nó có nghĩa là sự không hiện hữu của cái ngã cá thể biệt lập và sự không hiện hữu của cái ngã vĩnh viễn của những hiện tượng. Không có cái gì có thể được xác nhận như là có hoặc không, không cả hai thứ vừa có vừa không, không cả hai thứ vừa không có vừa không không. Đây là tiếng rống sư tử sâu xa của Nagarjuna và các đệ tử của ngài, họ thể nghiệm triết học Trung Đạo của Madhyamika, giáo lý tối thượng về tánh Không. Nhưng có hay không một cái biết, hiện diện trong tất cả sự rỗng rang và trống không này, một sự sáng tỏ sống động hay một thức giác sáng soi hoạt động một cách không thể chối cãi ngay lúc này và khắp cả mọi hiện hữu của chúng ta? Điều này bởi vì tinh túy trống không của tâm, nó thực sự không là gì khác hơn pháp thân (thân vô tướng của chân lý tuyệt đối), tự bản chất là sáng soi, thức giác, tỏ biết (nó là báo thân, tịnh quang hay năng lượng tỏa

70 sáng), tuy nhiên biểu lộ rõ ràng không chướng ngại như vô số diễn đạt của lòng bi năng động (hóa thân hay tulku, thân hình sắc của hoạt động giác ngộ). Hiểu như thế, có phải rõ ràng ba thân là không thể phân chia và vốn sẵn có trong tự tâm mỗi người? Cầu Nguyện về Nền Tảng, Con Đường và Quả của Mipham Rinpoche nói: Hiện diện từ vô thủy, nó không dựa vào sự tu tập, Cũng không dựa vào những cái khác như ngoài khả năng của con người. Nguyện rằng điểm cốt yếu này về bản tánh của tâm, khó tin vì có vẻ quá dễ dàng, Được nhận biết qua thần lực của những lời chỉ dạy của đạo sư. Nguyện chúng ta được hoàn thiện một cách tự nhiên trong bản tánh của không-hành, vượt khỏi hành và không hành.

Phật tánh tỏa khắp trong tất cả chúng sanh. Khi trí huệ của Đại viên mãn được chuyển giao cho một người, nó không kể đến người ấy có tâm trí bén nhạy thông minh hay không. Tại sao thế? Bởi lẽ cái ngăn cản chúng ta chứng ngộ Đại viên mãn không phải vì cái Đại viên mãn này là một cái gì vốn khác biệt hay xa xôi. Nếu chúng ta không thể thấy mí mắt của chính mình thì không phải bởi vì nó ở xa như một trái núi đằng xa kia. Nó quá đỗi gần, nhưng khó thấy. Cũng như vậy là bản tánh của tâm thức.

71

GẶP GỠ RIGPA

Làm thế nào chúng ta có thể được giới thiệu vào một bản tánh như vậy? Nếu chúng ta ở trong một trạng thái nơi đó chúng ta không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng của quá khứ, chúng ta không mời gọi những tư tưởng của tương lai, và chúng ta không bị quấy rầy bởi những tư tưởng hiện tại. Trong khoảnh khắc tươi mới của giây phút hiện tại, đó là một trí huệ thoát ngoài mọi ý niệm. Chúng ta cứ an trụ trong trạng thái này mà không rơi vào hôn trầm, không cho phép tâm thức chúng ta tự động rút lui hay đi lang thang đến những đối vật bên ngoài. Như Jetsun Milarepa nói, giác ngộ nằm trong chính ngay khả năng nhận biết trí huệ vô niệm, khoảng không gian giữa những tư tưởng. Nhưng chỉ thoáng thấy trí huệ này thì không đủ: chúng ta cần hoàn thành sự kiên cố và vững chắc. Dầu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, họ giống như con nhỏ của một vị vua, một hoàng tử mới sanh. Trong bản chất nó có một dòng máu vương giả, nó được chỉ định làm một vị vua, tuy nhiên nó chưa có đủ tất cả những khả năng cai trị đất nước, bảo vệ thần dân, đánh bại những kẻ thù hay khả năng cầm quyền. Chính sự dạy dỗ của một vị thầy sẽ sẵn sàng giúp đỡ: trước hết chứng ngộ cái thấy, tri kiến của Đại viên mãn; thứ hai, hoàn thành sự khéo léo và hoàn thiện nó; và thứ ba, hoàn thành sự vững vàng hoàn hảo trong cái chứng ngộ ấy. Chúng ta không nên trông chờ chứng ngộ tức thời. Jetsun Milarepa nói, “Chớ trông chờ quả, mà hãy thực hành đến khi chết.” Lúc bắt đầu chúng ta nên thường thực hành trong những thời kỳ ngắn. Niềm tin chắc vào cái thấy của chúng ta sẽ dần dần tăng trưởng. Một lúc nào xác tín sẽ sinh ra bên trong. “Chủ thể” kinh nghiệm sự thực hành sẽ biến mất. Khi sự chứng ngộ đã hoàn toàn bừng nở, chúng ta sẽ trở thành giống như Longchen Rabjam Rinpoche toàn giác. Chúng ta nên mong mỏi thấy được

72

điểm tan biến của những tư tưởng, bởi vì sự chứng ngộ của guru sẽ đi vào qua đó, và hòa lẫn với chúng ta. Lama Mipham cầu nguyện: Đẽo gọt hay kiểm tra thì không gì hơn là gia thêm những ý niệm. Cố gắng hay trau dồi chỉ là tự làm kiệt sức mình. Tập trung hay thiền định chỉ là một cái bẫy để vướng mắc hơn. Nguyện những tạo tác không thỏa mãn ấy được cắt tiệt từ bên trong.

Chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt được sự tra cứu trí thức. Tra cứu trí thức giống như một con chim nhỏ bay lên từ một chiếc tàu trong biển cả, cố gắng tìm giới hạn của bầu trời. Bầu trời thì quá rộng, và cánh chim quá mệt mỏi, đến độ con chim nhỏ không thể có sự lựa chọn nào khác ngoài việc trở lại chiếc tàu. Cũng thế, nếu chúng ta dấn mình vào những tạo tác tâm thức, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được chỗ chấm dứt cho chúng. Chúng ta sẽ chỉ làm mệt chính chúng ta. Cái thấy không phải là cái gì dính mắc với những đối tượng, những biểu tượng hay những mục tiêu nhắm đến. Nếu có những thứ mục tiêu hay ý tượng, là có bám chấp. Có nói, “Nếu có bám chấp thì không có cái thấy.” Một cái thấy trộn lẫn với bám chấp và ý tượng không thể gọi là Đại viên mãn. Nếu chúng ta có những ý niệm chúng ta sẽ đặt hình tướng ở một bên và tánh Không ở bên kia và không cách nào chúng ta đến gần sự chứng ngộ tâm của Phật, sự không tách lìa của tánh Không và những hình tướng, thoát khỏi mọi điều kiện. Theo cách ấy chúng ta tự làm kiệt sức mình khi tìm kiếm những phương pháp và những thực tập tạo tác khác nhau. Chúng ta tự làm kiệt sức mình theo ba cách: Chúng ta tạo ra những chế tạo như những ý niệm tâm thức. Chúng ta làm một số nỗ lực. Chúng ta tạo ra nhiều đối tượng hay mục tiêu

73 trong tâm chúng ta. Ba sự việc này thực sự làm chúng ta mệt nhọc. Ấy cũng như một con côn trùng bị mắc vào một lưới nhện: càng vùng vẫy hoạt động, nó càng bị mắc vào mạng lưới. Điều này gây ra cái khổ thực sự, sự hành hạ thực sự cho tâm thức. Nếu chúng ta quyết định không cần kiểm nghiệm đẽo gọt gì, không cần cố gắng nào, và không cần mục tiêu nào cả, chúng ta sẽ có thể lưu lại trong một trạng thái bao la như bầu trời. Đây là bản tánh tuyệt đối, trong đó người ta thoát khỏi cái gì được thấy và một chủ thể đang thấy. Đây là cái thấy, sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên của mọi sự. Lama Mipham viết: Khỏi ngoài tư tưởng hay diễn tả, không có một vật gì được thấy. Tuy nhiên không có cái gì vượt ngoài để được thấy. Đây là ý nghĩa sâu xa quyết định của tự tâm. Nguyện bản tánh này, rất khó minh họa, được chứng ngộ.

Như thế có cần làm gì để thấu hiểu Đại viên mãn tự nhiên, nếu nó thoát khỏi mọi ý niệm, mọi nỗ lực và ý tuợng? Kinh Bát Nhã Ba La Mật nói, “Trí huệ hoàn thiện (ba la mật) thì vượt khỏi tư tưởng.” Không nên ý niệm nó, vì nó không thể ý niệm và không thể diễn tả. Chân lý tuyệt đối không phải là cái gì tâm thức của người bình thường có thể nắm bắt. Để chỉ nó cho chúng sanh trong một cách tương đối, Phật đã nói rằng bản tánh trống không giống như hư không, trong khi sự biểu lộ tỏa sáng của nó thì giống như mặt trời. Những thật ra, ngay cả một vị Phật cũng không thể giải nói trọn vẹn bản tánh của tâm; không có ngôn ngữ hay ví dụ để giải thích nó. Nó rốt ráo vượt khỏi tâm thức tương đối của con người. Nhưng nó không phải là cái gì chưa từng hiện hữu trước đó, như một sự vật gì mới mẻ xuất hiện lần đầu.

74

Khi chúng ta thoát khỏi mọi thứ ý niệm hóa và chế tạo của tâm thức, chúng ta có thể thấy bản tánh này. Khi Karma Chagme Rinpoche chứng ngộ bản tánh tuyệt đối, Mahamudra, ngài nói với bạn ngài, “Đây là cái gì đã ở với tôi từ bao đời nay. Nó là cái tôi đã biết từ bao giờ. Làm sao có thể không nói rằng nó chính là bản thân Đại Ấn?” Khi chúng ta thấy thực tánh ở trong chúng ta, không có gì nữa để thấy, không có gì nữa để tìm kiếm trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: Nhìn tâm: Tâm không hiện hữu, Sự biểu lộ của nó là tánh sáng tỏ.

75

NỀN TẢNG, CON ĐƢỜNG VÀ QUẢ

Trong Những Bài Kệ Kim Cương về Bản Tánh Tuyệt Đối, Rigdzin Jigme Lingpa hát: Dầu nếu một trăm nhà thông thái và hàng trăm thành tựu giả tuyên bố rằng cái thấy này là sai lầm, Trong đây không có gì được thấy để bác bỏ, Cũng không có gì để giữ gìn hay thiết lập. Nguyện trạng thái nầy của pháp tánh, không suy suyển bởi chấp nhận và bác bỏ, Được thấy biết là bản tánh hiện tiền một cách tự nhiên. Dầu thật tánh được chia thành “nền tảng để biết,” “Con đường để đi,” và “quả để đạt đến,” Ba cái này chỉ giống như những mức độ trong hư không. Nguyện chúng ta an trụ tự nhiên trong bản tánh của không-hành.

Trong thực tế, trong cách thức mà những sự vật thực sự là, từ vô thủy những phẩm tính của tinh túy Phật tánh. Như Lai tạng - Tathagatagarbha là hoàn toàn sáng ngời không cải biến, không mất một chút gì. Chúng đang hiện diện trong mỗi một chúng sanh. Trên con đường, tinh túy Phật tánh này không hề biến đổi: nó không tăng, không giảm. Nó không chịu bất kỳ sự biến cải nào. Lại nữa về quả, cái tinh túy Phật tánh này cần được thấu hiểu, chứng ngộ thì vốn đã thành tựu toàn hảo. Không có gì để thêm vào cho nó. Không có cái gì

76 hơn nữa mà một vị Phật đã khám phá. Thật vậy, từ quan điểm cách thức những sự vật thật sự là, không có lý do gì để phân biệt thành những địa hay cấp độ khác nhau. Không hề có những cái như là một điểm khởi hành, một con đường, và một đích đến. Mọi thứ này cũng giống như nhìn vào hư không và cố gắng thấy những phác họa, những cấp độ hay những giới hạn khác nhau trong đó. Chúng ta có thể tạo ra những hình dung này một cách trí thức, nhưng trong thật tế không thể có một phân chia vụn vặt nào trong hư không. Nếu chúng ta nói, “Đây là đỉnh của hư không, và đây là đáy của hư không,” thì đấy vẫn là hư không. Thật ra, không có cái gì để làm, thế nên chúng ta vốn ở trong không hành, vượt khỏi hành và không hành. Chúng ta đã vốn là bản tánh bất biến, toàn thiện này, vậy thì tại sao phải hoàn thiện chính mình, theo một vị thầy, và đi dài theo con đường? Câu hỏi này khởi lên không tránh khỏi. Nói chung, cái thấy và thiền định của tám thừa là cái gì giả tạo do những chế tạo của tâm thức, nhưng thừa thứ chín, Ati Yoga hay Dzogchen, thì hoàn toàn vượt khỏi hoạt động trí thức. Một bầu trời rộng lớn có thể được xem là trống không hay sáng ngời, nhưng tất cả chỉ là một. Từ phương diện tinh túy, nó vượt khỏi những phân biệt như là cái thấy, thiền định và hành động. Có một “phương diện hình tướng” mà chúng ta có thể gọi là một “cái thấy,” nó là sự tìm thấy tự tánh của mình; một “thiền định,” nó là việc đem mọi sự trở về một điểm hay một niềm tin duy nhất này; và “một hành động,” nó là việc chiếm lĩnh sự xác tín nhờ phương pháp giải thoát những tư tưởng một cách tự nhiên. Lama Mipham viết: Bất cứ cái gì được nhắm vào, là thuốc độc cho cái thấy. Bất cứ cái gì được ôm lấy bằng cố gắng là một lỗi lầm của thiền định. Bất cứ cái gì được lấy hay bỏ là một khuyết điểm của hành động. Nguyện chúng ta thấy biết bản tánh vốn thoát khỏi mọi thiếu sót và giới hạn.

77

Cái thấy này là thế nào? Cái thấy thì hoàn toàn thoát khỏi trụ, bám. Như Văn Thù nói trong một linh kiến với đại sư Sakya Trakpa Gyaltsen, “Nếu có trụ, bám, thì không có cái thấy.” Cái thấy thì hoàn toàn thoát hết mọi điều kiện, ý niệm, và tính cách. Đối tượng, những ý tượng, mục tiêu và ước định thì giống như thuốc độc cho cái thấy. Với những thứ ấy cái thấy không thể thanh tịnh. Nếu người nào ăn uống thuốc độc họ sẽ chết tức thì. Cũng thế, cái thấy bị hư hỏng, dơ nhiễm bởi bám chấp, trụ trước vào duy vật hoặc hư vô. Cái này trở nên một nguyên nhân cho sự lang thang thêm nữa trong sanh tử. Trụ bám theo cách này, chúng ta không bao giờ có thể thoát khỏi sự ràng buộc của bản ngã. Theo Đại viên mãn Dzogchen, nếu người ta dấn thân vào cố gắng, vào trụ bám và nỗ lực cao độ trong thiền định của mình, đó là một khuyết điểm. Người ta cần ở yên trong cái thấy, thiền định và hành động, tự do với mọi tạo tác. Với một thiền giả như vậy, bất cứ điều gì người ấy làm với thân, ngữ, và tâm thức, mọi thứ ngay chỉ một cử động đưa tay trong không khí xảy ra cũng như là sự phô diễn của tánh giác. Vì lý do này, không cần thiết cho một người giác ngộ phải trau dồi những hạnh lành hay bỏ đi những hạnh xấu. Bất cứ điều gì người ấy làm đều trong sự diễn xuất của trí huệ. Cảnh giới tuyệt đối không bao giờ bị nhiễm ô hay giới hạn bởi ý niệm như Niết bàn và sanh tử hay có và không. Chúng ta phải giác ngộ như Phật nguyên thủy Phổ Hiền Samantabhadra, bậc đã giác ngộ trong nền tảng bổn nguyên. Ngoài cái nền tảng Phật tánh tối sơ này, phải khó khăn rắc rối cho chúng ta khi cố gắng thành tựu một trạng thái tâm linh mà chúng ta đã luôn luôn có sẵn. Chúng ta đang có tâm Phật ở trong, thế nên không cần gì đến mọi thứ khó khăn ấy; chính như khi người ta đã ở nơi tòa Kim cương ở Bodhgaya tại Ấn Độ, người ta không cần gì phải chịu đựng những hành trình khó khăn trải qua những hoàn cảnh nhọc nhằn với mục đích đạt đến đó. Phật nguyên thủy, những Vidyadhara vĩ đại, và mọi người thành tựu giác ngộ, chỉ hiện thực hóa những phẩm tính luôn luôn đã có, các vị không tạo thêm các phẩm tính nào mới.

78

Trong thực hành những lời dạy cốt lõi, điều chúng ta thực sự cần là được giải thoát do nhận biết tánh giác của chính chúng ta, bản tánh tối hậu của chính cái đang là. Điều ấy không đến qua cái gọi là những lời dạy bí mật và những giáo huấn cốt lõi tìm thấy trong sách. Tám thừa đầu đưa chúng ta dọc theo con đường bằng cách làm việc với tâm thức: không có cái nào trong những thừa này lấy chính trí huệ như con đường. Dzogchen lấy chính trí huệ làm con đường, và bởi thế nó không có biểu tượng và đối tượng thực sự nào. Chúng ta cần sử dụng trí huệ như con đường, chứ không dùng chỉ những chế tạo của tâm thức chúng ta. Bởi vì bất cứ cái gì dính dáng đến tâm thức đều tự động dính dáng đến vọng tưởng mê lầm, đến sự chấp bám giữa chủ thể và đối tượng. Lama Mipham viết: Bởi vì pháp tánh không được chế tạo và không duyên hợp, Thì không có cái gì mới để đạt được qua con đường của những tạo tác, Nguyện bản tánh của quả tối hậu, nó không kết thành từ một nhân, Được thấy biết là vốn hiện diện từ nguyên thủy trong chính mình. Hiện diện và tỉnh giác một cách sống động, thoát ngoài những ý niệm, qua sự tự tỉnh niệm thường trực, nhận biết mọi sự dưới mọi hoàn cảnh và điều kiện bất kỳ dù chúng ta ở nơi đâu như là trò phô diễn huyễn hóa của Rigpa; thấu suốt qua mọi sự và không hề rơi vào làm mồi cho chấp ngã, luyến bám và trụ trước nhị nguyên, cũng không mắc vào những tạo tác của nó như là ba độc (phiền não) và tám vạn bốn ngàn nhiễm ô; như thế chúng ta duy trì ngai vàng bổn nhiên của chúng ta, như đấng giác ngộ nhân cách hóa của tánh giác vốn sẵn đủ, Samantabhadra. Ngược lại, bị lừa dối bởi trò phô diễn huyễn hóa tự nhiên vô ngại của chính tánh giác vốn sẵn; bị lầm lạc bởi vô minh và rơi vào nhị nguyên chủ thể và đối tượng; như thế chúng ta thoái vị khỏi ngai vàng bổn nhiên của chúng ta, và như đứa con hoang đàng trong Kinh thánh, quên mất chúng ta là ai, là cái

79 gì, để lang thang không dứt như những con chó lạc đường trong những cánh đồng không cùng của hiện hữu sanh tử. Cái may mắn vĩ đại gặp được một đạo sư đích thực giác ngộ thì cũng giống như được nhận và được giới thiệu vào cái thấy tối hậu nơi tất cả hiện tượng của sanh tử và niết bàn đều hoàn thiện và viên mãn trong tánh giác Rigpa. Chúng ta được giới thiệu lại với chính chúng ta, như đứa con hoang đàng được phục hồi địa vị đích thực là hoàng thái tử kế vị vương quốc của cha mình, vượt khỏi sự nghi ngờ hay bàn cãi. Một khoảnh khắc của tỉnh giác toàn triệt, sự nhận biết Rigpa, là đã đủ: Tantra Manjushri-namasamgiti nói, “Trong một phút chốc, sự nhận biết toàn hảo, trong một khoảnh khắc, sự giác ngộ trọn vẹn.” Tâm trí huệ của tất cả chư Phật, cái tỉnh thức bẩm sinh, thì vốn sẵn ngay nơi bản tánh của chúng ta dù nó tạm thời che ám bởi tưởng niệm. Tâm Phật vốn sẵn có như kim cương, Rigpa phát lộ nơi khoảnh khắc tâm nhị nguyên tan biến và tánh giác bất nhị mọc lên trần trụi, nó không gì khác hơn Pháp thân không nhiễm ô và xưa nay thanh tịnh. Đây là Phật đích thực, Phật bên trong. Không có Phật lìa khỏi tự tâm mình, như Milarepa và những thành tựu giả thường hát tụng. Sự khác biệt chính giữa tâm mê lầm và tâm giác ngộ là mức độ chật hẹp và rộng mở. Chân tánh là một và không thể phân chia, nó thì trực tiếp rõ ràng với những người mắt thấy tai nghe, mức độ trong đó mọi cá thể riêng biệt đều rộng mở, tự do và không bị qui định hay ngược lại, cứng rắn, hẹp hòi, gắn chặt, luyến bám và điên đảo nghĩa là hoàn toàn bị qui định bởi những che chướng ngoại sinh, những dấu vết nghiệp quả và những hành động trước kia và những xúc tình và nhiễm ô che ám.

80

BẢN TÁNH TỐI HẬU CỦA TÂM Sau sự đại tỉnh thức dưới cội cây bồ đề ở Bodhgaya, đức Phật nói rằng bản tánh tối hậu của tâm là hoàn toàn thanh tịnh, sâu xa, tịch tịnh, sáng ngời, không hỗn hợp, không bị quy định, không sanh và không chết, và tự do từ vô thủy. Khi chúng ta khảo sát tâm này cho chính chúng ta, trở nên rõ ràng rằng tính rỗng rang bẩm sinh của nó, sự sáng tỏ vốn có sẵn của nó và phẩm tính tỏ biết của nó là cái được biết như là sự tỉnh thức bẩm sinh, tánh giác bất nhị nguyên sơ: Rigpa. Đây là quyền thừa hưởng của chúng ta, thật tánh của chúng ta. Nó không phải là cái gì thất lạc hay khiếm khuyết để phải tìm kiếm và đạt được, mà là cái cốt lõi nhất của con người hiện sinh bổn nguyên của chúng ta. Nó thật sự không từng tách lìa với sự tỉnh giác tự nhiên mỗi ngày của chúng ta, vượt khỏi sự thoái hóa của muốn và không muốn, tự do với sự hình thành ý niệm: tánh giác bình thường, không tạo tác, không giả tạo, pha tạp, trần truồng, tươi mới bởi cố gắng và sửa sai sống động và hoàn toàn tự nhiên. Cái gì có thể đơn giản hơn nó, ung dung thoải mái trong tánh tự nhiên toàn triệt? Những thừa kinh điển, những giáo lý chứng ngộ của Phật pháp cho rằng sự diễn tả nói ở trên về bản tánh tối hậu của tâm bởi chính đức Phật thì ám chỉ đến niết bàn, hay tâm thức niết bàn. Theo những dòng Kim Cương thừa thực hành của Tây Tạng và đặc biệt theo những truyền thống Đại Ấn (Mahamudra) và Đại viên mãn (Dzogchen), sự diễn tả ấy ám chỉ bản tánh chân thực của tâm, Rigpa, bản thân tánh giác bổn nhiên. Trong ánh sáng này, cái ý niệm “bờ bên kia,” niết bàn là xa biết mấy? Thế nên hãy dẹp đi công việc thiết kế, tạo dựng! Hãy ngưng xây những cây cầu bắc qua những dòng nước dữ dội của sanh tử, toan tính đạt đến “bờ xa kia,” niết bàn. Tốt hơn là đơn giản buông xả, thong dong và vô tư, trong tánh tự nhiên trọn vẹn và tương ứng với dòng sống bổn nhiên, để mặc nó xảy ra và duyên khởi. Và hãy nhớ điều này: dù bạn có tương ứng với dòng chảy hay không, nó vẫn luôn luôn tương ứng với bạn.

81

Nhưng điều ấy không dễ dàng lắm đâu. Trước tiên chúng ta phải nhận biết cái thấy sâu xa này, cái Đại viên mãn vốn sẵn, rồi tu hành nó, rồi đạt đến sự an trụ không lay chuyển trong nó. Đây là con đường của thực hành, hộ trì không xao lãng cái thấy hay viễn cảnh về cái mà người ta đã được đưa vào và người ta đã nhận biết. Chỉ bấy giờ sự chứng ngộ mới có thể dần dần khai mở. Như thế, sự tu hành bao gồm không-thiền-định, không-cố-gắng, và không-xao-lãng, một sự hiện diện rõ ràng của tâm. Tánh thức giác bẩm sinh, trí huệ vô niệm, thình lình bộc lộ ngay khoảnh khắc tâm thức nhị nguyên tan biến. Đó là Tâm Phật - tánh giác bất nhị bổn nhiên. Điều này có thể xảy đến dần dà, qua nghiên cứu, phân tích và thực hành tâm linh, hay đột ngột qua sự gặp gỡ của những nhân và của những duyên, như khi một người học trò đã chín muồi gặp gỡ một vị thầy hoàn toàn chứng ngộ và kinh nghiệm một sự thức tỉnh thình lình không thể giải thích được. Phật tánh thì thanh tịnh, không nhiễm ô, không đẽo gọt, không điều kiện, siêu vượt mọi ý niệm. Nó không phải là một đối tượng của tư tưởng nhị nguyên và hiểu biết trí thức. Tuy nhiên nó phơi mở cho tâm trí, trực giác, sự cảm nhận trực tiếp bất nhị của chính tánh giác vốn sẵn, trước cả ý thức và sự ngược dòng của ý thức. Những che chướng ngoại lai tạm thời che khuất và giống như những đám mây, làm mờ ám bản tánh hay tinh túy của tâm tinh khôi, sáng ngời như bầu trời này và nó cũng được biết như là Như Lai Tạng, Phật tánh. Mọi thực hành quy ước dọc theo con đường tiệm tiến đến giải thoát và giác ngộ đều nhắm làm phát lộ cái trí huệ vốn sẵn này bằng cách cởi bỏ và tiêu trừ những che ám, làm hiển lộ cái vốn đã luôn luôn hiện diện. Đây là mối liên hệ giữa sự vật xuất hiện như thế nào và sự vật thực sự là thế nào: nói gọn, hai cấp độ của chân lý, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối hay quy ước. Tùy theo hai chân lý này, có những cấp độ khác nhau của thực hành. Kiến giải vi tế và sâu xa của Kim Cương thừa nhấn mạnh trực tiếp vào sự nhận biết cái thấy tối hậu, trí huệ vốn sẵn trong chính mình; đây là lối tắt kim cương trứ danh được làm cho sáng tỏ trong những tantra Dzogchen. Sự

82 tiếp cận của những thừa kinh điển khác nhau sử dụng và dựa trên sự tịnh hóa tâm thức nhị nguyên, cho đến khi tâm thức rốt ráo trong sạch và giải thoát khỏi những che chướng và nhiễm ô. Sự tiếp cận của tantra ngay từ khởi đầu dựa vào và sử dụng trí huệ, tánh giác bất nhị, hơn là chỉ tâm thức đơn thuần. Đây là một sự khác biệt cốt yếu. Cái thấy cao cả của Đại viên mãn, thừa tối hậu, là mọi sự vật vốn thanh tịnh và toàn thiện ngay từ khởi thủy. Đây là chân lý tuyệt đối, cái thấy hay tri kiến tối thượng của chư Phật, nó bao hàm rằng không có gì để cần làm hay cần hoàn thành. Đặt nền trên cái nhận biết những sự vật thực sự là thế nào, sự thiền định của Đại viên mãn là không-thiền-định, ở trong cái như thị của cái đang là thay vì làm một việc gì đặc biệt, vượt khỏi hy vọng và sợ hãi, nhận lấy và chối bỏ. Hành động hay cách cư xử của Đại viên mãn lưu xuất từ cái siêu việt ấy, và hoàn toàn là tự nhiên, tự phát, không mục đích và ứng hợp với bất kỳ hoàn cảnh nào nảy sinh. Quả của Đại viên mãn là chính bản thân Đại viên mãn vốn sẵn đủ, không hề tách biệt với khởi điểm đầu hết của con đường nhanh chóng và hiệu quả này: bản thân tánh giác Rigpa, tự tánh chân thật của chính mình. Con người lang thang giác ngộ nổi tiếng, bậc thầy Đại viên mãn của thế kỷ 19 - Patrul Rinpoche hát, “Vượt khỏi hành và không hành, Pháp tối thượng được thành tựu. Thế nên đơn giản hãy hộ trì trạng thái tự nhiên và yên nghỉ tâm thức lao nhọc của con.” Lối sống bần hàn, bi mẫn và những tác phẩm sâu xa của ngài còn được nghiên cứu rộng rãi đến ngày nay, gây cảm hứng cho những hành giả của mọi tông phái và dòng truyền của Tây Tạng. Padampa Sangye nói, “Mọi sự được tìm thấy ở trong trạng thái tự nhiên, thế nên chớ tìm đâu khác.” Phật tánh là trí huệ bên trong tất cả chúng ta, nó không ở đâu khác. Nó hiện là bản tánh nền tảng của tất cả chúng ta, trạng thái bổn nhiên, sự tự do vốn bẩm sinh và là hiện thể không phải tạo tác của chúng ta. Đấy vì sao nó được gọi là trạng thái tự nhiên, Phật tánh vốn sẵn đủ, và tất cả chúng sanh đều sở hữu. Đây là lý do tồn tại của Dzogchen, của Đại viên mãn tự nhiên. Không có cái gì vượt khỏi hay cao hơn cái này. Hãy

83 chứng nghiệm nó, như nó là chính ngay lúc này và mọi sự đều bao gồm trong đó. Tất cả ước muốn và nguyện vọng đều được thành tựu trong trạng thái tự nhiên của tỉnh thức bẩm sinh, đại viên mãn bẩm sinh của chính chúng ta, Dozgchen. Nó thuộc về mỗi một chúng ta. Những đường lối và những tiếp cận khác nhau đặt cho nó nhiều tên khác nhau, tùy theo nó được nhìn như là cái thấy, mục đích, con đường thực hành, nền tảng hay cái gì khác. Chỉ một cái tinh túy không thể diễn tả này được biết với nhiều tên khác nhau như Như lai tạng, Phật tạng, Phật tánh, Rigpa, Cái tỉnh thức tự hữu trống không và tỏ biết, Pháp thân, Bát Nhã ba la mật, Trí huệ siêu việt, Tánh Không hay tịnh quang, tâm Phật, và v.v… Rigpa hay gọi là Shunyata, tánh giác vốn sẵn, sự hiện diện bất nhị, trí huệ bẩm sinh tự hữu hay sự tỉnh thức bẩm sinh thì giống như phần chia cho mỗi cá nhân cái thân chân lý tối hậu và siêu cá nhân, Pháp thân của tất cả chư Phật. Không có cái gì vượt hơn cái này. Chokyi Nyima Rinpoche nói, “Tinh túy giác ngộ thì hiện diện trong tự tâm của mỗi chúng sanh. Đại viên mãn trực tiếp giới thiệu và phát hiện nó thực sự là thế nào, trạng thái tự nhiên không ngăn ngại này. Những giáo huấn cốt lõi chỉ cho như thế nào nó có thể được nhận biết một cách hiển lộ toàn thân ở trong kinh nghiệm riêng của mỗi người. Chúng ghi nhận sự cần thiết lớn lao phải nhận biết nó và sự lợi lạc to lớn khi làm thế, chỉ ra rõ ràng, ngay trong khoảnh khắc này, Phật, trạng thái tỉnh ngộ, không cần phải tìm ở đâu khác như thế nào, mà hằng hằng hiện diện nơi chính mình, và rằng bạn trở thành giác ngộ nhờ thể nghiệm cái luôn luôn hiện diện trong bạn. Đây là hiệu quả của nyongtri, giáo huấn qua kinh nghiệm cá nhân.” Như Asanga và Maitreya nói, bản tánh của tâm là sáng tỏ. Nó hoàn toàn trống không, rỗng rang và thức giác, không bị những điều kiện hay sự điều kiện hóa làm hệ lụy. Tâm thức, hay thức nhị nguyên, chỉ là một chuỗi liên tục vô thường của nhân và duyên, hoàn toàn trong sự bị quy định. Sự khác sự khác biệt giữa tâm thức và bản tánh của nó, giữa tánh giác hay tinh túy của tâm và tư tưởng ý niệm thì cũng giống như sự khác biệt giữa bầu trời với

84 khí hậu phù du xảy ra trong nó hay namtok chính không gian. Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Phật nói, “Chân tâm không phải là tâm thức nhị nguyên. Bản tánh của tâm thực sự là sự không thể phân chia của tánh Giác và tánh Không.” Longchenpa nói rằng tâm thức là nhị nguyên, rằng Rigpa, tánh giác bất nhị là trí huệ siêu việt. Bản tánh nền tảng của tâm thức là hoàn toàn chói sáng, tự do và không vướng mắc bởi những ý niệm ta và người, chủ thể và đối tượng; một tánh sáng ngời sâu xa thoát khỏi thiên chấp và ngưng trụ, một hiển lộ bi mẫn tuôn chảy thông suốt của cái không thể định nghĩa, tánh Không vô biên, không bị tư tưởng ngăn ngại và che ám. Tư tưởng là trói buộc; sự lồng lộng vô biên của tánh giác trống không là tự do. Lòng bi cho những ai bị mắc bẫy trong những tạo dựng huyễn ảo của chính họ, trong những xích xiềng do tâm thức trui rèn và trong những giới hạn tự đặt ra tuôn trào tự nhiên không ngăn ngại và vô tận. Bởi thế, với những giáo huấn cốt lõi chính yếu của một vị thầy Dzogchen đầy đủ khả năng, hãy phá vỡ cái vỏ trứng của tâm thức và sải đôi cánh của bạn trong bầu trời rỗng rang rộng mở. Hãy phá bỏ căn lều nhị nguyên bỉ thử và trú ngụ trong tòa nhà vô hạn của Rigpa. Không có những kẻ thù hay những chướng ngại nào khác để chinh phục và đánh bại. Vô minh – sự suy nghĩ nhị nguyên – là ma quỷ vĩ đại ngăn chặn con đường của bạn. Hãy giết nó và tự do ngay lúc này.

85

5. Đại Toàn Thiện và Phật giáo Tây Tạng Một giảng dạy ở Cambridge, Massachusetts

Nhóm này được gọi là nhóm Hội Đại viên mãn hay Nhóm Đại viên mãn Cambridge. Dễ có được một cái tên như vậy, nhưng ấy là một cái tên vĩ đại để có thể sống xứng hợp theo – Dzogchen, Đại viên mãn bổn nhiên. Tuy nhiên, xin chớ nghĩ tôi muốn nói rằng đó là một cái gì mà các bạn không đã có sẵn. Đấy là vì sao tôi cho các bạn một cái tên như vậy. Tôi khuyến khích các bạn thực hành tốt con đường cao cả này của sự giác ngộ được gọi là Dzogchen, Đại viên mãn. Đây là tâm lõi của Pháp rộng và sâu được đức Phật dạy. Tâm của những giáo lý của bậc giác ngộ là Bồ đề tâm quý báu, tấm lòng và tâm thức giác ngộ vị tha. Cái này cũng được gọi là từ và bi. Nó có hai phương diện: Bồ đề tâm tuyệt đối và Bồ đề tâm tương đối. Những thừa gốc được dạy nhấn mạnh rất nhiều nhu cầu từ giáo lý căn bản của Phật giáo trong Kinh, Luật, Luận hay sự phát khởi xác tín về bản chất như huyễn của mọi sự, tính vô thường, vô ngã và bản chất bất toại nguyện của mọi hiện tượng có điều kiện. Đấy là những giáo lý căn bản của Phật giáo. Những giáo lý Đại thừa về sau nhấn mạnh đến thiện cảm, từ và bi. Những thực hành sơ khởi, ngondro, tu hành tâm thức vân vân tất cả tạo thành một nền móng vững chắc để trau dồi những nội quán và tỉnh giác căn bản, là những giáo lý căn bản. Chúng tạo thành một nền móng rộng rãi vững vàng hay căn cứ để phát triển Bồ đề tâm, tâm thức và tấm lòng thức tỉnh, tâm sáng ngời của Đại viên mãn. Trong giáo lý Đại thừa có giải thích rằng tánh Không vĩ đại kết hợp với đại bi sáng ngời là bản tánh chân thật của chúng ta. Đó là cái chúng ta trau dồi trong những giáo lý Bồ đề tâm tương đối; và đó là cái chúng ta chứng ngộ, nó chưa từng lìa khỏi chúng ta, theo những giáo lý Bồ đề tâm tuyệt đối.

86

Dầu chúng ta nhấn mạnh bất kỳ mặt nào của Bồ đề tâm sự trau dồi tương đối những phẩm tính giác ngộ để cất bỏ khổ đau của tất cả chúng sanh; hay mặt tuyệt đối, bản tánh vốn có tự hiện diện tự hữu của những sự vật cả hai mặt, tánh Không với tánh sáng tỏ hay lòng bi cần được thành tựu hay cân bằng để có một thực hành trọn vẹn khai triển. Trong những giáo lý Kim Cương thừa, Bồ đề tâm tuyệt đối được thấy rất rõ trong những sự chỉ dạy riêng cá nhân, trong các giáo huấn cốt lõi để làm sao nhận ra nó một cách trực tiếp qua những ban phước và sự trao truyền của dòng thực hành, đường lối của thực hành và kinh nghiện mà không cần những khám phá hay phân tích thuộc lý thuyết; Dầu các bạn gọi nó là gì, dầu bạn ngưỡng vọng hay hiểu nó, từ quan điểm chân lý tuyệt đối hay chân lý tương đối, Đại thừa hay Tiểu thừa, nó là cùng một giáo lý giải thoát, tâm của giáo lý Phật giáo. Cũng như khi các bạn mắc bệnh lao, hầu hết các bác sĩ đều có thể chẩn đoán nó. Dù bạn dùng thuốc vào buổi sáng, buổi chiều hay ban đêm, nó cũng sẽ chữa lành bệnh. Tương tự, với những giáo lý Phật giáo, với giáo lý này về Bồ đề tâm, hoặc bạn thực hành Bồ đề tâm tuyệt đối, những con đường vĩ đại của Mahamudra, Dzogchen và Madhyamika (Trung Đạo), những giáo lý bất nhị; hay các bạn nhấn mạnh vào Bồ đề tâm tương đối, qua những thực hành phát triển và những thừa tiệm tiến thì mỗi con đường này đều bao hàm và hội tụ vào cùng một nguyên lý, đó là kinh nghiệm của đại giải thoát và thỏa mãn trọn vẹn, sự an lạc của niết bàn. Trong tất cả những giáo lý Phật giáo, điều chính yếu là sự cởi thoát hay tháo lỏng bản ngã, chấp ngã, luyến ái tự ngã, tham lam, kháng cự và luyến bám. Điều này trực tiếp dẫn đến sự vơi cạn của khổ đau, sự chấm dứt của bất toại nguyện, bởi vì bám chấp hay ích kỷ là nguyên nhân chính yếu của khổ đau. Có nhiều cách khác nhau để giải thích về những con đường, những đối trị, những chuyển hóa, những tịnh hóa, những kinh nghiệm thấy, những kết quả khác nhau của các loại thực hành khác nhau, nhưng nói chung, cái được giải thích ở đây là cốt tủy của sự thực hành. Chúng ta không cần có quá nhiều những nghiên cứu và tư tưởng khác nhau. Chỉ buông lỏng chấp ngã và luyến

87 bám, cởi mở tấm lòng và tâm thức, và hưởng thụ niềm vui, an bình và tình thương vô ngã. Hãy làm điều này cho mình và cho tất cả. Trong con đường tâm linh của Phật giáo điều rất quan trọng là nương dựa vào một kalyanamitra, một người bạn tâm linh, một thiện tri thức, một vị thầy. Đức Phật, qua nhiều đời, đã dựa vào những vị thầy tâm linh. Ngài không đạt đến Phật tánh giác ngộ toàn thiện chỉ trong một đời qua vài năm thiền định, mà trải qua nhiều đời phát nguyện, cầu nguyện, thực hành và nhận những lời chỉ dạy và hướng dẫn. Không có những soi sáng và hướng dẫn của một vị thầy, rất khó kinh nghiệm đích thực chân lý của những lời dạy. Không có những lời chỉ dạy, rất khó kinh nghiệm đích thực tự do và giác ngộ qua chỉ sự thực hành. Một vị thầy có thể hướng dẫn chúng ta. Một vị thầy đầy đủ phẩm tính có khả năng ngăn ngừa cho người khác khỏi những trệch hướng và cạm bẫy. Một vị thầy có thể tìm ra con đường trực tiếp nhất cho học trò. Nếu người ta mong ước chứng ngộ những chỉ dạy của Đại viên mãn, người ta nên mong ước rất nhiều sự nhận lãnh những lời dạy và thực hành guru yoga, trong đó người ta chứng ngộ tính không thể phân chia của mình và vị thầy giác ngộ. Theo truyền thống Đại viên mãn, toàn bộ Pháp có thể được giải thích trong bối cảnh của hình thức thực hành này, guru yoga, sự sùng mộ. Loại sùng mộ này có thể đưa tới chứng ngộ sự không thể phân chia từ vô thủy tâm thức chúng ta và tâm Phật. Những giáo lý Đại viên mãn là một kho tàng cực kỳ rộng rãi và sâu xa. Phật đã dạy tám vạn bốn ngàn giáo pháp, sắp xếp thành ba thừa. Cái thứ ba của ba thừa này, Kim Cương thừa được phân chia thành bốn (hay sáu) thừa nữa. Bấy giờ có những giáo lý bên ngoài, giáo lý bên trong, giáo lý che dấu hay gọi là bí mật. Tuy nhiên tất cả mọi cái này được chứng ngộ qua thực hành sùng mộ và trí huệ tìm thấy trong guru yoga, sự hòa lẫn bản tánh của hành giả với bản tánh của guru. Có thể các bạn nghĩ rằng một vị thầy có một thân thể hay xương hay tóc, hay các bạn cần một sợi tóc của vị thầy, hay một sợi dây bảo vệ màu đỏ, để có được gia bị. Đó là vị thầy tương đối. Nếu các bạn thực sự muốn biết guru

88 nghĩa là gì, thì guru là toàn bộ vũ trụ hiện tượng tự khởi. Đó giống như một kiểu mẫu, đạo sư tượng trưng. Không phải vị thầy con người là đạo sư. Chân lý là mỗi một khoảnh khắc, là toàn bộ vũ trụ hiện tượng. Guru hay vị thầy tuyệt đối là bản tánh của tất cả mọi sự vật. Chớ nghĩ nó chỉ là một ông già nào đó, một lama nào đó hay một khuôn mặt guru nào đó. Có hóa thân, vị lama biểu lộ, như đức Phật trong hình thức con người, vị thầy sống. Có báo thân, năng lực, vị guru bí mật biểu lộ như kinh nghiệm: bản tánh chân thật của kinh nghiệm riêng của chúng ta, vị guru bên trong. Rồi có vị guru không hình tướng nhất định, vị guru tuyệt đối: pháp thân, tánh Không vô hạn sáng ngời. Tất cả ba cái này có thể được chứng ngộ trong một khoảnh khắc đại an trụ của tánh giác thanh tịnh, đại buông xả tất cả mọi sự, gọi là yeshe lama, trí huệ, đạo sư minh triết hay guru bên trong, sự để-cho-nó-như-nó-vốn-là vĩ đại và không thể nghĩ bàn. Nếu các bạn muốn đi xa hơn nữa, có bản tánh sáng soi vô biên từ bên trong của mọi sự, nó giống như một vị Phật toàn diện biểu lộ và ban phước khắp chốn. Vị guru như thị, cái đang là. Mọi sự đều ở trong tổng thể Đại viên mãn này, kho tàng này, mạn đà la này, thật ra là sự phô diễn hay năng lực của guru giác ngộ hay Phật tâm. Tất cả hiện hữu hữu tình và vô tình và tất cả kinh nghiệm, ngoài và trong, đều thực sự là Phật, vị thầy chân thật. Nếu các bạn hiểu những giáo lý Đại viên mãn, mỗi khoảnh khắc những ban phước này tuôn trào. Người ta chưa từng một phút giây nào tách lìa khỏi vị guru chân thật, khỏi Phật, tự tánh bổn nhiên của mình. Nếu các bạn vừa nghe những chữ “Dzogchen” hay “Dzogpa Chenpo”, Đại viên mãn vốn sẵn tự nhiên, rất dễ dàng nói, “Ồ, vâng, tôi biết cái ấy nghĩa là gì. Dzogpa Chenpo nghĩa là Đại viên mãn.” Thật dễ nói như thế, chỉ có vài chữ. Chắc chắn tất cả các bạn đã có những lời dạy và ban phước từ nhiều vị thầy, nhiều guru, nhiều lama. Các bạn đã nhận những ban phước sâu xa ấy. Nếu các bạn thực sự nhận biết sự không tách lìa rốt ráo của các bạn với Phật, sự không phân cách với thầy trong mọi hoàn cảnh và mọi khoảnh khắc, bấy giờ đấy là nguyên lý tuyệt đối của Dzogchen Đại Viên Mãn chứ không chỉ biết những từ có nghĩa là Đấy là tại sao chúng ta không nhìn thoáng vội sự

89 quan trọng của thực hành guru yoga khi chúng ta muốn tiếp cận với sự thực hành thật sự Dzogchen. Sùng mộ nhanh chóng cắt đứt tính suy diễn vọng tưởng. Đó là ngưỡng cửa mở ra tòa nhà của bất nhị, của sự không tách lìa. Khi người ta chứng ngộ những ban phước chúng luôn luôn tuôn trào, đấy là khoảnh khắc của Dzogchen. Không có khoảnh khắc, quán đảnh hay giáo lý nào khác. Bấy giờ toàn thể hiện hữu, hữu tình và vô tình, ngoài và trong, được thực sự chứng ngộ như là Đại viên mãn bổn nhiên, Dzogchen. Không có Dzogchen nào khác để cầu xin, nghiên cứu hay thực hành. Có nhiều vị thầy trong dòng phái suốt lịch sử xuống đến chúng ta. Cũng có lama nguyên thủy hay guru, đó là bản tánh của mọi sự, gồm cả chúng ta: vị Tổ chân thật của dòng phái mà chúng ta chưa từng tách lìa. Để nhận lãnh những lời chỉ dạy hay chứng ngộ nó, guru yoga là rất, rất hiệu quả và sâu xa: chứng ngộ sự không chia cách của mình và vị thầy giác ngộ là Phật. Nếu các bạn nghĩ rằng vị lama là một người, bấy giờ các bạn có thể nghĩ rằng Phật là một bức tượng làm bằng gỗ; rồi toàn bộ sự việc bắt đầu đi xa, như Phật thì ở kia trên bàn thờ, lama thì ở kia trên bục, và người ta chỉ là người khán giả. Rồi nếu các bạn ở trong một ngôi nhà hay trong núi non, các bạn không tìm thấy guru của các bạn ở đó. Sẽ rất lầm lạc nếu các bạn mê muội đuổi nó đi xa khỏi chính các bạn như vậy, vì thực thể-guru biểu lộ khắp mọi nơi mọi chốn. Có nói rằng mọi sự là tự hiện, hay tự nhiên biểu lộ một cách kỳ diệu; rằng mọi sự thì không sanh và không diệt. Hơn nữa, có nói rằng những ban phước của Tam Bảo thì luôn luôn tuôn xuống không dứt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào sự sùng mộ, hiến dâng của chúng ta để tiếp xúc, để mở ra với nó. Có nói rằng mọi sự là cái thấy biết qua nghiệp quả; nói cách khác, chúng ta kinh nghiệm thế giới như thế nào tùy thuộc chúng ta tri giác nó như thế nào, tùy thuộc vào nghiệp quả của chính chúng ta. Nó giống như sự phóng chiếu của chúng ta. Có nhiều bàn luận trong những kinh điển và bình giảng về vô thường, và phân tử và nguyên tử, phân tích nó hơn nữa thành Không, và rồi cái Không cũng trống không, như vậy cho đến vô cùng. Phân tích nó hơn nữa, chúng ta đi đến chỗ không có cái gì cả, và ngay cả vượt khỏi cái không

90 có gì. Tất cả mọi sự vật là sự thấy biết do nghiệp, sự phóng chiếu của riêng chúng ta, những quy kết ý niệm lên thực tại. Đại viên mãn không chỉ ra cái gì. Nó vượt khỏi mọi thấy biết và phóng chiếu nhị nguyên hư vọng. Vượt khỏi hư vọng, mọi sự đều toàn thiện. Trong hư vọng mọi sự có vẻ không phải là đại viên mãn. Khi không có lầm lẫn hay hư vọng, cái này trong tay tôi rõ ràng là một bông hoa. Một số người mê lầm có thể tri giác nó như là nước, nhưng đó chỉ là mê vọng hay lầm lỗi. Khi người thấy những sự vật như chúng là như trong ví dụ này, bông hoa ngay trước mặt chúng ta-toàn thể vũ trụ hiện tượng bên ngoài và bản thể bên trong là Đại viên mãn, đại Phật tánh, Dzogpa Chenpo. Khi người ta không mê lầm, khi những sự vật được thấy như chúng là, mọi sự là sự phô diễn của năng lực của Phật tánh, sự tỏa sáng của thực tại, cái Đại viên mãn. Người ta có thể còn mê lầm hơn, và nghĩ rằng những lời dạy Pháp thì không thật, rằng Phật chỉ là một huyền thoại và vân vân. Cái bạn có thể nghĩ chẳng hạn rằng cái này không phải là Đại viên mãn, rằng Đại viên mãn không ở đây, đây chỉ là Boston. Hay các bạn còn mê lầm hơn, nghĩ rằng đây không phải là Đại viên mãn, đây là New York! Những hình bóng khác nhau của mê vọng. Các bạn có thể có một kiểu mê vọng khác và nghĩ, đây không phải là Đại viên mãn, Dzogchen. Đây là John đang dịch, không phải là Surya Das. Vọng tưởng chồng lên vọng tưởng! Đại viên mãn là như thế nào sự vật thực sự là. Sự vật được để cho đúng như chúng là. Trạng thái tự nhiên. Thế nào sự vật thực sự là, cách thức hiện hữu chân thật của chúng. Bậc đại trí nắm giữ dòng, Tổ Jigme Lingpa, vị đạo sư không sợ hãi đã từng sống ba trăm năm trước ở Tây Tạng, nói, “Những lời dạy về Đại viên mãn thì nhiều. Người hiểu Đại viên mãn thì ít.” Vị bổn sư quý báu của tôi, Khenpo Ngawang Palzang vĩ đại, đệ tử của Paltrul Rinpoche đạo sư vĩ đại của Đại viên mãn nói rằng, “Đại viên mãn thì cực kỳ giản dị, nhưng không dễ dàng.” Dễ dàng cho bất kỳ ai chỉ ra bầu trời. Dễ dàng cho bất kỳ ai nói điều gì về Đại viên mãn và nói mọi sự là toàn thiện trong chân tánh của chúng như thế nào. Nhưng hầu hết người ta thấy ngón

91 tay mà họ không thấy bầu trời. Nếu các bạn thấy ngón tay mà không thấy bầu trời, bấy giờ có ngondro (thực hành sơ bộ), quy y, thực hành Bồ đề tâm, một số thiền định và tịnh hóa được làm để tịnh hóa và xua tan những che chướng tạm thời che ám Phật tánh của chúng ta, thật tánh của chúng ta. Nhưng đó là cọng rơm của quan kiến-cái kiến (thấy) giới hạn của các bạn, chớ nhìn bầu trời qua một cọng rơm và nghĩ rằng tất cả những thứ đó là cái bao la vô tận của không gian. Khi một tấm gương bị mờ hay bám bụi, nếu nó được lau sạch, sự sáng tỏ và rực rỡ phản chiếu bản tánh chân thật của nó sáng soi rõ ràng. Chỉ nói rằng nó vốn toàn thiện, toàn hảo sẽ không giúp gì nhiều nếu nó vẫn còn bị che mờ bởi những che chướng. Có điều gì khác để nói ở đây? Chúng ta đã phung phí vài phút ở đây. Thế nên xin hãy dùng sự thực hành này nếu nó có nghĩa với các bạn. Hãy tự đặt các bạn vào trong đó qua cầu nguyện và sùng mộ, qua thiền định và sự tìm hiểu. Thực hành tâm linh là một việc rất cá nhân, nó tùy vào các bạn. Hãy nhận lấy cơ hội. Hãy đem nó vào cuộc sống hàng ngày của các bạn. Vị Tổ vĩ đại của Dzogchen, vị Phật toàn giác Longchenpa, sáu trăm năm trước chỉ tóm gọn nó chỉ trong hai từ Tây Tạng: “Semnyi ngalso!” “Thong dong lớn lao!”. Ngài nói sự thong dong tự nhiên của tâm. Ngài không nói sự bận rộn tự nhiên của tâm. Ngài nói sự an bình hay thong dong tự nhiên của tâm. Bởi thế, hãy thong dong rảnh rang trong đó. Hãy để yên và thả rơi mọi sự. Chúng ta không nghĩ nhiều để hiểu những sự việc ấy. Đây là cái gì có thể kinh nghiệm hay nhận biết từ bên trong, trong một cách thức khác. Khi chúng ta thiền định, chúng ta không cần sử dụng tâm thức quá nhiều. Chúng ta có thể chỉ đơn giản rảnh rang trong sự rảnh rang tự nhiên của cái đang là. Rỗng rang với sự không cố gắng, tánh giác bổn nhiên, không cố gắng kiểm soát tâm thức mà thực sự thưởng thức và thấy cái đang là như vậy. Có nhiều cách thức thiền định và thực hành khác nhau. Một số đó là phân tích và rất ích lợi trong việc làm bén nhọn tâm thức, trong phân biệt và nhận rõ những sự vật. Có nhiều người hiểu và thực hiện điều đó rất tốt. Nhưng

92 truyền thống của chúng ta hơn nữa là dòng thực nghiệm. Dòng thực hành sự hợp nhất của Mahamudra và Dzogchen bất nhị, sự không thể phân chia giữa trí huệ và đại bi, bát nhã và phương tiện, chân lý và tình thương, như là một phương thức để thức tỉnh, giác ngộ. Điều này bao gồm cả samatha (an định) và vipashyana (quán chiếu) trong hình thức thiền định tỉnh giác tổng quan bao quát. Nó gồm sự phân biệt phân tích. Nó gồm ở yên trong trạng thái tự nhiên, trong rỗng rang và thong dong. Có nhiều khả năng hay khuynh hướng khác nhau của con người, thế nên có nhiều những tiếp cận hay nhiều mặt của chỉ một viên ngọc giải thoát này. Tất cả chúng đều là một đường lối độc nhất, mạch lạc. Trong cái rốt ráo, người ta chỉ có thể nói rằng trí huệ bẩm sinh là hiện tiền một cách trực tiếp, trần trụi; tánh tỉnh thức tự hiện hữu này chưa từng lìa chúng ta. Có gì để xao lãng, trong ánh sáng của hiện tiền thanh tịnh và toàn khắp? Làm sao chúng ta có thể lìa nó một phút giây nào? Xin hãy nhận biết trí huệ bổn nhiên này, tánh giác tự hữu này, Phật tánh bao la này. Đây là mục đích của thực hành. Không chỉ trông chờ, mà còn nhận biết nó thực sự và chứng ngộ nó trong chính mình, cho lợi lạc và niềm vui vô biên của mình và tất cả. Hôm nay là một loại diễn dịch tinh chất và cô đọng của giáo lý. Nếu các bạn quan tâm đến những điều này, hãy tự do theo chúng với Lama Surya Das hay với những vị thầy khác trong nhiều ngày, nhiều tháng hay năm. Hình như tất cả các bạn đều ở Mỹ và các bạn không đi đâu khác, và Surya cũng ở Mỹ, thế nên hãy tận dụng điều đó; ông ấy đã được chỉ dạy, truyền pháp và cho phép đầy đủ bởi chính tôi và những vị thầy khác của ông. Những giáo lý Đại viên mãn đã trải qua hàng ngàn năm. Nó không phải là cái gì người Tây Tạng sáng chế ra. Nó đã từng có rất lâu trước đó. Những đạo sư Đại viên mãn đem nó từ Ấn Độ, nhưng trước đó nó đã thịnh hành. Phật giáo và những giáo lý này càng ngày càng mờ nhạt ở Ấn Độ, mất đi ở Ấn Độ, nhưng được đem vào Tây Tạng và các xứ sở xung quanh bởi người

93 của các xứ sở ấy, những người đã nhận lời chỉ dạy từ các vị thầy Ấn Độ và rồi thực hành, chứng ngộ và thiết lập chính trong đất nước của họ cho đến ngày nay. Trong mười ba thế kỷ những người Tây Tạng đã nỗ lực rất nhiều để giữ gìn và xiển dương những giáo lý cao cả và sâu xa này. Cho đến ngày nay họ không để cho chúng biến mất. Họ thực hành chúng, và người ta đã thành tựu giác ngộ. Họ dịch chúng ra. Họ đã làm mọi điều có thể để giữ gìn, thực hành và chứng ngộ những giáo lý quý báu này. Rồi đột nhiên họ trao tặng cho toàn thế giới, lan khắp thế giới, vì sự lợi lạc của tất cả. Đây là thời điểm của Đại viên mãn. Pháp thì giống như thuốc thanh tịnh chữa tất cả bệnh, như cam lồ. Tự nhiên, người ta cảm thấy muốn giữ gìn nó, yêu quý nó, bảo vệ nó, và chia xẻ nó. Nếu không ai thấy giá trị của nó, thì những lời này chỉ như sương mù tan trong không khí, biến mất. Ngược lại, nếu những ai nghe những điều này mà nhận lấy chúng, thực hành chúng và chứng ngộ chúng, bấy giờ họ thu được lợi lạc trọn vẹn của những chân lý này. Chúng dành cho tất cả mọi người. Chúng cần được trao truyền và triển chuyển. Không có vấn đề về bí mật, về sự bảo vệ chúng, về cất giữ chúng. Chúng phải được nẩy nở và tiếp tục. Thực hành tâm linh làm lợi lạc cho tất cả. Nó làm lợi lạc cá nhân. Nó làm lợi lạc cộng đồng. Nó làm lợi lạc đất nước. Nó làm lợi lạc vũ trụ. Nó làm lợi lạc tất cả, và ban phước cho tất cả. Thực hành tâm linh là cực kỳ quan trọng. Xin hãy xem trọng nó. Xin cầu nguyện đến Longchenpa toàn giác: Nguyện rằng tâm trí huệ của ngài và của chúng ta vẫn không chia cách. Kính lễ Đại viên mãn bổn nhiên. Nguyện cho tất cả đều chứng ngộ nó và hiện thân nó! Buổi nói chuyện này được dành cho Cambridge Dzogchen Group ở Kunkyab Rangjung Yeshe Ling, 8 tháng Sáu, 1994.

94

BÀI CA VÀ BÌNH GIẢI 6. Tấm Gƣơng Của Những Điểm Thiết Yếu Một bức thơ tán thán tánh Không, từ Khenpo Jamyang Dorje cho Mẹ Ngài Dịch bởi Erik Hein Schmidt và biên tập bởi Ani Lodroš Palmo và Ward Brisick

Con kính lễ dưới chân sen của Tenpai Nyima, Người không tách lìa với Pháp Vương Longchenpa Rabjam, Và thấy biết trạng thái tự nhiên của tánh Không Của đại dương vô biên những sự vật.

Một lá thơ khuyên bảo con gởi cho người, bà mẹ cao quý Paldzom của con. Xin hãy nghe một lát và không xao lãng. Ở đây không có khó chịu gì, Con thong dong và tự do không phiền lo, Trong một trạng thái của tâm hoan hỷ. Mẹ có khoẻ không, mẹ yêu dấu của con?

Ở đây trong xứ sở Tây phương, Có nhiều người da trắng và da đỏ, Họ có mọi loại huyễn thuật và cảnh tượng,

95

Như bay qua những bầu trời, Và di chuyển trong nước như cá. Có quyền hành trên bốn đại, Họ ganh đua phô diễn những phép lạ Với muôn ngàn màu sắc đẹp đẽ. Có nhiều những quang cảnh không cùng, Như những thiết kế của những màu sắc cầu vồng Nhưng giống như chỉ là giấc mộng, khi được xét xem, Chúng là những thấy biết sai lầm của tâm thức.

Mọi hoạt động giống như những trò chơi trẻ nít. Nếu làm, chúng không bao giờ chấm dứt. Chúng chỉ là hoàn thành khi mẹ để yên đấy, Như những lâu đài bằng cát.

Nhưng đấy chưa phải là toàn thể câu chuyện. Tất cả những pháp của sanh tử và niết bàn Dầu được nghĩ là thường còn, chúng không kéo dài. Khi được khảo sát, chúng chỉ là những hình sắc trống rỗng Xuất hiện mà không có hiện hữu. Dầu không thực, chúng được nghĩ là thực, Và khi được khảo sát, chúng là không thực như một ảo tưởng.

96

Nhìn ra ngoài, những đối vật xuất hiện, Và giống như nước trong một ảo ảnh, Chúng còn huyễn hoặc hơn cả sự huyễn. Không thực như những giấc mộng và những ảo tưởng, Chúng giống như một mặt trăng phản chiếu trong nước và những cầu vồng.

Hãy nhìn vào tự tâm mẹ! Nó có vẻ rất kích động, khi không được khảo sát. Nhưng khi được khảo sát, không có gì trong đó cả. Xuất hiện không có thực thể, nó không là gì ngoài trống rỗng. Nó không thể được nhận dạng và nói, “Nó đây!” Mà chỉ tan biến và lẩn thoát như sương mù.

Hãy nhìn thẳng vào tất cả những gì xuất hiện Trong bất cứ nơi nào của mười phương. Dầu nó có vẻ như thế nào, Sự vật trong tự nó, bản tánh đích thật của nó, Là bản tánh như hư không của tâm, Vượt khỏi sự phóng chiếu và tan biến của tư tưởng và ý niệm.

97

Mọi sự có bản tánh trống không. Khi cái trống không nhìn cái trống không, Có ai để nhìn vào cái trống không như vậy? Đâu là chỗ dùng của nhiều thứ phân loại, Như là “trống không “ và “không trống không,” Vì đó là cái huyễn nhìn cái huyễn, Và hư vọng quan sát hư vọng?

“Bản tánh không cố gắng và như hư không của tâm, Cảnh giới bao la của thấy biết, Là trạng thái tự nhiên của mọi sự. Trong nó, bất cứ điều gì bạn làm đều tốt, đúng, Dù bạn nghỉ ngơi, bạn luôn thư thái.” Điều ấy được Jetsun Padmasambhava, Và đại thành tựu giả Saraha nói ra.

Mọi thiết kế ý niệm Như là “Nó là hai!” hay “Nó không là hai!” Rời bỏ các ngài như những con sóng trên một dòng sông, Để giải thoát một cách tự nhiên tự bản thân chúng.

98

Con quỷ khổng lồ của tư tưởng vô minh và suy diễn Làm cho người ta chìm đắm trong đại dương của sanh tử. Nhưng khi giải thoát khỏi tư tưởng suy diễn này, Đấy là trạng thái không thể diễn tả, vượt khỏi tâm thức ý niệm.

Ngoài chỉ những tư tưởng diễn dịch này, Không có ngay cả những danh từ sanh tử và niết bàn, Sự lặng chìm toàn bộ tư tưởng diễn dịch Là tánh Như của pháp giới.

Chớ làm thêm phức tạp bằng những phát biểu phức tạp, Cái bindu đơn nhất không do tạo tác này Là tánh Không, trạng thái tự nhiên của tâm. Bậc Thiện Thệ, đức Phật đã nói như vậy.

Bản chất của cái gì có thể xuất hiện Khi chỉ để mặc cho tự nó, Là cái thấy không tạo tác và không hư hao, Pháp thân, bà mẹ tánh Không. Mọi tư tưởng diễn đạt là tánh Không, Và người thấy tánh Không là tư tưởng suy diễn. Tánh Không không hủy hoại tư tưởng suy diễn,

99

Và tư tưởng suy diễn không ngăn ngại tánh Không. Tánh Không bốn phương diện của bản thân tâm thức Là cái tối hậu của mọi sự. Sâu xa và tịch tịnh, tự do với mọi phức tạp, Sự sáng tỏ tỏa ngời không hỗn hợp, Vượt khỏi tâm thức ý niệm lòng vòng: Đây là chiều sâu của tâm các bậc Chiến Thắng.

Trong đây không có một vật gì để trừ bỏ, Cũng không có cái gì cần thiết phải thêm vào. Chỉ thuần cái vô nhiễm, Nhìn một cách tự nhiên vào chính nó.

Nói tóm, khi tâm thức hoàn toàn cắt đứt Những ràng buộc bám chấp vào sự gì, Thì mọi điểm thiết yếu đều cô đọng trong đó. Đây là truyền thống của bậc tối thượng Tipola, Và của đại học giả Naropa.

Một trạng thái tự nhiên sâu xa như cái này Là trí huệ của đại lạc, Trong tất cả mọi loại lạc phúc.

100

Trong tất cả mọi niềm vui sướng hài lòng, Nó là vua của vui sướng hài lòng tối thượng. Nó là sự quán đảnh truyền pháp tối cao thứ tư, Của mọi phái tantra của Mật thừa. Nó là giáo huấn tối thượng chỉ thẳng.

Tri kiến “sanh tử tức niết bàn,” Và tri kiến của Đại Ấn, của Đại Viên Mãn, Trung Đạo và những cái khác, Có nhiều tên khác nhau, Nhưng chỉ một nghĩa tinh yếu. Đây là tri kiến của Lama Mipham

Như một sự giúp đỡ cho vua của những tri kiến này Người ta nên bắt đầu với Bồ đề tâm, Và kết thúc với hồi hướng. Để cắt đứt bằng những phương tiện thiện xảo Sự trụ định vào một bản ngã, gốc rễ của sanh tử, Vua của mọi phương tiện vĩ đại Là Bồ đề tâm không gì vượt hơn.

101

Vua của sự hồi hướng toàn hảo Là phương tiện để tăng trưởng thiện căn. Cái này là giáo lý đặc biệt của Thích Ca Mâu Ni, Nó không tìm thấy nơi những bậc thầy khác.

Để thành tựu giác ngộ viên mãn, Nhiều hơn thế thì không cần thiết, Nhưng ít hơn thế thì sẽ không đầy đủ. Con đường nhanh chóng của ba cái tuyệt hảo, Được gọi là lòng, mắt và sinh lực, Là lối đi của Longchenpa Rabjam.

Tánh Không, viên ngọc như ý, Là bố thí không nhiễm chấp. Nó là sự trì giới không hư hoại. Nó là nhẫn nhục không phiền giận. Nó là tinh tấn không mê lầm. Nó là thiền định không phóng dật. Nó là tinh túy của trí huệ bát nhã. Nó là ý nghĩa của ba thừa.

Tánh Không là trạng thái tự nhiên của tâm.

102

Tánh Không là sự quy y vô niệm. Tánh Không là Bồ đề tâm tuyệt đối. Tánh Không là Vajrasattva ân xá tội lỗi. Tánh Không là mạn đà la của những tích tập toàn thiện. Tánh Không là guru yoga của Pháp thân.

An trụ trong trạng thái tự nhiên của tánh Không Là sự “an định” của shamatha, Và thấy biết nó rõ ràng sống động Là sự “quán thấy” của vipashyana.

Cái thấy của giai đoạn phát triển toàn hảo, Trí huệ của Lạc và Không trong giai đoạn thành tựu, Đại viên mãn bất nhị, Và bindu đơn nhất của Pháp thân, Tất cả mọi cái này đều bao gồm trong nó.

Tánh Không tịnh hóa những nghiệp. Tánh Không xua đuổi những lực lượng che ám. Tánh Không thuần hóa những quỷ ma. Tánh Không thành tựu những hóa thần.

103

Trạng thái sâu xa của tánh Không Làm khô cạn đại dương tham ái. Nó phá sụp đổ núi sân giận. Nó soi sáng bóng tối của ngu si. Nó làm lặng cơn lốc của ghen ghét. Nó đánh bại chứng bệnh của những phiền não. Nó là một người bạn trong lúc sầu muộn. Nó hủy diệt tự phụ trong sướng vui. Nó chiến thắng trong cuộc chiến tranh với sanh tử. Nó tiêu hủy bốn ma. Nó chuyển tám pháp thế gian thành vị bình đẳng. Nó hàng phục con quỷ chấp ngã. Nó chuyển những điều kiện xấu thành sự trợ giúp. Nó chuyển những điềm xấu thành tốt lành. Nó khiến hiển lộ giác ngộ viên mãn. Nó sanh ra chư Phật ba thời. Tánh Không là bà mẹ Pháp thân.

Không có giáo lý nào cao hơn tánh Không. Không có giáo lý nào nhanh chóng hơn tánh Không. Không có giáo lý nào tuyệt hảo hơn tánh Không. Không có giáo lý nào sâu xa hơn tánh Không.

104

Tánh Không là “cái biết một cái nó giải thoát cho tất cả.” Tánh Không là đức vua tối thượng của dược liệu. Tánh Không là cam lồ của bất tử. Tánh Không là sự thành tựu tự nhiên vượt khỏi cố gắng. Tánh Không là giác ngộ không thi công. Bằng thiền định tánh Không Người ta cảm thấy lòng bi khủng khiếp Cho những chúng sanh mê mờ, như chúng ta, trong sự tin vào một cái ngã, Và Bồ đề tâm khởi lên không dùng sức. Mọi phẩm tính của con đường và những địa Sẽ xuất hiện tự nhiên không nỗ lực nào Và người ta sẽ cảm thấy niềm vui sâu sắc Khi nhìn luật nhân quả không sai chạy của hành động.

Nếu người ta chỉ có một chốc lát xác tín Vào tánh Không này Xích xiềng siết chặt của chấp ngã Sẽ phá tung từng mảnh. Đây là lời của Aryadeva.

105

Còn tối cao hơn cúng dường chư Như Lai và con cái của Ngài Tất cả những hằng sa cõi Phật, Đầy ắp với sự cúng dường của chư thiên và loài người, Là thiền định về tánh Không.

Nếu công đức của sự an trụ nhất như Chỉ một khoảnh khắc trong trạng thái tự nhiên này Mà có được hình sắc cụ thể, Thì cả không gian không chứa đựng nổi nó.

Bậc không ai sánh trong các hiền triết, Thích Ca Mâu Ni, Để đạt đến tánh Không thậm thâm này, Đã ném thân ngài vào những giàn lửa, Cho đi đầu ngài và tay chân, Và thực hành hàng trăm khổ hạnh khác.

Dầu cho bạn chất đầy thế giới này Với những đống khổng lồ những tặng vật vàng ngọc, Giáo lý sâu xa này về tánh Không Dù để tìm kiếm nó, cũng rất khó tìm thấy. Điều này được nói trong Trăm Ngàn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật.

106

Để gặp được giáo lý tối thượng này Là sức mạnh rực rỡ của công đức Của nhiều kiếp không thể tính đếm.

Tóm lại, nhờ vào tánh Không. Người ta, vì sự lợi lạc của chính mình, Được giải thoát vào cảnh giới của Pháp thân vô sanh, Cái giác ngộ viên mãn rõ ràng Của bốn thân và năm trí. Sự phô diễn không ngăn ngại của Sắc thân Bấy giờ sẽ không ngừng lưu xuất để chỉ dạy cho người nào cần, Bằng cách khuấy động những chiều sâu của sanh tử vì lợi lạc cho những người khác, Qua hoạt động tự nhiên thường trực, cùng khắp. Trong tất cả kinh và tantra, điều này Được nói là quả rốt ráo.

Làm sao một người như con có thể nói thành lời Tất cả những lợi lạc và công đức từ đó, Khi bậc Chiến Thắng, với lưỡi kim cương của ngài, Không thể làm cạn kiệt chúng, dù ngài có nói trong suốt một kiếp?

107

Bậc vinh quang, bậc thầy tối thượng, Ngài ban cho những lời dạy về tánh Không, Xuất hiện trong hình thức một con người, Nhưng tâm ngài thật sự là một vị Phật.

Không có dối trá và đạo đức giả, Hãy khẩn cầu ngài từ sâu thẳm lòng mình, Và không cần một thủ đoạn nào khác, Mẹ sẽ đạt đến giác ngộ ngay trong đời này. Đây là viên ngọc hiẹân thân của tất cả, Được dạy trong những tantra của Đại viên mãn. Khi mẹ đang có viên ngọc này trong lòng bàn tay, Chớ để nó uổng phí một cách vô nghĩa.

Giống như những sao trên bầu trời, sự học hỏi Sẽ không bao giờ chấm dứt qua những nghiên cứu. Ích gì mọi thứ phồn tạp Nhiều giáo lý thỉnh cầu xin và thọ nhận? Ích gì mọi thực hành không thể cao hơn tánh Không?

108

Chớ nhắm đến có nhiều trang phục khổ hạnh, Như cầm gậy và đeo dây hay mặc da thú. Để cho con voi tự trở vào nhà mình Chớ đi tìm dấu chân nó trong núi sâu.

Hỡi mẹ, hãy tham thiền tinh túy của tâm, Như nó được dạy bởi guru, bậc nắm giữ kim cương, Và mẹ sẽ có tinh túy của tinh túy Của tất cả tám vạn bốn ngàn giáo lý. Nó là cam lồ cốt tủy của triệu triệu Những bậc thành tựu và hiểu biết. Nó là sự thực hành tối hậu.

Lời khuyên bảo này từ cốt lõi tấm lòng Của nhà sư hỏng chuyện, Jamyang Dorje, Là cái thanh tịnh nhất của tinh túy thanh tịnh Từ bindu của máu đời con. Bởi thế hãy giữ nó trong lòng, hỡi mẹ.

Những lời khuyên bảo tâm huyết ít ỏi này Được viết ra trong một xứ sở đẹp đẽ, Thành phố của bầu trời xanh rộng mở Ganh đua với sự rực rỡ của những cõi trời.

109

Gởi đến Chokyi Nodzom thuần thành, Bà mẹ yêu quý của con, Và đến những đệ tử sùng tín của tôi. Tôi trao tặng lá thư khuyên bảo này.

Lá thư này cho những đệ tử được viết bởi một người mang danh là “Khenpo,” người Tây Tạng, Jamyang Dorje, trong Thung Lũng cỏ Dordogne của Đại Lạc, nước Pháp, bên kia đại dương về hướng tây.

Nguyện phước đức và tốt lành từ đó!

110

7. Bình Giải của Khenpo về “Tấm Gƣơng của những Điểm Thiết Yếu: Một bức thơ tán thán tánh Không” Dịch và biên tập bởi Surya Das

“Tấm Gương của những điểm Thiết Yếu” là một bài ca kim cương một kiểu mẫu-tự phát, một doha, một bài ca giác ngộ hiện đại của truyền thống khẩu truyền sống động có từ những thành tựu giả chứng ngộ của thời Ấn Độ cổ. Khenpo hát nó lên vào một ngày trong thời nhập thất ba năm ở Dordgne, Pháp, khoảng từ 1980 đến 1984. Sau này nó được thâu băng, rồi viết ra tiếng Tây Tạng và được gởi cho mẹ ngài ở Ấn Độ. Sau đó nữa, nhóm dịch thuật Padmakara dịch nó ra tiếng Anh và tiếng Pháp. Khi nào chúng ta đảm nhận bất kỳ loại chỉ dạy, thực hành hay nghiên cứu nào, thật ích lợi và ý nghĩa lạ thường, khi phát sanh và xác định một cách thành thật Bồ đề tâm quý báu với cả hai phương diện tương đối và tuyệt đối của nó: thúc đẩy chính chúng ta một cách rõ ràng đến độ bất kỳ thứ gì chúng ta làm ở đây đều vì lợi lạc và giác ngộ tối hậu của tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi. Dĩ nhiên, bản thân chúng ta bao hàm trong đó, thế nên không cần làm tăng thêm sự quy ngã thói thường của chúng ta bằng cách quan tâm riêng biệt đến sự giải thoát của chúng ta ở điểm này. Chỉ đơn giản phát Bồ đề tâm quý báu và tin vào sự vĩ đại này của tấm lòng và sự rỗng rang bao la này của tâm thức. Mọi sự đều bao gồm trong đó. Làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh khắp nơi có nghĩa là gì? Trong nghĩa tương đối, đó là thực hành sáu hoàn thiện (ba la mật) và cung cấp cho chúng sanh thứ gì họ muốn và cần, như là những đồ vật, sự che chở, thuốc thang, tuổi thọ, an toàn và hạnh phúc, cũng như những giáo lý và sự giúp đỡ trong thực hành. Trong nghĩa tuyệt đối nó là cắt đứt gốc rễ của sanh tử và niết bàn, cắt tiệt gốc rễ của nhị nguyên, của bám chấp nhị nguyên, của bám chấp vào sự có thật

111 của sự vật. Đây là lợi lạc rốt ráo, lợi lạc tối hậu, gọi là Phật tánh, nó nghĩa là thức tỉnh hay hoàn toàn khai tâm mở lòng. Sem kye trong tiếng Tây Tạng nghĩa là Bồ đề tâm, tâm thức tỉnh vị tha; nghĩa đen là sự nở hoa của tâm thức, sự khai mở hay phát lộ rốt ráo của lòng và tâm. Cái gì là gốc rễ của mọi bất toại nguyện, thất vọng và khổ đau? Cái gì là nguyên nhân gốc của dukkha – khổ đau và sự mất cân bằng? Nó chính là sự bám chấp nhị nguyên. Bám luyến, kháng cự và trụ chấp là nguyên nhân của khổ đau. Tất cả những thứ ấy phát xuất từ vô minh. Bám chấp nhị nguyên xảy ra ngay ở điểm gặp gỡ giữa người nắm lấy và cái được nắm lấy. Nó là sự bám chấp vào thực tại cụ thể của những sự vật; bị mê lầm bởi chỉ những hình tướng, không thấy tính chất vô tự tánh hay trống rỗng, tánh Không và không thật của chúng. Khi điều này được thấy xuyên suốt, bám chấp và luyến ái khô kiệt. Bấy giờ khổ đau nào có thể có được? Và có ai để khổ đau? Tự do và thong dong bao la là ngay ở đây. Khi gốc rễ của nhị nguyên – bám chấp nhị nguyên, những thấy biết nhị nguyên bị cắt đứt, những thấy biết mê lầm giống như mọi lá, cành và thân của cội cây sanh tử và niết bàn tự nhiên tự khô héo và ngã đổ đúng lúc của chúng. Bấy giờ cội cây sanh tử và niết bàn khổng lồ tỏa nhánh khắp nơi này, cội cây của nhị nguyên, của thế gian, của sự bị qui định, không cần phải đốn ngã: nó đã như là chết. Chúng ta có thể nghỉ ngơi; làm xong cái cần làm, như đức Phật nói. Đây là điểm toàn thể của Pháp, của sự thức tỉnh tâm linh, của Phật tánh; đây là sự tiến hóa hay khai mở tối hậu. Nếu chúng ta mong mỏi kinh nghiệm một sự thức tỉnh như vậy, không có gì khác để làm ngoài sự nhận biết bản tánh chân thật của tánh giác bổn nguyên của chúng ta, cái hiện thể nền tảng của chúng ta, quyền thừa kế của chúng ta, nó ở bên trong. Đây là bản tánh sẵn có nội tại của tấm lòng và tâm thức chúng ta, cũng được biết với tên là Bồ đề tâm. Nó là hiện thể của chúng ta, tự tánh của chúng ta, có tên là Phật tánh. Nó không phải là vị Phật ở đâu khác.

112

Đấy là tại sao chúng ta nói Phật ở bên trong: Phật tánh tỏa khắp và ôm trùm mọi sự, không chừa cái gì. Sâu xa hơn, đấy là tại sao chúng ta nói không có Phật ngoài tự tâm mình, vì tâm Phật là tinh túy chân thật của tự tâm chúng ta, ngay lúc này đây. Nó không xa chút nào. Nó là trong chúng ta và là chúng ta. Nhưng ai nhận biết và hiện thực hóa nó? Chẳng phải chúng ta luôn luôn nhìn trượt, bỏ qua nó sao? Nó có vẻ quá thật, đến nỗi chúng ta không tin nó. Nó quá gần gũi, thân thiết, thế nên chúng ta bỏ qua nó. Nó hiển nhiên quá rõ ràng, quá thường trực đến nỗi chúng ta không lưu ý nó. Ai có thể biết rằng Phật ở trong chính họ? Lời dạy này trong hình thức một bài ca về những phương diện khác nhau của tánh Không hay Shunyata: cái trống không chói lọi, cái rỗng rang vô cùng của bản thân hiện thể nguyên sơ không vướng mắc. Có dạy rằng có mười tám loại Không khác nhau, nhưng tất cả được gồm vào một cái được gọi là Mahashunyata, Đại Không: sự rỗng rang mở khắp và tánh Không không thể ý niệm, tánh Như không thể diễn tả của “cái đang là”. Nó không phải là một cái gì tương đối, mọi cái khác đều tương đối; đại không là bản tánh chân thật của mọi hiện tượng tương đối. Bát Nhã Tâm Kinh nói, “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.” Đây là cái thấy căn bản của Đại thừa Phật giáo và thực tại của hiện hữu. Chúng ta không thể từ chối rằng chúng ta đang kinh nghiệm thế giới, một vô số sai khác của hình tướng và hiện hữu. Tuy nhiên trong yếu tính, mọi sự vật là trống không một thực thể nội tại, không có hiện hữu về bản chất và độc lập. Shunyata, Tánh Không nghĩa là như vậy. Đấy là sự kết hợp của hai cấp độ của chân lý: tương đối và tuyệt đối. Một vị Phật thấy biết cả hai đồng thời: sự vật xuất hiện như thế nào, cấp độ tương đối hay chức năng, và sự vật thực sự là thế nào. Tánh Không là chân lý tuyệt đối, thực tánh của tất cả sự vật, cách thức đang là một cách nền tảng của chúng. Tình trạng chân thực của mọi hiện tượng của cả sanh tử lẫn niết bàn là Mahashunyata, sự mở suốt rỗng rang hay tánh Không vĩ đại. Đây là ý nghĩa chân thật của Dzogchen, những giáo lý về sự

113

đại thành tựu tự nhiên, sự thanh tịnh bẩm sinh và hoàn thiện vốn sẵn của mọi sự: rằng mọi sự vốn là Mahashunyata, sự mở suốt rỗng rang hay tánh Không vĩ đại. Người ta có thể hỏi: Ai hay cái gì đã sáng tạo, tạo tác, làm ra tánh Không này, cái là trạng thái tự nhiên của mọi hình tướng sanh tử và niết bàn? Phật đã tạo ra nó chăng? Vị thần nào đó hay một đấng tuyệt đối nào tạo ra nó? Nó được làm hay sanh từ đâu? Có phải nó là cái còn lại khi mọi sự đã được tịnh hóa hay hủy hoại? Có phải chúng ta cần gỡ bỏ tấm màn che của tư tưởng và ý niệm để thấy biết nó? Tánh Không là không sanh, không do làm, không được tạo ra. Bởi thế nó được nói là không chết, như niết bàn (cái mà đức Phật gọi là vĩnh cửu trong một cuốn kinh). Nó là thật tánh, Mahashunya, đại không. Không là bản tánh tối hậu ý niệm, vâng; không thể được, không thể! Bản chất của mọi hiện tượng, như đức Phật nói, là vô thường. Mọi sự đều tan rã. Cái gì sanh ra, thì chết đi. Mọi cái gì được nhóm họp đều phân rã, như những gặp gỡ trong một cái chợ. Mọi tạo lập rốt rồi phải hủy hoại. Mọi hiện tượng do duyên, do điều kiện là vô thường, không chủ, không ngã, và trống rỗng, như mộng, ảo ảnh, tiếng vang. Kỳ lạ thay! Kỳ diệu thay! Emaho! Bản tánh chân thật của sự vật là đại không, sự mở suốt rỗng rang hay tánh Không vĩ đại, thuyết tương đối tối hậu thoát khỏi những vật thể độc lập, hiện hữu cá thể không sanh, không chết, không biến chuyển, không thể quan niệm, vượt ngoài sự tạo tác của ý niệm. Nó là chân lý tuyệt đối. Nó không bao giờ tan rã. Nó siêu vượt thời gian và không gian. Nó không phải là một vật, một đối tượng của hiểu biết, một đối tượng của trí thức. Nó là sự lồng lộng không đáy của thực tại tuyệt đối, chiếu soi rực rỡ. Ngay một thành phố lớn như New York, có nhiều người cùng làm việc cật lực với nhau giống như một sự gặp gỡ thường trực của người ta. Một vài trăm năm nữa, ai biết rằng nó sẽ như thế nào, hay ngay cả nó không còn ở đó? Và dầu nếu còn nhiều người và xe cộ ở đó, họ cũng không phải là những

114 người như cũ và xe cộ như trước. Mọi thứ đều vô thường trong thế giới này, gồm cả thân thể chúng ta, thân thể chóng vánh như huyễn của chúng ta, một hiện tượng kết hợp nhất thời, kết quả của chỉ sự kết hợp tinh chất nam nữ qua duyên nghiệp của cha và mẹ trong đời này. Nhưng một trăm năm nữa, thân thể này sẽ là cái gì? Mọi sự đều như vậy. Đấy không phải là cái gì đe dọa hay làm thất vọng, cũng không phải nó được nói ra để xem nhẹ sự quan trọng của chúng ta. Đấy chính là bản chất của mọi hiện tượng kết hợp. Chúng ta đều sẽ chết và tan rã, để lại mọi thứ, trừ những tích tập nghiệp báo của chúng ta. Và lúc đó, khi chúng ta ra khỏi đời này, chỉ có những công đức và sự chứng ngộ của chúng ta là có lợi lạc cho chúng ta. Không có cái gì khác của thân thể này và cuộc đời này là còn lại. Đây không phải là ca ngợi, và không phải là sỉ nhục, không bi quan cũng không lạc quan; không có sự phán xét ở đây. Đấy chỉ đơn giản là một sự nhận biết khách quan sự vật thực sự là thế nào, chuyện ấy chính chúng ta có thể nhận biết và chứng nghiệm: rằng mọi hiện tượng hợp sanh là thoáng chốc, như huyễn, không bền và vô thường. Mọi hiện tượng hợp sanh có ra là qua luật duyên sanh, sanh ra trong tương thuộc. Tất cả chúng đều liên hợp, liên lập, tương thuộc. Khi những nhân và duyên hội hợp, những sự vật tạm thời xuất hiện. Khi những nhân và duyên hết đi, những sự vật tan rã, như ngọn lửa tắt khi nhiên liệu cạn hết. Đây là những hiện tượng tương đối sinh ra trong bối cảnh của tánh Không vĩ đại như thế nào. Không có người sáng tạo nào khác ngoài định luật vô ngã của nhân quả nghiệp báo. Những người biết hai chân lý này, sự tương thuộc, duyên sanh tương đối và tánh Không tuyệt đối, được gọi là những anh hùng không sợ hãi, những bồ tát gan dạ, những chiến sĩ tỉnh ngộ về tâm linh. Đây là lý do tại sao trong dòng của chúng ta, từ thời vị đại đệ tử Vidyadhara Jigme Lingpa của Longchenpa vào thế kỷ mười tám, mọi đạo sư, từ Jigme Lingpa qua Gyalwai Nyugu đến Patrul Rinpoche xuống đến ngày nay, đều được đặt chữ đầu của pháp danh là Jigme, nghĩa là không sợ hãi. Các vị biết

115 rõ tánh Không bất biến tuyệt đối, bản tánh căn nguyên của tâm thức mình. Ở ngay giữa những hiện tượng thoáng qua, như mộng và như huyễn, các ngài không sợ trước cái chết và vô thường. Chúng sanh bình thường không thường rõ ràng nhận thấy, nổi bật trong tâm thức họ, sự sợ hãi không thể chối cãi về cái chết, bệnh tật, già nua, cô độc, những vấn đề và những khó khăn đủ mọi loại; ví dụ sợ mất cái họ có, sợ trải nghiệm điều họ không muốn trải nghiệm, sợ được điều họ không muốn hay không được điều họ muốn… Bởi thế, toàn thể con người của họ bị lo âu, hy vọng và sợ hãi trói buộc, sự sanh sôi không cùng của bám chấp và trụ trước. Hy vọng và sợ hãi là một giới hạn khổng lồ, những rắc rối nảy nở không cùng. Làm thế nào chúng ta có thể hiện thực hóa sự can đảm không sợ hãi hoàn hảo của những chiến sĩ thức tỉnh, những bồ tát anh hùng? Bản tánh chân thật của tất cả mọi sự vật là đại không, nó không phải là một cái trống rỗng, không có gì cả: mà nó là tánh Không sáng ngời. Nó có phẩm tính “là vậy,” tánh Như, Như Lai Tạng. Nó là tánh Không phú bẩm với lòng bi và trí huệ. Nó được gọi là Đại viên mãn tự nhiên, Đại viên mãn bẩm sanh, Dzogchen; cái đại không này có tính chất sáng ngời, sự không thể phân chia của cái biết và tánh Không, của tánh giác và lòng bi. Nơi đây chân lý và tình thương không điều kiện không sai khác. Nền tảng hay căn cứ của bản tánh tối hậu của hiện thể được gọi là Đại viên mãn bẩm sinh nền tảng, Đại viên mãn nền tảng. Nó là thanh tịnh, toàn thiện, và viên mãn từ vô thủy, không thiếu hụt cái gì, thoát khỏi thoái hóa và biến đổi. Nó không được cải thiện thêm trong niết bàn cũng không hư hao trong sanh tử. Nó cũng như kim cương, siêu việt, không vướng mắc vào những nguyên nhân và điều kiện: Đại viên mãn tự nhiên. Emaho! Dầu cái Đại viên mãn sáng ngời này là một và bất nhị, một toàn thể đồng nhất không thể phân chia, nhưng để giải thích, nó được phân thành nền tảng, con đường và quả. Đại viên mãn Dzogchen được giải thích theo ba cái này,

116 chúng thật ra cũng không thể phân chia, tuy nhiên được giải thích như là một bộ ba để cho rõ ràng: cái thấy, thiền định và hành động. Cái thấy, tri kiến nghĩa là cái nhìn tổng quan, viễn tượng, cái nhìn bao quát; thiền định ám chỉ sự thực hành hiện thực làm quen thuộc với cái thấy ấy, cái mà người ta đã được giới thiệu, dẫn nhập, và cái mà người ta đã nhận ra hay xác nhận một cách kinh nghiệm cho chính mình; và hành động hay hạnh, cư xử, là hoạt động giác ngộ hiện thực trong đời sống. Dù căn cứ hay nền tảng là một, toàn thể và không thể phân chia, ba cái này có thể được làm rõ như cái này sanh từ cái kia: Trước hết, phải có cái thấy, bấy giờ thiền định chân thật và hành động chân thật sinh ra, cái này sau cái kia, từ sự tỉnh giác và nhận biết ấy. Dù trong chân lý tuyệt đối, nền tảng và quả là không tách lìa, thì trong chân lý tương đối con đường còn phải trải qua để hoàn thành cây cầu như cầu vồng này. Bẩm sinh trong tánh Không này cái rỗng rang và sáng ngời này, thật tánh của tâm thức mình, cái Đại viên mãn bổn nhiên là những phẩm tính không thể nghĩ bàn, tất cả những phẩm tính giác ngộ của chư Phật mười phương trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những phẩm tính siêu việt này vốn là hiện giờ một cách bẩm sinh. Chúng ta có thể nói rằng chúng là tiềm năng, nhưng không phải là một tiềm năng cần khai triển trong tương lai. Chúng vốn là hiện giờ một cách bẩm sinh, và có thể bước vào ngay hôm nay. Nếu và khi một hành giả nhận biết thật tánh của hiện thể vốn sẵn đủ của mình, bản tánh tối hậu của tâm thức, cái Đại viên mãn tự nhiên này, bấy giờ, trong một đời, trong ngay vài năm hay ngay chỉ vài khoảnh khắc tâm thức trong chính thân thể này Phật tánh tối thượng toàn thiện, viên mãn được hiện thực hóa. Cái Đại viên mãn bổn nhiên này, cái tốt đẹp nền tảng được gọi là Phật tánh, Phật tâm, hay Rigpa, là tự tánh của chúng ta. Nó là “dòng hiện thể” của bản thân chúng ta, gyu trong tiếng Tây Tạng. Nó là hiện thể chân thực nhất của chúng ta. Nó không chỉ là tâm chúng ta. Nó là hiện thể của chúng ta. Nó là cái mà chúng ta là. Đấy là tại sao nó được gọi là con đường nhanh chóng và

117 thoải mái hay đầy đủ phong lưu. Nó không đòi hỏi một số nỗ lực, gian nan hay khổ hạnh, hay sự kiên trì lâu xa trong thực hành, giống như có nói rằng Bồ tát thừa cần ba vô số kiếp để hoàn thành. Nó là trong đời này, nó nằm trong khoảnh khắc này: ngay giờ đây, khoảnh khắc nhất niệm của Đại viên mãn, gọi là sự nhận biết Rigpa. Emaho! Longchenpa toàn giác nói: Bởi vì mọi sự vượt khỏi tốt và xấu, Thiện cảm và ác cảm, chọn lấy và chối bỏ, Khi tôi thấy những chúng sanh bị bắt nhốt trong trò phô diễn huyễn hóa này, Làm sao tôi không thể phá ra cười! Trong những giáo lý của Phật giáo, trong những kinh và những thừa thực hành tổng quát, phải nhiều đời để khai triển qua các địa (bhumi) và chứng ngộ Phật tánh hay những quả khác của con đường. Trong giáo lý Đại viên mãn, con đường nhanh chóng và thong dong là ngay giờ đây. Khi khoảnh khắc của Đại viên mãn xảy đến, ngay trong khoảnh khắc nhận biết nó, quen thuộc với nó, xác định xác tín toàn triệt bên trong, đó là cái khoảnh khắc cốt tử, khoảnh khắc vĩ đại của Đại viên mãn. Nó không phải là cái gì trong tương lai. Đó là tại sao nó được gọi là con đường nhanh chóng, trần trụi, trực tiếp, đường tắt kim cương, bình minh của Vajrasattva, bậc kim cương. Cái này là ngay giờ đây, bao giờ cũng hiện diện, bao giờ cũng có thể đi vào. Đấy là tạo sao chúng ta thốt lên, Emaho! và gọi nó là Pháp kỳ diệu, hoan hỷ của Đại viên mãn. Nó là lạ lùng, kỳ lạ, mới mẻ, khó tin dù bạn chọn cách diễn dịch nào niềm hoan hỷ bao la ấy. Nó là một lối tắt. Nó là con đường trực tiếp. Nó là cách thức rút Phật tánh của chúng ta ra khỏi vỏ bọc của những ý niệm, của nhị nguyên. Lưỡi gươm Rigpa thì luôn luôn ở đây. Tại sao chúng ta không rút nó ra khỏi vỏ và vung nó lên không sợ hãi trong bầu trời tự do không ngăn ngại?

118

Khi người ta có sự tiếp xúc nhờ thiện nghiệp với một vị thầy và những lời dạy, niềm tin tưởng, sự tin cậy và sùng mộ khởi lên đối với vị thầy và những lời dạy, và người ta ở đúng chỗ vào thời gian đúng lúc. Khi mọi điều kiện này đã đầy đủ, không có gì ngăn che kinh nghiệm trực tiếp, trần truồng về tánh giác nội tại của mình, thật tánh của tâm thức mình cái Đại viên mãn bổn nhiên. Cái toàn thiện và trọn vẹn bẩm sinh này của hiện thể chúng ta là cái những giáo lý này chỉ thẳng ra, không phải là một loại kho tàng huyền bí nào ở Tây Tạng xa xôi. Không cần phải lo lắng nhìn mọi chỗ, chép lại mỗi mẫu nhỏ thông tin về kinh nghiệm này và thăm viếng mỗi vị lama trên thế giới. Người ta có thể thực sự kinh nghiệm ngay đây và bây giờ thực tánh của chính mình, Rigpa, sự hiện diện bổn nhiên không thể diễn tả này. Ngay lúc này đây nó là sẵn sàng và phản ứng tức thì cái tâm rỗng rang lồng lộng, bao la và không tự quy vào mình này. Khi bạn nghe những lời dạy như thế này, những lời nói giống như những bong bóng hay tia lửa nhỏ nổ trong không khí và tan biến mất. Nếu bạn viết ra trong một sổ tay và để cuốn sổ trên một giá sách, sau vài tháng những dòng chữ ấy phủ đầy bụi và chúng sẽ trở thành cái gì ở ngoài người ta đến độ họ không có thì giờ xem nó và người ta muốn có thì giờ để tìm lại bằng cách nào đó trong chính mình. Điều này có thể là một nguyên nhân khác của căng thẳng. Tuy nhiên, ý nghĩa chân thật của lời nói này là cái vốn ở trong chúng ta ngay bây giờ đây. Nó không cần phải được viết ra và để trên kệ sách. Nó không bao giờ phủ bụi. Chúng ta luôn luôn có thì giờ để đi vào nó, để liên hệ với nó. Nếu chúng ta không liên hệ với nó ngay lúc này, thì còn chờ khi nào? Trong những giáo lý chung của những thừa khác nhau, có một số lượng để đọc và học, như là Tam Tạng, với mọi phần của chúng, và cũng có kinh và tantra. Nhưng giáo lý này gọi là Đại viên mãn, con đường trực tiếp, trần truồng của tánh giác bổn nhiên thì vượt khỏi tâm thức. Nó là giây phút cho mọi thấy biết nhị nguyên sụp đổ, hay được để trong trạng thái tự nhiên của chúng, trong cách thức thực sự của tự chúng, đó là cái rỗng rang bao la và trống không của tánh Không. Đây là cái nhìn toàn cảnh, cái thấy. Đây cũng

119 là sự thực hành và cách thức giác ngộ để sống cuộc đời hàng ngày của chúng ta. Thế đấy, cái này bao gồm cái thấy, thiền định và hành động của Đại viên mãn. Không có gì để làm ngoại trừ ở trong cái mà người ta đã nhận biết, hay đã được giới thiệu vào, Đại viên mãn bổn nhiên đã được khám phá cho chính mình, ở trong chính mình, sự hiện diện thanh tịnh và đích thật. Con người lang thang, giác ngộ vinh quang và vĩ đại Paltrul Rinpoche nói rằng trong những con đường chung ám chỉ đến hầu hết những thừa Phật giáo thì tư tưởng này cũng giống như buộc xích với một tư tưởng khác như một sợi xích không cùng của diễn dịch mà chúng ta vướng mắc vào, do bởi những cố gắng ý chí của chúng ta. Nhưng trong con đường Đại viên mãn, mọi hình tướng, mọi hiện tượng đều tự nhiên tan biến vào trạng thái tự nhiên của chúng, tự xuất hiện, tự giải thoát, vượt khỏi bám trụ và điểm quy chiếu. Đơn giản không có gì để trói buộc hay vướng mắc, và không có ai để bị vướng mắc. Mọi sự được để cho đúng như nó là, trong cách thức tự nhiên của nó, dù nó có xuất hiện. Trong những giáo lý Trekchod hay Cắt Đứt của Đại viên mãn tự nhiên, Longchenpa hát “Hãy để cho nó như nó là, và an nghỉ tâm thức mệt mỏi của con.” Vì ở đây thực sự không có cái gì để mất hay để được, không có cái gì để hy vọng hoặc sợ hãi. Hãy cho phép tâm thức đi đến chỗ nào nó muốn, như Kinh Kim Cương gợi ra khi nói, “Hãy trau dồi tâm tỉnh giác nó không trụ ở chỗ nào cả” (Hán văn: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm chú thích của dịch giả bản Việt). Đạo sư Mahamudra, thành tựu giả Ấn Độ Maitripa, hát, “Hãy để cho những tư tưởng tự do đi, như một con chim bồ câu thoát khỏi một con tàu giữa đại dương mênh mông. Vì như con chim không tìm thấy nơi nào để đậu mà chỉ có cách trở lại chiếc tàu, những tư tưởng không có chỗ nào để đi ngoài việc trở lại chỗ khởi nguồn của chúng.” Hãy biết cái nguồn gốc này, bản thân tinh túy tâm, và tự do. Cái gì biết thật tánh của mọi sự vật? Người biết đích thực là phương diện trống không, tỏ biết của tâm Phật bổn nguyên Samatabhadra, nhân cách hóa tánh giác Rigpa, Phật Samantabhadra bổn nguyên, là rất, rất quan trọng.

120

Chính cái tịnh quang, Phật tánh sáng ngời này thấu biết. Trí huệ tánh giác bổn nhiên, Rigpa, đang hiện hành, hoạt động qua chúng ta ngay lúc này, giá mà chúng ta biết nó. Tâm thức thế gian của chúng sanh, được phú bẩm sự tỏ biết hay thấu hiểu này, lại dùng sự tỉnh giác để không biết, để vô minh, để làm lầm lạc chính nó. Rất quan trọng biết được rằng làm sao điều này xảy ra; không chỉ biết Phật bổn nguyên, mà còn biết cái vô minh nguyên sơ của chúng sanh, nó vận hành như thế nào. Trong trạng thái này của tánh giác bổn nguyên, hằng hằng thường trụ Samantabhadra, “Trọn Hảo,” nghĩa là mọi sự đều tốt đẹp, mọi sự đều toàn thiện toàn hảo từ vô thủy. Bất cứ điều gì khởi lên, Samantabhadra nhận biết như là sự phô diễn tự sáng, tự nhiên, không phải là những tri giác nhị nguyên phân biệt; như thế Samantabhadra vẫn tự do từ khởi thủy trong cảnh giới này của mọi sự được biết và được thông tỏ như là sự phô diễn sáng tạo và tự nhiên. Tuy nhiên, khi những sự vật khởi lên trong tâm thức chúng sanh, chúng bị tri giác sai như là khác biệt, như “cái khác,” như nhị nguyên. Trong sự mê lầm này, chúng sanh trở nên lầm loạn (như Narcissus), và qua vô minh của chính nó để cho lạc vào sự tự lừa gạt và mọi loại rắc rối khó khăn và khổ đau. Bởi thế có nói trong Cầu Nguyện của Samantabhadra (không phải là một cầu nguyện đến Samantabhadra, mà là sự xác nguyện của chính Samantabhadra), “Một nền tảng, hai con đường.” Nó nghĩa là chỉ có một nền tảng độc nhất của cái đang là, của cả Phật bổn nguyên và chúng sanh mê lầm: tuy nhiên có hai con đường cá thể: con đường của toàn thiện viên mãn bổn nguyên, và con đường của mê lầm và nô lệ. Tất cả chúng sanh, dầu ý thức hay không ý thức, đều muốn và cần gặp gỡ cái toàn thiện sẵn đủ bổn nguyên này, cái gọi là Samantabhadra. Nhưng làm thế nào để gặp gỡ Phật ấy chính là bản tánh đích thật của chính họ? Đây là điểm chủ yếu của con đường, con đường thực hành của Đại viên mãn. Khó mà gặp Phật bổn nguyên này, Phật pháp thân, Samantabhadra. Bởi thế, trên cấp độ

121 năng lượng, Pháp thân biểu lộ như Báo thân, Dorje Chang, Vajradhara; hay ngay cả trong thế giới này, trong Hóa thân, như là Thích Ca Mâu Ni, giáo hóa bằng lời và bằng hình thể. Những chúng sanh có thể thực sự đích thân gặp gỡ thực tại này theo một cách phù hợp với họ. Ba Phật: Phật bổn nguyên Samantabhadra là pháp thân toàn thể này, thực tại tuyệt đối vô tướng; Phật Báo thân, Vajradhara hay Dorje Chang, là cấp độ năng lượng, cấp độ thị kiến; và hóa thân, thân thể hình sắc, Thích Ca Mâu Ni, Phật lịch sử. Ba vị Phật này thực sự là một sự nhân cách hóa của Rigpa. Những ai có nghiệp tốt, những tích tập phước đức và trí huệ, có thể có may mắn gặp đích thân thân thể hình sắc của Phật Thích Ca Mâu Ni; chẳng hạn những ai sống ở Ấn Độ vào thời Phật. Đây là sự trùng hợp hay hội tụ của nghiệp tốt của họ với năm trăm đại nguyện của Phật, trải qua năm trăm đời Bồ tát, có thể làm lợi lạc cho chúng sanh sau khi giác ngộ. Như thế, sự phối hợp của những lời nguyện của ngài và nghiệp tốt, những hành động tích cực của một số chúng sanh, đưa số người ấy vào thế giới này trong thời đức Phật. Đó không phải là một may mắn nhiều người trong chúng ta có, được gặp Phật Thích Ca bằng con người của ngài. Tuy nhiên chúng ta có may mắn gặp đích thân những đại diện sống của ngài: những bậc thầy giác ngộ trong nhiều truyền thống và dòng phái phát sanh từ ngài. Giáo lý Dzogchen đôi khi được gọi là Maha Ati, vì nó thuộc về bậc thứ chín của tantra, Tantra Yoga Maha Ati. “Ati” nghĩa là chót đỉnh, bởi vì với cái thấy từ trên cao, từ đỉnh cao nhất của núi, bạn có thể thấy toàn bộ mọi mặt của ngọn núi và tất cả những con đường dẫn đến từ bên dưới. Bạn có một cái thấy tổng quát, một quang cảnh lớn rộng. Khi một số người có vẻ đi lên ngọn núi tâm linh theo một lối, uốn khúc theo chiều kim đồng hồ, những người khác leo lên bởi một con đường ngược chiều kim đồng hồ, nếu bạn nhìn từ trên, bạn có thể thấy mọi con đường khác nhau đều đi đến đỉnh. Nhưng khi nhìn từ dưới, có vẻ người ta đang đi trong những hướng khác nhau, trên những con đường khác nhau, và có vẻ như đối nghịch và không thể hòa hợp. Thật ra, mọi con đường đều quy tụ về chót đỉnh vĩ đại của sự tiến hóa tối hậu của chúng sanh là Phật tánh, cái Đại viên mãn toàn thiện.

122

Khi chúng ta có cái thấy từ trên cao, chúng ta nhìn thấy mọi con đường và mọi thực hành tương hợp với nhau như thế nào, cái gì là cốt lõi hay nguyên lý dẫn đạo của chúng. Tuy nhiên, từ bên dưới thường là chúng ta không thể thấy khu rừng vì đang dò dẫm trong cây cối. Bởi thế, điều quan trọng là được giới thiệu với cái thấy từ bên trên ngay cả khi chúng ta đang thực hành những thực hành tương đối như một nguyên lý dẫn đường của phía dưới đến độ những thực hành tương đối của chúng ta được nâng cấp lớn lao bởi cái thấy về thực tại tuyệt đối, và chúng ta có một cái thấy tổng quan đích thật, dầu cho chúng ta đang làm việc một cách thứ lớp qua nhiều cấp độ khác nhau. Chúng ta không nên vướng vào những chủ nghĩa bộ phái hay chỉ trích. Đôi khi, trong những nước Phật giáo khác nhau hay những giáo lý khác nhau, người ta nói, “Ồ, những hóa thần bổn tôn ấy mà các lama diễn tả, như Vajradhara, chẳng có ăn nhập gì với đức Phật. Đó là những thứ gì khác với giáo lý. Nó đã trộn lẫn với Ấn Độ giáo.” Hay có thể, “Những hóa thần ấy giống như những vị thần của Ấn Độ. Đó không phải là Phật giáo thuần túy. Phật giáo không có những thần. Phật giáo là vô thần, chỉ dựa trên Phật tánh.” Hay, “Chỉ có Phật giáo Tây Tạng mới có thể đem lại giác ngộ đích thực trong một đời.” Đấy là lầm lẫn, một thành kiến thiên chấp, cái thấy từ bên dưới; chúng ta không thể thấy toàn bộ khu rừng vì vô số cây cối. Nhưng khi chúng ta thực hành theo Đại viên mãn, đó như thể là chúng ta trèo từ bên dưới (qua những phương tiện tương đối), trong khi thấu hiểu cái thấy từ bên trên (thực tại tuyệt đối), sử dụng cả hai cánh này (chân lý tương đối và tuyệt đối) để bay thẳng đến Phật tánh. Chúng ta có thể nhìn điều đó như thế này: Chúng ta đi lên từ phía dưới với sự thực hành những thực hành tương đối, bao gồm xử sự, đạo đức và thiền định; trong khi cùng lúc ấy chúng ta đi xuống từ bên trên với cái thấy bao la. Trong cách ấy, cái tương đối và cái tuyệt đối là trùng hợp, nối kết, trong bất cứ thực hành nào chúng ta làm. Đây là sự thực hành sáu hoàn thiện, sáu ba la mật, mỗi cái hoàn toàn thấm nhuần bát nhã ba la mật, cái hoàn thiện thứ sáu. Và đây là cách thức, sự thực hành của Đại viên mãn trong bối cảnh Bồ tát

123 thừa: đi xuống từ bên trên với cái thấy, sự thấu hiểu phù hợp với cái thấy tối hậu, chân lý tuyệt đối, tánh Không; trong khi đi lên từ bên dưới bởi những thực hành tương đối, phù hợp với khả năng hiện thực của chúng ta. Một ngày nọ một yogi đi từ hang của mình xuống núi để khất thực, và ông gặp một nhóm trẻ con trong chợ. Chúng tranh chấp lẫn nhau, cãi cọ với nhau. Một đứa nói, “Cha tao có một khuôn mặt và sắc tướng sắc vàng tuyệt đẹp, cao lớn hơn bất kỳ ông cha nào khác.” Một đứa trẻ khác nói, “Ông chú tao có một khuôn mặt chiếu sáng kỳ diệu, giống như một hoa sen. Ông là người mạnh mẽ hơn bất kỳ ông chú nào khác.” Và một đứa khác lại nói, “Không, chính cha tao là người đẹp đẽ nhất và mạnh mẽ nhất.” Và một đứa khác nói, “Không, chính chú tao là người đáng yêu, tráng lệ và quyền lực nhất.” Mỗi đứa trẻ đều có hình ảnh nổi bật riêng về cha chúng, và chúng dành nhau ai là người đứng nhất. Chúng tranh chấp loạn xạ đến nỗi vị yogi không thể giải thích gì cho chúng. Vị ấy liền trở về hang của mình và viết lại chuyện này, liên hệ nó với sự tranh chấp bộ phái của thời ấy. Có phải có nhiều chủ nghĩa bộ phái trong những trường phái tôn giáo khác nhau, không chỉ trong Phật giáo mà trong tất cả các tôn giáo? Mỗi đứa trẻ có cha hay chú của nó, tự nhiên thôi, và chúng đều nghĩ họ là người tốt đẹp nhất, theo ý kiến từng đứa. Không ai cần xét xử và quyết định ai là người cha hay người bảo hộ tốt nhất. Mỗi đứa trẻ có cha mẹ, thế là đủ. Tương tự, như tất cả mọi trường phái của Phật giáo, chúng ta đều theo đức Phật. Và tuy nhiên chúng ta lại thấy chúng ta cãi vã Phật nào là tốt nhất, Phật Thích Ca hay Phật Samantabhadra nguyên thủy, những bổn tôn như Quán Thế Âm, Tara, A Di Đà, hay Văn Thù hay Phật Vajradhara, hay những Phật khác. Tuy nhiên chúng ta khoác y phục cho các ngài, người nào là khuôn mặt cha mình, và chúng ta tranh chấp như tất cả chúng ta thuộc về những bộ tộc khác nhau, và công việc của chúng ta là tìm ra ai là người tốt nhất. Đấy cũng giống như những đứa trẻ con, đứa nào cũng yêu quý cha mẹ nó và đề bạt cha hay mẹ mình là nhất. Thật là trẻ con.

124

Khi chúng ta thấu hiểu bản tánh tối hậu của Dzogchen, chúng ta hiện thực hóa Phật tánh vốn thức tỉnh. Bấy giờ không còn cái gì khác để làm. Thật sự không cần có bàn cãi nào đâu là cách thức tốt nhất để đến đó. Bản tánh tối hậu của tất cả sự vật, cái đại Không này hợp nhất với tấm lòng sáng ngời của đại bi, được nhân cách hóa như là Phật Samantabhadra bổn nguyên, sự nhân cách hóa rốt ráo tánh giác vốn sẵn của chính mình, Rigpa. Nó là Như lai tạng, Phật tánh trong tất cả chúng sanh. Nó là cái Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ dưới cội bồ đề ở Bodh-gaya khi ngôi sao mai mọc trên chân trời phía đông. Cái mà ngài thức tỉnh để nhận ra nó, kinh nghiệm trong chính ngài, là bản tánh đích thật của tất cả chúng sanh, không trừ một ai. Nó là cái mà bậc đạo sư, bậc thầy toàn giác của Đại viên mãn Longchenpa chứng ngộ trong dòng thân tâm của chính ngài. Đấy là vì sao ngài được gọi là Long- chen, pháp giới vĩ đại, ám chỉ pháp giới tánh Không vô hạn, sự vô cùng của bản tánh Không của chính mỗi người. Tất cả mọi điều này là đồng nghĩa khi chúng được thấy đúng như chúng là. Pháp danh của đạo sư Dzogchen là Longchen Rabjam nghĩa là pháp giới vô tận. Nó đồng nghĩa với đại không hợp nhất với lòng đại bi. Nó là tên của một vị lama, nhưng chúng ta không thờ phụng một con người hay một lama riêng biệt nào. Chúng ta xác nhận và hiện thực hóa ý nghĩa của pháp danh đó, rằng tự tánh của mình là pháp giới vô biên. Có rất nhiều vị thầy tâm linh đã nhận biết bản tánh chân thật vốn sẵn này, chứ không chỉ Longchen Rabjam. Thật vậy, tất cả các bậc thầy chứng ngộ này là không thể phân ly trong tâm Phật, Rigpa, nó là cái vốn đã chứng ngộ cũng như đang được chứng ngộ. Ngay trong thế giới này, và ngay hiện giờ, có nói rằng có nhiều yogi ẩn dấu tích hay bí mật, tiếng Tây Tạng gọi là bepay naljor. Nghĩa là những người đã chứng ngộ mà không thông thường được biết như những hiền triết hay bậc thánh vĩ đại, nhưng đã nếm sâu xa quả của giác ngộ, và đang sống nó. Có lẽ họ đang làm một cách vô danh công việc tốt đẹp của họ ở đây, giữa chúng ta ngay hiện giờ!

125

Pháp giới bao la vô hạn này là bản tánh không thể nghĩ bàn của chính mình. Ai có thể nói người này đã chứng ngộ nó và người kia không có nó? Khi chúng ta đi khắp thế giới hay kinh nghiệm những chiều kích khác, có rất nhiều người đã nếm trải nó. Chúng ta có thể thấy nó trong cách ứng xử của họ, trong dáng điệu của họ, và trong những câu chuyện được kể lại không chỉ trong truyền thống Đại Toàn Thiện hay truyền thống Phật giáo, mà trong mọi truyền thống, và trong thế giới Tây phương của chúng ta nữa. Thật tánh này thì bao la và không thể quan niệm nổi đến độ ngay một số chim chóc và thú vật và chúng sanh trong những chiều kích không thấy được khác có thể nói là đã chứng ngộ nó, như trong một số câu chuyện Bản Sanh và những chuyện kể khác của Ấn Độ thời cổ. Nó luôn luôn nói rằng mọi sự là sự phô diễn tự sáng tỏ của Phật Samantabhadra bổn nguyên. Có hằng hà sa số chư Phật và hằng hà sa số chúng sanh. Ai có thể nói người nào ở ngoài nó? Trong những tantra Đại viên mãn, cái thanh tịnh bổn nguyên vô cùng này (kadak) được giải thích rõ ràng, gồm mọi sự vật và mọi chúng sanh. Theo các tantra, rất quan trọng cần trau dồi và thực hành cái nhìn toàn cảnh thiêng liêng, cái nhìn thấy thanh tịnh này: nhận biết mọi sự vốn toàn thiện, toàn hảo tự bản chất, không thấy có một số chúng sanh như là thấp và mê, và một số chúng sanh khác là cao, tiến hóa hơn, là giác ngộ; thấy biết tất cả chúng sanh là thành phần của mạn đà la vô biên này của Đại viên mãn bổn nhiên. Nếu bạn gặp một vị thầy đại diện dòng phái và truyền thống Đại viên mãn, đây cũng là một quan niệm thiên kiến; nó là một may mắn phước đức, nhưng nó vẫn còn là một ý niệm giới hạn. Không cần thiết gì xem là quá nghiêm trọng ý niệm rằng một lama đại diện cho Đại viên mãn hay Đại Ấn, còn những vị thầy và người ta ở chỗ khác thì không, như thể là những chúng sanh khác chẳng ăn nhằm gì với Đại viên mãn. Cái nhìn thấy thiêng liêng đích thực, cái tri giác thanh tịnh thường được nói đến trong con đường Mật thừa, ngụ ý rằng chúng ta có thể và cần phải thấy mọi sự là thanh tịnh toàn thiện và tốt đẹp bẩm sinh; tất cả, vượt khỏi tốt và xấu, thì rốt ráo viên mãn

126 như vốn là, dù chúng biểu hiện trong chốc lát; bởi vì, vượt ngoài sự bám chấp nhị nguyên, mọi sự đơn thuần là sự phô diễn của pháp tánh, thực tại tuyệt đối, tánh Như. Nó là sự tự phô diễn hay là sự tự rạng rỡ của Rigpa, của Phật Samantabhadra. Nó là sự tự âm vang như tiếng vang dội của pháp tánh, trạng thái tuyệt đối của tất cả chúng sanh. Tất cả chúng ta đều không hề lìa khỏi nó. Những yogi Đại viên mãn chân thực có một tấm lòng và tâm thức rộng mở, tùy thuận, không loại trừ cái gì ra khỏi mạn đà la toàn thiện của cái thấy biết thanh tịnh của họ. Tràn đầy trí huệ, tình thương không điều kiện và thiện cảm, họ không cần chọn lấy một cách thức riêng biệt nào để thấy hay hành động, họ không cần khước từ và chối bỏ bất cứ điều gì. Đây gọi là hoạt động tự nhiên, hay thoải mái vô tư, của Đại viên mãn. Nó không phải là một cái gì chúng ta có thể dễ dàng bắt chước. Tuy nhiên với bất kỳ mức độ nào chúng ta có thể nhận biết và tham dự trong nó, lợi lạc lớn lao lưu xuất, cho chính mình và cho những người khác. Khởi điểm một bài ca kim cương, tôi đã hát, “Tán thán hai mươi lăm đạo sư của con.” Tôi có hai mươi lăm vị bổn sư từ ái cũng như nhiều vị thầy khác, bắt đầu với Khenpo Ngakga danh tiếng, đại đệ tử của Patrul Rinpoche, và đệ tử của Khenpo Ngakga là Nyoshul Shedrup Tenpai Nyima, vị guru gốc của cá nhân tôi. Những vị lama này đối với tôi là hiện thân của tất cả những phẩm tính giác ngộ tuyệt hảo được nói trong kinh điển, tantra và luận. Bắt đầu bài ca này về tánh Không vĩ đại, tôi hát “Kính lễ đạo sư vĩ đại Longchen Rabjam, không tách lìa với những bổn sư của con, những vị nhận biết pháp giới bao la vô hạn của tánh giác, đặc biệt là Shedrup Tenpai Nyima, mặt trời và mặt trăng của sự học và thành tựu tâm linh. Với các ngài con xin tôn kính và lễ lạy. Dưới chân sen của các ngài con tôn kính và lễ lạy.” Tôi cảm thấy biết ơn, thờ kính và quy ngưỡng với những đạo sư kim cương vinh quang này, những vị tổ và những bổn sư của tôi, các ngài cho tôi mọi thứ: không chỉ lời dạy tâm linh và sự hướng dẫn cá nhân, mà còn thức ăn,

127 quần áo và sự bảo bọc trong thời nhỏ tuổi. Tôi không bao giờ có thể trả hết sự biết ơn với các ngài. Thật ra, sự biết ơn với những vị thầy và dòng phái và những bổn sư đi trở lại tới chính Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài quá bi mẫn xuất hiện trong thế giới này để chỉ dạy và giải thoát cho chúng ta. Đức Phật là vị thầy của tất cả vị thầy. Mọi phẩm tính tích cực khởi lên trong dòng đều nhờ lòng tốt của ngài và giáo lý của ngài, Phật pháp thiêng liêng. Sự biết ơn và tôn kính đầu tiên là cho những người gọi là “những vị ở trên.” Điều này ám chỉ đến những vị trong quá khứ hay những vị cao hơn, tiến hóa hơn như dòng các bổn sư và chư Phật. Sự biết ơn thứ hai là cho những người ngang với chúng ta, đặc biệt quan trọng nhất, người mẹ yêu dấu của mình trong đời này, người đã sanh ra cuộc đời làm người quý báu này, thân thể này với tất cả những rảnh rỗi, may mắn, phú bẩm và khả năng của nó, gồm cả sự gặp gỡ và thực hành sự giải thoát gọi là Phật pháp. Mọi tán thán, tôn kính và biết ơn cho bà mẹ của tôi, Chodzom Palsang, người cho tôi cuộc đời, cho tôi thân thể, người nuôi nấng tôi ngày đêm khi tôi còn là một đứa bé không đủ sức tự túc, người nuôi tôi lớn lên, là vị thầy đầu tiên của tôi, và dạy dỗ tôi những cách thức của thế giới, gồm cách nào làm những việc nhỏ nhất mà không có chúng thì tôi không thể còn sống đến ngày nay. Bà mẹ của tôi sanh ra thân thể con người này được phú bẩm với tám điều tự do và mười khả năng. Người ta có thể đọc những điều này trong những bản văn Lam Rim khác nhau, giải thích những thực hành sơ khởi. Tôi viết Tấm Gương Của Những Điều Thiết Yếu khi tôi ở Dordogne, sau khi ở Pháp đã năm, sáu năm, để kể cho bà mẹ sùng mộ của tôi về điều đã xảy ra cho đứa trẻ lang thang của bà, nó đã đến những xứ sở ngoại quốc nơi người ta bay trên trời trong những con chim màu bạc và du hành trên mặt đất và mặt biển trong những máy móc quyền năng; nơi có rất nhiều màu sắc và kinh nghiệm đủ loại; nơi có mọi loại đàn ông và đàn bà đủ màu sắc, to lớn và nhỏ bé, nơi một số người mặc hàng trăm áo quần như đồ trang sức cho thân thể họ, và những người khác mặc những đồ chật cứng hay đi trần truồng trên

128 bờ biển; trong khi tôi lang thang với không gì khác hơn những áo, khăn bọc bên ngoài màu vàng cam đã cũ và một mũ rơm che cho cái đầu trọc nhăn nheo khỏi nắng; nơi có những bộ máy cao hàng trăm lần cây cối, những biu đinh (building) xuống đến hàng trăm mét dưới mặt đất, và người ta đi trong những con tàu siêu tốc, những máy bay siêu thanh, trong những tàu ngầm nguyên tử; nơi những nhà khoa học hình như có quyền kiểm soát ngay cả mặt trời mặt trăng mọc và có thể chơi với năm đại đất, nước lửa, gió và không gian như các chư thiên, như những nhà huyễn thuật, bay đến mặt trăng, ngay cả đi đến mặt trời; nơi người ta giàu quá sức tưởng tượng, và người nghèo không ai giúp đỡ; người ta có quá nhiều kinh nghiệm như mộng khác nhau; những điều thích thú người ta chưa bao giờ nghe, mơ tới, cũng không tin nổi ở Tây Tạng; và người ta có vẻ lạc mất trong bóng tối của mê lầm, cũng như rất nhiều người ở Tây Tạng và Ấn Độ, có hay không có lợi còn khát khao hòa bình, hài lòng và thỏa nguyện lợi lộc vật chất, thiếu vắng bình an và chứng ngộ tâm linh. Tôi đã thấy rất nhiều loại phô diễn khác nhau đến nỗi người ta không thể diễn tả ra hết. Nhưng nếu bạn thấy cái ấy rõ ràng và có một cái nhìn sáng tỏ về nó, tất cả những trò phô diễn khó tin, thần diệu ấy chỉ là sự phô diễn như mộng của tâm thức mình. Nó chỉ là vấn đề của tri giác thấy biết của mình, như thế nào người ta kinh nghiệm những sự vật, giống như một ly nước được thấy bởi một con cá nhỏ sống trong ấy như căn nhà của nó, thì rất khác với cái nhìn của con người chúng ta. Dầu kỳ lạ bao nhiêu, khi người ta nhận biết mọi sự như là sự phô diễn hay phóng chiếu của tâm thức chính mình, khi chúng ta thấy rằng mọi tri giác tùy thuộc vào nghiệp của mình, bấy giờ người ta không còn kinh ngạc, bởi vì người ta hiểu những sự vật hoạt động thực sự như thế nào, và chúng là thế nào, và chúng ta có thể sống một cách hòa bình, đánh giá mọi sự đúng như chúng là. Có rất nhiều sự vật để thấy. Nhưng thật sự chúng là gì? Đấy giống như một giấc mộng, một ảo ảnh, một ảo tưởng, một ảo giác huyễn thuật. Vài giấc mộng kéo dài một trăm năm và rồi tan biến. Vài giấc mộng kéo dài một

129 phút hay một giờ rồi tan biến. Những giấc mộng khác có hình sắc cụ thể và có vẻ tồn tại lâu trước khi tan rã. Mọi sự rốt ráo được giải quyết trong bản tánh tuyệt đối. Trong những hiện tượng như mộng như vậy, có cái gì để nhận chọn hay bám níu? Có cái gì để phán xét? Có cái gì để chối từ hay buông bỏ? Không có cái gì để cầm lên hay thả xuống khi bạn nhận biết. Khi bạn thức tỉnh có cái gì để làm? Không có cái bản chất như mộng của mọi hình tướng thì sao? Đấy chỉ là một giấc mộng còn gì nữa để làm trong đó, ngoài việc biết người đang mộng, người biết. Rốt ráo, ai là người đang mộng? Đại thành tựu giả Saraha nói, “Trong mười phương, có cái gì để tạo tác, để trông chờ hay để làm? Hãy nhận biết sự vô tự tánh và không thực tại của mọi hiện tượng giả ảo.” Mọi sự là tự do, như chúng là. Với nó có cái gì để làm đâu? Ở ngoài, nó là vậy; ở trong nó cũng là vậy. Bên trong là một trò phô diễn không ngừng, như phim ảnh của namtok, những tư tưởng và ý niệm diễn dịch, phải thế không? Bên trong, cái gì là nền móng cho sự phô diễn của những hiện tượng tâm thức là namtok? Chúng đến từ đâu? Chúng trú ngụ ở đâu một cách tạm thời và đi đâu hay tan biến ở đâu? Chúng là cái gì? Tư tưởng hay ý niệm là cái gì? Hãy khảo sát điều ấy ở bên trong, quan sát tâm thức, như người ta khảo sát trò phô diễn huyễn thuật không cùng ở bên ngoài, cảnh tượng như huyễn như mộng của thế giới thoáng qua này. Mọi tư tưởng, cảm giác, tình cảm, tri giác, xúc giác, trạng thái của tâm thức, mọi ý niệm v.v… giống như những đám mây trên bầu trời tụ hội chốc lát rồi tan rã, biến mất trong cũng không gian kia. Ích gì mà bám níu vào chúng? Ích gì mà cố gắng xua tan chúng? Mọi sự là sự phô diễn như huyễn như mộng kỳ diệu của tâm thức mình. Không có gì đặc biệt để làm về sự ấy, chỉ trừ nhận biết bản tánh trống không thực sự của nó, và tự do ở trong bất cứ cái gì hình như có xuất hiện. Cần thiết gì khi phê phán những tư tưởng và kinh nghiệm như là tốt hay xấu, như thích hay không thích, có lợi hay bất lợi. Hãy để chúng đến và đi đúng như chúng là, không trở nên dính dáng quá

130 mức, không đồng hóa với bất cứ cái gì, cũng không nuông chìu chúng bằng cách theo chúng cũng không đè nén hay cấm đoán chúng. Đơn giản hãy để cho mọi sự bên trong và bên ngoài khởi hiện và biến mất trong đường lối của riêng chúng, như những đám mây trên bầu trời, và hãy ở bên trên và vượt trên tất cả, ngay giữa những hoạt động và trách nhiệm hàng ngày của mình. Có nhiều thứ để làm trong thế giới này, nhưng chỉ có một điều người ta cần phải biết, đó là bản tánh thực sự của mình. Đấy là phương thuốc vũ trụ, món thuốc bá bệnh chữa lành mọi bệnh hoạn. Cái gì có đến, thì có đi. Tự tánh mình, hiện thể nền tảng chân thật của mình, thì vượt khỏi hay không bị ảnh hưởng bởi những vết nhơ ngoại sanh hay những hiện tượng tạm thời. Nó không đến không đi; nó vĩnh hằng bất động. Nhận biết nó, thì tính chất siêu việt nội tại bẩm sinh được chứng nghiệm. Bấy giờ sanh tử và niết bàn không trình diện hy vọng hay sợ hãi cho hành giả; nhị nguyên thôi có thể đạt được. Không có cái gì để hướng tới, không có cái gì để trở lui. Như Guru Rinpoche đã nói, như Tilopa và Naropa đã nói, như đại thành tựu giả Saraha đã nói, “Với những vật bên ngoài, hãy điềm nhiên không lưu tâm. Với những vật bên trong (tự thân chủ thể) hãy điềm nhiên không lưu tâm. Không nhìn thấy ngoài cũng như trong, hãy để nó như nó là trống không, tự do và lồng lộng. Chẳng phải vật bên ngoài trói buộc chúng ta, mà là sự bám chấp bên trong làm vướng mắc chúng ta.” Đây là giáo huấn cốt lõi tinh yếu của các đại thành tựu giả Ấn Độ và những yogi thành tựu của Tây Tạng. Nó căn cứ trên những lời dạy của chính Phật Thích Ca, ngài nói rằng gốc rễ của tất cả khổ đau là sự bám chấp, luyến ái. Không có lời dạy nào hơn điều này. Đây là gốc rễ của tất cả. Đây là nguyên lý đàng sau tất cả nhiều giải thích khác nhau. Nhục dục không nằm trong những sự vật, nó ở trong tâm thức tham muốn, trong chính sự tham muốn. Tham muốn phong gán cho những đối tượng bằng dục vọng, nhục dục, và giá trị. Mặt khác, thì cái gì là đáng tham muốn một cách tối hậu? Mọi sự nương dựa vào tâm thức, vào sự bị quy định của

131 mình; cái một người tham muốn và mong mỏi thì đối với người khác có thể là ghê tởm và chẳng có chút giá trị gì. Thật rõ ràng, phải không? Bởi thế, dù bất cứ giáo lý gì người ta đã nhận, hãy ở trong tánh Như, tánh Không lớn rộng và cái rỗng rang sáng tỏ, vượt ngoài bám níu và trụ nắm. Đây là ngưỡng cửa của kinh nghiệm về bản tánh chân thật của Đại viên mãn bổn nhiên, Đại Không: vượt khỏi ý niệm và cố gắng, mở ra với sự không cố gắng của tự do thật sự và hiện thể vô ngại đích thực. Một số người có thể hiểu lầm và hỏi: Vậy thì việc gì phải phiền hà với những hành động đức hạnh và tích tập công đức hay giúp đỡ những người khác? Tại sao phát sinh từ và bi? Những người khác có thể nghĩ: Tại sao không tiếp tục thực hiện những hành động xấu, bởi vì trong tánh Không mọi sự đều bình đẳng? Đây là một hiểu sai trầm trọng. Đây là một hiểm nguy, một sự trệch hướng khỏi cái thấy. Đây là chủ nghĩa hư vô, đoạn diệt, nơi vực thẳm há miệng của cái Không giả hiệu đang mời gọi. Khi người ta chứng ngộ trạng thái tự nhiên, bản tánh tự nhiên của tất cả chúng sanh, bấy giờ tự nhiên có sự phát triển, nảy nở của lòng bi, lòng từ, ân cần và thiện cảm, bởi vì người ta chứng ngộ rằng không có một cái bản ngã tách rời với những người khác. Khi ấy người ta đối xử với những người khác như với chính mình. Không có nguyên nhân cho mối ác cảm, luyến bám, hay lợi dụng. Sự chứng ngộ tâm linh đích thực sẽ tự nhiên kèm theo những phẩm tính không thể nghĩ bàn như bi, từ và sự trợ giúp. Mỗi người được thấy như là chính mình, không phải một thực thể thường hằng mà là một khối kết nối những lực lượng tạm thời và bị quy định bởi nghiệp. Thế nên người ta làm vơi cạn khổ đau và khốn khổ bất kỳ khi nào chúng xuất hiện, bên trong hay bên ngoài, cho chính mình hay cho những người khác. Tại sao bạn không thể nhỉ? Không ai muốn khổ, đúng không? Khi bạn chứng ngộ thật tánh của mọi sự, làm sao bạn có thể không có lòng bi tự nhiên và khó tin đối với tất cả những ai chưa chứng ngộ nó? Tất cả chúng sanh đều ước ao hạnh phúc, tuy nhiên do vô minh, nên vẫn tiếp tục tạo thêm những khổ đau nữa cho chính mình. Một nguyên nhân quá đỗi cho

132 lòng bi! Chúng sanh thấy cái lợi lạc là vô ích, và không biết nó. Một nguyên nhân nào hơn cho lòng bi! Nơi nào có khổ đau và mê lầm khởi lên, lòng bi khởi lên để giải thoát và làm nhẹ cho chúng sanh sự khổ đau từ mê lầm đó. Đấy là sự tuôn trào tự nhiên của sự chứng ngộ đích thật bản tánh chân thật. Nó cũng giống như khi người ta thấy những đứa bé chạy ra đường, người ta tự nhiên phóng ra để cứu chúng khỏi bị xe đụng. Đó không phải là một vấn đề để suy nghĩ. Đó không phải là vấn đề chúng là con của ai. Người ta chỉ tự nhiên đáp ứng. Đây được gọi là lòng bi, nhưng không phải là một lòng bi được ý niệm hóa. Nó chỉ là một hành động thích hợp, sự lành mạnh căn bản. Đây là thái độ giác ngộ tự phát, lòng bi tự nhiên, là kết quả của chứng ngộ thật sự. Trong những giáo huấn cốt lõi tinh yếu này có nói rằng khi người ta nhận biết chân tánh, hay thấy biết khuôn mặt xưa nay của mình, ngay cả một người có khuôn mặt chó, ngay cả một người có khuôn mặt sư tử, cũng trở thành Phật ngay trong đời này. Ngay cả một người mù chữ, một người học rộng, đều trở thành Phật ngay trong đời này. Điều này nghĩa là không có những tiên quyết đặc biệt nào cho sự chứng ngộ, chỉ có một sự thấu qua toàn triệt, nó không cần dựa vào học vấn, mộ đạo, địa vị hay uy tín. Xin chớ nghĩ chúng ta ở đây trong thế giới này một thời gian lâu. Đây là một cuộc gặp gỡ rất ngắn ngủi. Và tuy nhiên, đây là khoảnh khắc của Đại viên mãn; nó vượt khỏi sự kéo dài, siêu vượt thời gian và không gian. Chúng ta có sự tiếp xúc đầy phước đức với một giáo lý và một cơ hội để thực hành. Đấy không chỉ là hạt giống đã được gieo, bởi vì người ta có thể thực sự kinh nghiệm quả ngay lúc này. Nếu người ta thực sự đã chín muồi hay đi sâu vào thực hành, đây là khoảnh khắc ấy; nó không phải ở tương lai. Chớ nghĩ người ta cần thời gian thêm nữa. Nó là vấn đề thực hành ngay lúc này. Suy nghĩ về những lời dạy không nhất thiết có nghĩa là bạn phải nghiên cứu những thứ băng đĩa và sách vở đã gom góp được. Chỉ suy nghĩ về bất cứ điều gì còn đọng lại trong tâm thức từ những lời dạy này, ngay dù nó chỉ là một chủ đề hay lời nói nhỏ nhất, như vô thường, hay vô tự tánh, hay như

133 mộng. Bởi vì thời gian thực hành không phải là thời gian để lãng phí hay đùa cợt. Người ta cũng có thể đùa cợt một cách trí thức với những nghiên cứu, những tranh luận và sách vở, chúng có thể cung cấp thích thú lớn lao, nhưng cũng chỉ là một sự xao lãng, phóng dật, chỉ là những hình thức hý luận của sự đùa cợt. Mọi người thích không làm gì và hưởng thụ. Bản thân tôi ưa nghiên cứu hàng trăm ngàn bài kệ vinh quang của những giáo lý Đại viên mãn. Tuy nhiên, nghe băng không phải là cách thức rốt ráo để chứng ngộ Đại viên mãn. Đôi khi một số nghiên cứu chỉ làm tăng thêm tính diễn dịch và làm sanh thêm nghi ngờ và những câu hỏi rắc rối. Bấy giờ chúng ta có thêm nhiều thẩm xét, trong khi ngay giờ đây chúng ta có thể giải quyết tất cả những nghi ngờ và vấn đề có thể có chỉ bằng thực hành. Khi chúng ta biết làm thế nào để thực sự thực hành và thiền định, không cần gì phải tìm kiếm những đường lối khác để làm và những lời dạy khác về chuyện đó. Rất thú vị có nhiều loại giáo lý khác nhau, nhưng nếu chúng ta muốn thực sự cắt đứt gốc rễ nhị nguyên, chúng ta cần áp dụng sự thực hành vào chính chúng ta ngay hiện giờ, không phải lúc nào khác trong tương lai, sau khi đã sưu tầm mọi lời dạy có thể có về chủ đề. Tôi đã cố gắng rất khó khăn suốt toàn bộ đời tôi để nhận được mọi trao truyền và lời dạy từ hai mươi lăm vị thầy Tây Tạng giác ngộ của những dòng phái khác nhau. Nhưng thật ra, tất cả điều chúng ta cần biết là làm sao thiền định và đưa những điều ấy vào thực hành. Nếu một ít lời khuyên chân thành này có thể làm lợi lạc và tỏ ra ích dụng cho bạn, thì tất cả những công sức suốt đời của tôi là có ý nghĩa. Một vài cá nhân có thể nghĩ rằng Đại viên mãn chỉ là một loại ngưỡng mộ khác hay phiêu diêu ngoại lai xa lạ. Nếu có nhiều tranh luận, tỷ giảo tôn giáo, chẻ sợi tóc làm tư về triết học, và so sánh, có lẽ những cố gắng của tôi là vô ích.

134

Tôi mong rằng bạn hiểu điều tôi đang cố gắng nói. Hãy thực hành tốt, và lợi dụng những khoảnh khắc này và những lời dạy này. Nguồn gốc là tin vào Tam Bảo: ba cấp độ hiểu biết bên ngoài, bên trong và bí mật về Phật, Pháp, Tăng. Sùng mộ hiến dâng và lòng bi cũng có thể cực kỳ hữu ích, bởi vì chúng làm hiển lộ sự tươi mới của bản thân tánh giác, và nâng cấp sự hiển lộ lộng lẫy vinh quang của Rigpa. Chớ bỏ qua tính chất trợ giúp nâng đỡ của những thực hành tương đối. Hãy dùng bất cứ thứ gì có ý nghĩa và thực tế khả thi cho bạn. Không có ai khác có thể thực hành cho bạn. Nó phải thích hợp với chính bạn, không phải là một bắt chước sự thực hành của ai khác, dầu bề ngoài nó có vẻ tốt đẹp bao nhiêu. Xin hãy làm sáng tỏ những sự việc cho chính bạn, càng nhiều càng tốt. Bấy giờ mọi việc sẽ hoàn mãn. Sarva mangalam. Nguyện mọi sự đều tốt lành!

135

8. Tấm Gƣơng Kim Cƣơng của Tỉnh Giác Một bài ca tự phát Dordogne, Pháp 1982 Nhóm dịch thuật Padmakara

Đảnh lễ vị vua thống trị ngự ở bên trong: tỉnh giác tự hữu. Tôi là kim cương của tỉnh giác. Hãy nhìn xem, các bạn kim cương! Khi thấy tôi, hãy tỉnh giác. Tôi là tấm gương của tỉnh giác, Tôi chiếu soi sự chú tâm cẩn thận của các bạn. Hãy nhìn cho rõ ràng từng khoảnh khắc, và thấy trực tiếp vào tinh túy tối hậu của tâm.

Tỉnh giác là gốc rễ của Pháp. Tỉnh giác là thân của thực hành. Tỉnh giác là pháo đài của tâm thức. Tỉnh giác là sự giúp đỡ cho trí huệ về tánh tỉnh thức bẩm sinh. Tỉnh giác là chỗ dựa của Mahamudra, Maha Ati, Dzogchen và Madhyamika.

Mất tỉnh giác sẽ cho phép các lực lượng xấu chiến thắng các bạn. Không có tỉnh giác các bạn sẽ bị cuốn xa bởi biếng lười. Mất tỉnh giác là kẻ tạo ra nghiệp xấu.

136

Không có tỉnh giác và chánh niệm, không gì có thể thành tựu. Mất tỉnh giác sẽ chất chồng một đống phân Không có tỉnh giác các bạn sẽ ngủ trong một biển nước đái.

Không có tỉnh giác các bạn sẽ là một người máy không tim, một xác chết biết đi. Các bạn đạo thân yêu, xin hãy tỉnh giác! Bằng sự khát ngưỡng những lama linh thánh, chư Phật, chư Bồ tát và chư Tổ, Nguyện các bạn kim cương đạt đến tỉnh giác kiên cố và bước lên ngôi của tỉnh thức toàn thiện!

Vài lời này được ứng khẩu bởi con bò ngu răng vẩu, nhà sư rớt hỏng Jamyang Dorje, và cho các bạn kim cương của nó, họ được có con mắt Pháp.

Đức hạnh, hạnh phúc và bình an! Sarva mangalam!

137

9. Bài ca Kim Cƣơng của Chỗ Ẩn Tu Công Viên Nai Dai Bosatsu Zendo Living Manor, New York, 1992 David Christensen dịch

Đảnh lễ Phật nguyên sơ Samantabhadra. Không nhận biết cảnh giới của các bậc Chiến Thắng, Pháp thân vô nhiễm sẵn đủ, Chúng sanh lang thang trong thế giới bị nhân duyên quy định này, Mắc kẹt giữa đồng bằng bao la của buồn rầu, nghiệp và phiền não. Tốt hơn nhiều là hãy dừng tâm thức mệt lã của bạn.

Kye Ho! Ôi, các bạn cực kỳ may mắn của tôi, Đây trong chỗ tối thượng này của cõi giới tối hậu, bao la như bầu trời – Longchen Rabjam, Hãy nhìn vào quang cảnh thanh tịnh diệu kỳ này. Bên ngoài: không tạo tác, khu rừng tự nhiên này, Được trang hoàng bằng muôn ngàn màu lốm đốm, Cây, dây leo, lá hoa, Mọi loài chim, nai, chồn, gà và thú hoang nô đùa, Khi tiếng kêu du dương của muôn loài vang vọng vui tươi, Và cơn mưa bông tuyết thoảng nhẹ từ bầu trời, Hình dáng như hoa, cánh và những đồ vật thiêng liêng.

138

Trong nơi này, hoàn toàn thoát khỏi tạp âm của lảm nhảm thế gian vô nghĩa, Nó quấy nhiễu sự thực hành thiền định thanh tịnh, Ở trong khu rừng yên lặng tự nhiên này Là nơi chốn tối thượng cho việc hoàn thành trí huệ và chánh định. Emaho, kỳ diệu thay!

Bên trong: bản tánh vốn sẵn đủ, không tạo tác của tâm là Pháp thân, Tự nhiên khởi lên, tự nhiên giải thoát, Tánh sáng chói tự nhiên không ngăn ngại. Cõi giới tâm trí huệ bẩm sinh của Samantabhadra Thì siêu vượt khỏi nguyên nhân và điều kiện, Khỏi mọi sự vật, trụ trước, cố gắng và thi công chế tạo.

Tự do với mọi giới hạn và thiên lệch, Phật bổn nguyên, Tự tâm của chính mình, Samantabhadra. Chớ tìm kiếm đâu khác ngoài chính mình, vuơng quyền tối hậu: Rigpa, trí huệ tối thượng của tánh giác bổn nguyên, Tâm trí huệ tự nhiên như hư không. Emaho!

Ở giữa: Không tạo tác, thân thể mình là một cõi Phật. Các uẩn, các đại và môi trường giác quan

139

Vốn thanh tịnh và toàn thiện nguyên sơ, Không tạo ra do đâu, mạn đà la bổn tôn như nhiên vốn sẵn. Năm đối tượng của giác quan và những hiện tượng của sáu thức: Bất cứ gì khởi lên chỉ phô diễn trí huệ của Lạc không tách lìa với tánh Không.

Bằng con đường mật truyền của Đại viên mãn Dzogchen bổn nhiên, Những bài ca và điệu nhảy kim cương và mọi thứ niềm vui sáng tạo cháy bùng, Một tiệc cúng như biển cả của vui sướng không bờ. Sanh tử và niết bàn đồng đều được hưởng thụ trong một vị, như kinh nghiệm của Đại Lạc.

Mọi hiện tượng khác nhau dù chúng xuất hiện, Không bao giờ lay động, dù một chút xíu, khỏi pháp giới. Ở trong cõi giới bao la (longchen) của Pháp thân, tâm trí huệ của Samantabhadra, Tất cả vô cùng (rabjam) những hình tướng phong phú, dù chúng xuất hiện, Đều toàn thiện và trọn thành trong cái nhận biết bình đẳng tự nhiên, Đại viên mãn bẩm sinh tự nhiên siêu xuất tâm, ý, ý thức, Cái Longchen Rabjam cao cả, cõi giới vô cùng và vĩ đại.

140

Hàng trăm ngàn tia sáng vô nhiễm (drimé oser) của mặt trời Tịnh hóa tự nhiên đại vô minh, bóng tối của lòng. Tất cả sanh tử trọn toàn thiện (kunzang), tất cả niết bàn toàn thiện (kunzang) Kim Cương tự khởi, bẩm sinh, đạo sư Jigme Lingpa vô úy, Nguyện chúng ta đảm đương vương quyền tâm linh trong pháp thân bất động!

Bài này được viết bởi khenpo lang thang Nyoshul Jamyang Dorje, một con chó lạc khỏi xứ tuyết Tây Tạng, lúc nhập thất Đại viên mãn hai tháng trên núi ở Hoa Kỳ, hướng dẫn bởi thiền giả Đại viên mãn Lama Surya Das, cùng với nhiều vị thầy và bạn đạo Tây phương.

Mong rằng nó được công đức lợi lạc!

141

10. Bài Ca Nhƣ Huyễn Lá thơ Giáo Huấn của Khenpo Jamyang Dorje gởi cho các đệ tử Dordoque, Pháp 1981 Nhóm dịch thuật Padmakara.

Kính lễ Guru! Sự phản chiếu trí huệ như huyễn của Drimé Oser, Không tách lìa với Jampel Pawo, vị cha của tất cả chư Phật, Ngài hiển lộ trong thời thoái hóa này để dìu dắt chúng sanh đến giải thoát, Ôi, Bổn sư của con, Tenpai Nyima, ngài biết tất cả! Bậc Pháp vương tự tại, chỉ bày bản tánh không mê vọng của tâm Cho những ai vì mê lầm bị lừa gạt bỏi những hình tướng giả dối.

Kye Ho! Hãy nghe cẩn thận, các bạn có phước đức, Những con thiên nga ở trong hồ vinh hiển mùa hè của Phật pháp! Cho những đệ tử và anh chị em kim cương biết tôi đã lâu Tôi gởi một lá thơ ngẫu phát để nói với các bạn tôi là thế nào, một bài ca của huyễn. Chớ nghĩ tôi sai lầm khi tự biểu lộ công khai, Mà hãy nghe kỹ nó, người bạn hay vui đùa của những lỗ tai hoa sen vàng của các bạn.

142

Dù trong đời này tôi không có phẩm tính gì lớn lao, Nhờ công đức của những hành động thanh tịnh đã tích tập trước kia, Tôi đã gặp Lama không gì sánh, viên ngọc của bầu trời. Với đức tin như một hồ sữa không vết bẩn, trắng tinh trên mặt và dưới đáy, Tôi cố gắng phụng sự thiện tri thức của tôi, nguồn gốc của tất cả Pháp. Và cũng như, dưới chân một ngọn núi bằng vàng quý báu, Ngay cả một hòn đá cuội tầm thường cũng nhuộm màu rực rỡ, Cũng thế tâm thức tôi – bị mắc bẫy trong những mạng lưới của tư tưởng lan man, bị trói buộc bởi mê vọng tầm thường, Những dây xích sắt đâm buốt của phân biệt nhị nguyên mãnh liệt và bám chấp vào sự cứng đặc – Đã tìm thấy sự nghỉ ngơi. Một kẻ ăn xin, thoát ngoài hoạt động, nhàn nhã trong một trạng thái hân hoan, rỗng rang của tâm thức, Tôi đã tiêu hủy mạng lưới của tám mối quan tâm thế gian của những hy vọng và sợ hãi huyễn ảo.

Vua của Pháp, Longchen Rabjam nói, “Những hoạt động thì không cùng, như sóng lăn tăn trên dòng nước, Chúng chấm dứt khi ta bỏ chúng: đấy là bản tánh của chúng.” Cũng thế, nhờ lòng tốt của lama dạy cho tôi sự không-hoạt động và tự-xuất hiện. Bèn phát hiện trong tôi rằng không làm điều gì cả, mọi sự vốn viên thành. Trước mặt không có gì tôi cần bảo vệ: là một thiền giả tôi hạnh phúc!

143

Đàng sau không có gì để phải duy trì: một mình, tôi vui sướng! Tôi không có công việc gì để phải thoái thác: không có thời gian để mất, tôi an vui! Tôi không biết đến những chương trình dài hạn: an nhàn, tôi hân hoan! Bị chỉ trích, tôi không thất vọng: không mất tinh thần, tôi hạnh phúc!

Nhờ lòng tốt của lama ngài chỉ cho tôi con đường trung đạo vĩ đại, Như Phật dạy, không đong đưa bởi những cực điểm của cuộc đời, Dù tôi ngủ trong một ngôi nhà lộng lẫy bằng vàng ròng, Tràn đầy những đống châu báu, Tôi không cần phải kiêu căng hay cần thán phục. Dù tôi ở trong những khu vườn bóng mát cây trái, nơi trú ngụ tuyệt hảo của người thấp kém, Hay trong những lều cỏ, Tôi không cần phải than trách. Tâm tôi không bị hy vọng và sợ hãi nắm giữ. Nhờ lòng tốt của vị thầy dạy cho tôi sự ưu việt của Bồ đề tâm tối thượng, Tôi nguyên vẹn tình thương và lòng tốt đối với bất kỳ ai cao sang hay thấp hèn mà tôi gặp, Đàn ông hay đàn bà, những cha mẹ tôi từ xa xưa. Tôi đối xử với tất cả họ như anh như chị, với tình thương trong lòng. Vì điều này người ngu mê và ghen tỵ có thể chế giễu tôi, Nhưng họ không thể thay đổi những tư tưởng tốt tự nhiên của tôi. Đối với người trong đường phố, tôi thì vô tư và trẻ con, dù điều gì xảy ra.

144

“Ông ta là một kẻ lang thang không mục đích. Ông ta chẳng chú trọng gì đến giàu sang,” Nhưng bị phóng dật do tích tập và bảo vệ cái nền tảng này của mọi sự khổ đau, hủy diệt và cãi cọ, Người ta cắt động mạch chính của tâm đức hạnh, Và đời người ta bị thổi tung xa như giấy trong gió: Thế nên tôi không quý trọng gì thứ vũ khí này để tự giết chính tôi!

Nhờ lòng tốt của lama ngài dạy cho tôi rằng không phải cần bất cứ thứ gì, Tôi không hy vọng giải cơn khát với dòng nước ảo ảnh của tám mối quan tâm thế gian. Bởi vì khen và chê đầy thành kiến đều như tiếng vang của âm thanh, Và tâm thức con người giống như những tia mặt trời trên một đỉnh núi tuyết, Không mong đợi gì từ ai, tôi không trói buộc với một đoàn tùy tùng. Tôi không tìm cách nắm bắt những sắc màu của cầu vồng do không hiểu bản chất của nó, Và dù những người khác có không thích tôi, tâm tôi hạnh phúc. Nhờ lòng tốt của lama người giới thiệu tôi vào cái lạc trí huệ của giai đoạn thành tựu, Tôi dùng sự nâng đỡ của phối ngẫu trí huệ, sứ giả của phương tiện thiện xảo: Mùi vị của đại lạc, sữa vắt từ con bò của trời cao, Đóng dấu ấn những uẩn, các đại, các thức giác quan và tất cả mọi sự, thế giới và chúng sanh,

145

Và mọi hình tướng khởi lên như là ấn của đại lạc. Hạnh phúc thay, tôi, một thiền giả hưởng thụ bốn niềm vui của đại lạc! Nhờ lòng tốt của lama ngài giới thiệu tôi vào “tất cả mọi sự đều như huyễn,” Hình tướng được phát hiện là không ngăn ngại và bốc hơi trong bánh xe không ngừng của huyễn hóa, Âm thanh như những nốt nhạc trong sáng và không sanh của một tiếng vang, Và những tư tưởng lan man vô mục đích khởi lên tự chính chúng, phân tán và tan biến như mây. Key Ho! Hỡi các bạn! Hãy nhìn vào trò trình diễn kỳ diệu này! Trong đồng bằng của bản tánh tuyệt đối, từ khởi thủy, vượt khỏi trói buộc và tự do, Đứa con của người đàn bà vô sinh cỡi con voi của huyễn, Đầu nó trang hoàng bằng hoa trời, đến đây nhảy múa và hát ca! Có ai áp đặt mô thức của những lý thuyết của tư tưởng diễn dịch Lên thế giới hiện tượng, sự khiêu vũ bày lộ của Pháp thân vua? Kỳ diệu làm sao trò trình diễn như huyễn này của sanh tử và niết bàn! Khi vị thầy tốt lòng đưa tôi vào bản tánh tuyệt đối như huyễn tuyên bố, “Trong hư không-trí huệ bổn nhiên, không bụi bặm, trong sạch và toàn khắp, Sự chứng ngộ thân tuyệt đối không thiên lệch thì thoát khỏi rơi vào những biên kiến. Ích lợi gì sự thiền định bám vào thực tại cụ thể và những hy vọng cùng sợ hãi?” Dù nếu người ta vẫn bình thường, không thiền định, có gì là mê lầm?

146

Kỳ diệu biết bao thiền như hư không của sự không làm của bản tánh tuyệt đối! Người non nớt, bám vào thực tại cụ thể, huênh hoang đã làm nhiều thứ ở nơi không có gì để làm. Họ như con nai khát cố gắng chạy đến dòng nước trong ảo ảnh. Những tạo vật mê mờ đáng thương, bị hành hạ bởi mệt mỏi vô ích! Nhờ lòng tốt của thầy, ngài chỉ cho tôi hình tướng và việc làm là huyễn ảo, Khi vô số ánh sáng sắc màu của sanh tử và niết bàn, Trò chơi vô ngại và tự chiếu sáng của trí huệ của hư không tuyệt đối, Khởi lên trong xứ sở của huyễn như trò chơi của huyễn, Thiền giả như huyễn đạt đến lãnh vực tự thành của huyễn. Nó biết làm gì với những hình tướng xuất hiện như mộng như huyễn này, Trống không, rỗng lặng và không tự tánh, như lõi tre, Những sắc tướng không thể chất như mặt trăng trong nước, như hoa đốm giữa không trung?

Nhờ lòng tốt của thầy ngài phát hiện mọi hình tướng đều như huyễn, Đám sương mù của phán xét lan man của phân tích trí thức Và sự hấp dẫn mãnh liệt với những sự vật như huyễn, tan biến trong vốn tự giải thoát, Trong hư không tuyệt đối, nó vốn không sanh, vượt khỏi tư tưởng và biểu lộ. Không còn nữa sự ràng buộc của hy vọng và sợ hãi! Không còn nữa sự ràng buộc của lấy và bỏ!

147

Ema! Hãy nghe kỹ, các bạn thân yêu! Dầu tôi không khôn ngoan không thông thái, đây là điều tôi nghĩ: Trong thực chất, khi thiền giả như huyễn đã cạn kiệt hết chấp nhận và từ chối, Sanh tử và niết bàn khởi lên như một trò như huyễn. Thực vậy, điều này chính là quả, thoát hết mọi che chướng. Ngoài điều ấy, tri thức và hiểu biết vĩ đại có ích gì? Nhờ lòng tốt của thầy, vị bảo vệ vinh quang không gì sánh, ngài nói tất cả những điều này, Tôi đã nhận di sản là những giáo huấn của Longchen Rabjam, Nó không thể đánh giá theo vàng và ngọc. Dù tôi nghĩ tôi có thể chỉ ra, trong cách thức thuần túy trí thức này, Sự thấu hiểu tinh túy tâm yếu của hư không sáng ngời và tuyệt đối, Tôi đã không có được chút kinh nghiệm nào về nó, cũng không nói đến bất kỳ chứng ngộ nào. Nếu tôi đã làm những điều lầm lỗi, tôi sám hối chúng với những bổn tôn và những vị thầy.

Như bậc vua của thế giới, Drimé Oser, nói, “Hỡi các đệ tử và các anh chị em kim cương từng biết tôi, Giờ đây, khi các bạn có điểm nương tựa là viên ngọc như ý cùng tự do và đầy đủ, Và Phật pháp sáng ngời như một núi tuyết rực rỡ trẻ trung,

148

Tất cả các bạn, như sư tử con thời niên thiếu Hãy theo đức Phật, sư tử giữa loài người! Sau khi đưa những kinh nghiệm và sự chứng ngộ đến chỗ viên mãn, Các bạn sẽ sớm đạt đến vương quốc của pháp giới tuyệt đối an lạc!” Dầu cho tôi, một kẻ làm điều xấu đáng vào địa ngục một ngày kia, Tôi cũng chắc chắn có may mắn được lama kính yêu giải thoát, Và tôi mong muốn và cầu nguyện rằng vào lúc đó tất cả chúng sanh từng có một tiếp xúc với tôi Được vui hưởng giác ngộ không gì vượt hơn Trong cõi Phật hoa sen xanh đẹp đẽ của Như Lai. Cho đến lúc ấy tôi cầu nguyện rằng do năng lực của nghiệp tương đối, Anh chị em kim cương chúng ta gặp nhau hoài mãi, Và hưởng thụ giáo lý bí mật của vị thầy toàn giác Longchenpa, Rượu thiêng của kho tàng tâm yếu của quang minh. Hơn nữa, cho các bạn chư tăng ni, xứng đáng với sự tôn thờ của người và trời, Tôi dâng cúng một đóa hoa sen trắng và một lời cầu nguyện: Nguyện bàn chân hoa sen của các vị ở lại cho vô số kiếp, Và nguyện vô cùng tia sáng của giáo lý và sự thực hành của Pháp tỏa sáng khắp trăm phương.

Dù tánh giác tự tri, vua làm ra tất cả, thì vượt khỏi chuyển động và cố gắng, Những lời này, những kẻ thành thật mang những tin tức của tôi,

149

Là sự tự biểu lộ của tánh giác, khúc ca nhảy múa của đứa trẻ của tâm: Chúng đến từ cung điện chiếc lều đỏ sâu thẳm trong lồng ngực,(1) Trong đô thị vĩ đại núi non của thân, Qua lối đường bí mật của luân xa hân hoan mười sáu cánh,(2) Gởi đi trên con đường của giấy trắng đến hoa mắt như một núi tuyết, Đến tu viện Namling Shedrup trong Rừng Trầm.(3)

150

11. Một Bài Ca Ngẫu Phát cho Damchƣ Zangmo: Tâm Yếu Thiêng Liêng của Những Giáo Huấn Cốt Lõi Lời khuyên dạy trong hình thức một bài ca, cho Damchƣ Zangmo Dịch bởi Surya Das, David Christensen, và Corinna Chung, 1986

Tôn kính đến đạo Sư. Đến hiện thân của vua Pháp, Longchen Rabjam, Đến chúa tể những bộ Phật, Shedrub Tenpai Nyima,(4) Đến hai đại terton(5) không ai sánh, những lama khác, và hai mươi lăm vị dẫn đường tâm linh tối thượng của con,

Con xin tôn kính lễ lạy. Lời khuyên này gởi đến Damchoš Zangmo và những người bạn lòng khác, và những đệ tử đã nương dựa vào tôi. I Trong cuộc đời này chúng ta đã có được một thân người bẩm chất tốt đẹp, tự do và rực rỡ, Đã gặp một vị thầy tối thượng, chân chánh, Và đã nhận những giáo huấn cam lồ của sự trao truyền qua tai. Vào lúc này, không để cho ba cửa(6) của chúng ta thờ ơ, Hãy thực hành để thành tựu giác ngộ theo đường lối sau đây: Trước tiên, với năm tri giác(7) về vị thầy như là Phật và v.v…

151

Ở trên đỉnh đầu hay trong tim mình, Hãy quán tưởng lama, bậc chúa tể của Pháp, tốt lòng, không gì sánh, Với sùng mộ nhiệt thành đủ làm cho tóc bạn rung động, Cầu nguyện với lời du dương, khao khát, Và rồi nhận bốn quán đảnh truyền pháp, hòa hợp tâm bạn với tâm ngài. Tất cả vô số sadhana của chư Phật Chiến Thắng, Nếu cô đọng lại, đều là guru yoga, có nói như thế. Trong mọi bí mật vĩ đại, những kinh và tantra rốt ráo, Và đặc biệt những tantra Dzogchen, “Phương pháp của Viên Ngọc Tất Cả Hiện Thân” này được tán dương bậc nhất. Bởi thế, chúng ta nên nương vào một vị thầy kính yêu như nương dựa vào chính trái tim mình, Ngài điềm tĩnh, điều ngự và hoàn toàn bình an, Với những phẩm tính đức hạnh cao cả và giàu có hiểu biết. Nếu chúng ta không quy y vào sự hiện thân quý báu này của mọi quy y, Sẽ không thể đạt đến giác ngộ. Làm sao một người mù có thể du hành không có người hướng dẫn? Bởi thế, hãy cầu nguyện liên tục người hướng dẫn vĩ đại đưa đến giải thoát, Hỡi những bạn lòng của ta. Quy y là nền tảng của Pháp Không có nó, không thể đi vào ngôi nhà giải thoát.

152

Xem vị thầy như bạn đồng hành của chúng ta trên con đường, Do có ba niềm tin,(8) người ta cần luôn luôn kêu gọi đến quy y. Những bạn lòng, chớ hiểu lầm căn bản của Pháp thiêng liêng! Nếu chúng ta mất chánh niệm, chúng ta sẽ bị hủy hoại, Bởi những quỷ ma trộm cướp. Tất cả vô số hành động tốt lành trong đời này và những đời sau Được hoàn thành qua chánh niệm, Thế nên luôn luôn nhớ sự hiện diện tỉnh giác của tâm, Các bạn lòng của ta!

Đường ra khỏi vòng sanh tử này, Cửa vào vĩ đại của con đường giải thoát, Và bước sơ khởi cho mọi thực hành Pháp, Là riêng sự từ bỏ đích thật, có nói như vậy. Thế nên hãy suy nghĩ sâu xa về sự từ bỏ, Các bạn lòng của ta!

Suốt thời tuổi nhỏ, xao lãng bởi ham chơi; Thời thanh niên, thân thể tuổi trẻ xao lãng bởi dục tình; Tóc bạc và đầy nếp nhăn, gần với cái chết: Đời người này trôi qua vô ích, những bạn lòng của ta!

153

Trong thế giới này, mỗi phút thời gian Ngày và đêm, mỗi khoảnh khắc phóng qua. Những ai đang sanh ra, những ai đang chết, Những ai hạnh phúc, và những ai khốn khổ Những ai đang kêu khóc, những ai đang cười vui…: Thấy mọi sự vô thường như một tia chớp, Thật đáng buồn khi vẫn lơ là không quan tâm, Như thể bạn đã đạt được năng lực của đời sống kim cương Và sẽ sống đến ngày Phật Di Lạc thị hiện ra đời Thế nên chớ dửng dưng, những bạn lòng của ta!

Bản chất của mọi sự là như huyễn và chóng vánh. Những người với tri giác nhị nguyên nhìn khổ đau như là hạnh phúc, Như những người liếm mật trên lưỡi dao cạo. Đáng thương biết bao, những người bám chấp nặng nề vào thực tại cụ thể! Hãy xoay sự chú ý của bạn vào bên trong, những bạn lòng của ta!

Khi bạn hạnh phúc, mọi sự có vẻ rất đáng ưa, Khi không thế, tất cả đều đe dọa và bức bách, Những tâm trạng con người giống như những khoảng sáng và tối trên dãy núi. Không có ai để nương vào trong thời này,

154

Thế nên hãy chỉ ngón tay vào chính mình hỡi các bạn lòng! Cuộc đời làm người tự do và phú bẩm này giống như một viên ngọc như ý, Chớ trở về tay không từ hòn đảo châu báu này, Hỡi các bạn lòng của ta!

Ở đây trong thành phố lớn của sáu nẻo chúng sanh, Giống như một hòn đảo của quỷ hay một ổ rắn độc, Hay một hố than hừng nhức nhối, Hãy xem biết bao khổ đau thường trực bức bách, các bạn lòng của ta! Cả sinh lực và đời người đổ ào như nước của một thác dốc trên núi, Vô thường nhanh chóng đi đến, những bạn lòng của ta. Ba cõi của sanh tử giống như ngục tù không thể trốn thoát, Thế nên chớ bám luyến quá độ vào vòng sanh tử, Hỡi các bạn lòng của ta!

Nương dựa vào những bạn bè thất thường thì giống như đuổi bắt những cầu vồng: Khi bạn cần họ, họ không giúp đỡ, các bạn lòng của ta. Mọi hiện tượng hợp tạo như chớp nhoáng trên bầu trời, Thế nên chớ nương dựa vào cái gì, các bạn lòng của ta. Gia đình người ta thì chóng qua như du khách đến chợ, Thế nên chớ cãi vã và oán giận đối với họ, các bạn lòng của ta!

155

Của cải thì phù du, như sương trên cỏ, Thế nên hãy rộng lượng cho đi với những nguyên nhân tâm linh, những bạn lòng của ta. Điều duy nhất lợi lạc là Pháp cao cả, thiêng liêng, Thế nên chớ làm cho mình ngu muội, những bạn lòng của ta! Sự nương dựa trường cửu là một vị thầy đích thực, Thế nên chớ đạo đức giả với samaya của mình, các bạn lòng của ta!

Nếu bạn cắt đứt đầu, thân thể không thể làm gì được cả, Nếu bạn làm hỏng samaya của mình, bạn sẽ không thành tựu mục đích của Pháp. Bởi thế, bằng thường trực duy trì sự cảnh giác, tỉnh giác và thận trọng, Hãy bảo vệ samaya của bạn, các bạn lòng của ta. Nếu người ta thanh tịnh bên trong, tất cả sẽ thanh tịnh bên ngoài, Thế nên hãy có cái nhìn thanh tịnh về mọi sự vật, các bạn lòng của ta! Cánh đồng tối thượng của công đức và những gương mẫu của đường lối, là Tăng già hướng dẫn, Thế nên chớ rơi vào quan điểm sai lầm và phê phán, các bạn lòng của ta. Dầu cho một đệ tử của Phật có trở nên bất toàn thế nào, Một trăm người thường còn không bì nổi với người ấy, Thế nên hãy luôn luôn phụng sự và kính trọng họ, các bạn lòng của ta!

156

Bởi vì bạn không biết những ai cao cả về tâm linh, Chớ túm bắt trong bóng tối như một người mù, những bạn lòng của ta. Vì bạn không biết những thiền giả ẩn dạng họ ở nơi nào, Bạn phải kính trọng tất cả, những bạn lòng của ta!

Từ một hành động tốt nhỏ, một lợi lạc lớn lao sẽ khởi sanh, Thế nên chớ nên khinh thường những hành động đơn giản, những bạn lòng của ta! Bất kỳ ai, chỉ nghe danh hiệu Phật, Dù chỉ đưa một tay lên với tâm thành kính, Là đã trồng hạt giống của giác ngộ viên mãn, có nói như vậy, Thế nên chớ lầm lỗi, những bạn lòng của ta!

Nếu chúng ta không biết vị thầy khi ngài có mặt, Và rồi cầu nguyện đến ngài từ xa, thế là quá chậm trễ. Khi chúng ta có một lama mà không thiền định về những giáo huấn cốt lõi của ngài, Để rồi lạc hướng trong những tư tưởng vô tích sự sau đó, những bạn lòng của ta. Nếu bạn không thành tựu Pháp thiêng liêng trong đời này, Trong những đời tới sẽ là khó khăn, hỡi các bạn lòng của ta!

157

Ôi, tất cả chúng sanh vô minh lang thang của ba cõi Lưu chuyển giữa những răng nanh của quỷ dữ vô thường sanh tử, Nhưng họ không thấu hiểu điều này. Than ôi! Ngày mai hay chiều nay, ai biết được khi nào cái chết sẽ đến? Vậy mà không ai lo âu về chuyện đó, Vẫn lơ là và tự mãn triền miên. Ôi, đáng thương thay chúng sanh tự lừa dối mình như thế nào!

Ngày mai hay cuộc đời tới của bạn, Ai biết cái gì sẽ đến trước tiên? Nếu bạn không giữ những giáo huấn cốt lõi của lama trong tâm, Bạn sẽ chỉ tự lừa lấy mình, các bạn lòng của ta!

Hãy xoay sự chú ý vào bên trong, hãy thẩm xét tỉ mỉ chính mình, Và đảm đương cái có ý nghĩa, những người gọi là bạn lòng của ta. Cấp bách, cấp bách, hãy thực hành Pháp siêu việt, và chớ ngó đến tương lai, Hãy thực hành ngay lúc này Pháp cao cả, các bạn lòng của ta.

II Cánh cổng của Pháp là sự từ bỏ, Thế nên Damchoš Zangmo, mối liên hệ trong nghiệp quả, Hãy nghe một lần nữa, bạn lòng của ta.

158

Đức Phật Longchen Rabjam đã nói, “Tất cả những giáo lý của chư Phật được cô đọng Trong những giáo huấn cốt lõi về sự áp dụng thực hành ba cái tuyệt hảo” Những thực hành mở đầu, phần chánh và kết luận, Chúng là sinh lực thật sự của con đường. Thế nên cách thực hành những cái ấy là như sau:

Nếu chúng có mặt, đủ cho sự thành tựu Phật tánh, Nếu chúng vắng mặt, sẽ không có cách nào thành tựu giác ngộ. Chúng là hạt giống không thể thiếu để thành tựu Phật tánh.

Bồ đề tâm thanh tịnh và quý giá tối thượng, Không giả tạo, phải khởi ra trong hiện thể của bạn, Không có cái này, không có cách gì đạt được Phật tánh. Thế nên trước hết, sự chuẩn bị tuyệt hảo của việc phát sinh tâm vị tha của giác ngộ là quan trọng.

Trong tất cả chúng sanh trong vũ trụ, Không ai chưa từng là cha mẹ của bạn, Nhờ lòng tốt bao la của họ, họ đã tạo thành thân thể bạn, Cho bạn đời sống và tài sản, Và chỉ cho chúng ta những đường lối của cuộc đời.

159

Dù họ chỉ ước mong hạnh phúc, Họ giống như người mù không có bạn dẫn dắt. Vì tất cả chúng sanh bị hành hạ trong vòng sanh tử không thể chịu đựng này, Hãy thành tựu bình an trường cửu, giác ngộ không gì vượt hơn, Được thúc đẩy bởi mục tiêu vị tha lợi lạc trong cả hai phương diện,(9) Bạn cần phát sanh tâm tối thượng, ý định đạt được giác ngộ viên mãn.

Bồ đề tâm này là viên ngọc như ý đầy đủ tất cả, Nó là nền tảng của mọi giáo lý rộng rãi và sâu xa, Nó là tâm điểm của mọi con đường kinh điển và tantra.

Một phương diện của bản chất hai chân lý Là cấp độ tương đối, chủ đề chính của tất cả thực hành, Vua của mọi phương tiện tối thượng. Không có cái này, không có cách gì để thành tựu Phật tánh. Nếu bạn thiếu phương tiện hoặc trí huệ Làm sao con đường được hoàn thành?

Trong hai con đường tối thượng, cái thứ nhất Con đường của những phương tiện thiện xảo được ca ngợi. Để cho sự chuẩn bị trên con đường, hãy phát Bồ đề tâm.

160

“Cái này có những lợi lạc không thể đo đếm,” Đức Di Lạc toàn giác đã nói thế với Norzang.

Bồ đề tâm giống như mặt trăng loại trừ bóng tối. Bồ đề tâm giống như mặt trời chiếu sáng khắp nơi. Bồ đề tâm bảo vệ khỏi những khủng khiếp của sanh tử. Bồ đề tâm đẩy lùi những chướng ngại của bốn ma.(10) Bồ đề tâm trừ khử cơn sốt của năm độc.(11) Bồ đề tâm hoạt động như con ngựa giống của tinh tấn. Bồ đề tâm là áo giáp cứng cáp của nhẫn nhục.

Bồ đề tâm thải trừ mọi sa đọa đạo đức. Bồ đề tâm nâng đỡ sự thành tựu chú định. Bồ đề tâm làm nảy sinh thanh tĩnh. Bồ đề tâm làm trí huệ tối thượng khởi lên trong tâm. Bồ đề tâm hoàn thiện những tích tập lớn lao của công đức. Bồ đề tâm đưa đến cái thấy tánh Không. Khi Bồ đề tâm hiện diện, mặt trăng của những phương tiện thiện xảo mọc lên. Nếu bạn thiền định về Bồ đề tâm, mặt trời của quán chiếu thấu suốt sẽ rõ ràng. Nếu bạn thiền định về Bồ đề tâm, tánh giác nguyên sơ hiển lộ tròn vẹn. Bởi Bồ đề tâm, lợi lạc của những người khác khởi lên không cố gắng.

161

Qua Bồ đề tâm, những phẩm tính của mười địa bồ tát được hoàn thành. Tất cả mọi phẩm tính tương đối và một trăm mười hai thứ tự do Của những đại Bồ tát ở địa thứ nhất, Cho đến vô số, không thể diễn tả, không thể đo đếm Những huệ nhãn, thiên nhãn, thần thông vân vân, Cũng như ba mươi hai tướng chánh và tám mươi tướng phụ Của vô số thân vàng ròng của chư Như Lai Tất cả những phẩm tính giác ngộ này khởi lên từ sự tích tập phước đức, Đều nảy sanh từ năng lực của Bồ đề tâm tối thượng, không gì sánh.

Bồ đề tâm hàng phục con quỷ chấp ngã Bồ đề tâm giải thoát khỏi tù đày của sanh tử. Bồ đề tâm làm bốc hơi đại dương khổ đau. Bồ đề tâm làm bình đẳng khổ đau và hạnh phúc.

Bồ đề tâm giống như một cận vệ gan dạ Bồ đề tâm giống như ngọn lửa lớn vào thời kết thúc của một kiếp. Bồ đề tâm giống như trái tốt nhất của một cây thần diệu. Bồ đề tâm mở cánh cửa vào kho tàng của vị tha.

Thiếu Bồ đề tâm sâu xa và tối thượng như thế, Giống như Ram đầy thần lực, người ở trong rừng mười hai năm

162

Nhưng đã bị thúc đẩy bởi bám chấp để chiến đấu với những địch thủ của mình. Hay giống như Gelong Thongpa, dù có thể bay tự do trên trời Nhờ đã làm chủ năng lực và tâm thức, lại bắt đầu một cuộc chiến đấu. Lỗi lầm là không có Bồ đề tâm không gì có thể sánh. Ngay cả chính Brahma (Phạm Thiên) sau khi đạt được phúc lạc vô dục Sẽ trở thành một khúc củi cháy trong địa ngục A tỳ, Và Indra (Đế Thích), dù được tôn thờ bởi toàn thể thế giới, Do sức mạnh của nghiệp sẽ rơi trở lại xuống mặt đất. Không có núi chúa Bồ đề tâm là lỗi lầm.

Trong thế giới này nhiều người được ca ngợi là hàng cao cấp nhất, Như vua chúa, tướng lãnh, thủ tướng và tổng thống, Cuối cùng cũng tự hủy hoại mình và những người khác. Lỗi lầm do thiếu gốc rễ Bồ đề tâm.

Vô số Thanh văn, Bích Chi Phật, và những người cao cả khác Có hai trăm năm mươi lời nguyện giới đức thanh tịnh. Nhưng dù được trang hoàng bởi ba sự tu học,(12) những thực hành liên quan, kinh nghiệm và chứng ngộ, Không có Bồ đề tâm, gốc của tất cả Pháp, Đôi khi, chỉ giải thoát cho chính mình, họ ở lại trong bình an vĩ đại.

163

Trong tất cả những phần bao la của Phật pháp, Bồ đề tâm là tinh yếu cốt lõi, Bồ đề tâm trừ khử sự tổn hại của ba cõi thấp. Bồ đề tâm phát hiện con đường tối thượng của giải thoát.

“Nếu thiền giả có Bồ đề tâm, Ngay dù ông ta không hoàn thành công đức nào qua thân và ngữ, Ông ta cũng không lạc khỏi con đường giải thoát.” Chokyi Wangpo(13) người thông thạo năm khoa học đã nói như thế.

“Năm tội ác kinh khủng nhất và vân vân, mọi hành động xấu lớn lao, Sẽ bị Bồ đề tâm vô địch áp đảo, Và mọi tội lỗi nhỏ hơn cũng sẽ được trừ sạch” Đại pháp sư Ấn Độ Shantideva đã nói như vậy.

“Người nào ở trong Bồ đề tâm tối thượng, Cuộc đời họ sẽ được xem là một khu vườn thích thú, Dù thành công hay ngay cả cơ cực, Những thống khổ của các cõi thấp không còn đe dọa” Đức Di Lặc đã nêu trong Sutra Alamkara.

164

Tóm tắt, Bồ đề tâm quý báu không gì sánh Là tâm cốt của tất cả chư Phật ba đời. Vì không có nó không có cách nào thành tựu giác ngộ, Nó là gốc rễ đích thực của con đường Của kinh điển, tantra và những giáo huấn cốt lõi. Sự thực hành chuẩn bị tuyệt hảo phát Bồ đề tâm này Được ca ngợi bằng một giọng bởi tất cả triệu triệu bậc thánh trong quá khứ. Nó không nên trở thành chỉ là hiểu biết trí thức, Mà phải được suy nghĩ lập đi lập lại, Và kết hợp với con người của bạn, hỡi các bạn lòng của ta!

Chớ phóng dật, hãy tu hành Bồ đề tâm., chớ phóng dật Chớ lầm lỗi, hãy tu hành Bồ đề tâm, chớ lầm lỗi Chớ đi lạc, hãy tu hành Bồ đề tâm, chớ đi lạc Nếu nền tảng Bồ đề tâm không vững chắc, Những giáo huấn cốt lõi cực kỳ sâu xa và chánh yếu của hai giai đoạn sáng tạo và thành tựu, Và những thực hành khác, sẽ khó viên thành. Bởi thế sự phát sanh sơ khởi của Bồ đề tâm là điểm bắt đầu của con đường.

165

III Hãy nghe nữa các bạn lòng của ta! Thứ hai là cái tuyệt hảo của sự thực hành chính yếu vô niệm, Những tri kiến sâu xa của Mahamudra, Mahasandhi và Trung Đạo. Không có cái này, mọi thực hành đều không có bản chất, như chỉ là một phản chiếu, Như người mù không người dẫn dắt, có nói như thế.

Phương diện bổ túc của phương tiện là trí huệ; con đường thiêng liêng này Là sự thực hành tánh Không, chân lý tuyệt đối. Người nào không nỗ lực thực hành điều ấy, Làm sao người ấy có thể bay với chỉ một cánh trong hai cánh phương tiện và trí huệ? Bởi thế, thực hành chính yếu vô niệm tuyệt hảo là quan trọng.

Mọi ý niệm nền tảng bị cắt đứt bởi Trung Đạo; Giáo huấn cốt lõi của con đường là Đại Ấn; Kết quả tối hậu là Đại viên mãn. Hỡi Damchoš Zangmo liên hệ duyên nghiệp của ta, Đây là cách thức thiền định về những thực hành này:

166

Không như một con bướm chấp chới trong bầu trời, Mà nhờ những giáo huấn cốt lõi, Giống Như Chim Garuda Vĩ Đại Bay Vút Trong Không Gian, Hãy hùng dũng cắt đứt mọi giới hạn bằng cái thấy thống trị trùm khắp.

Không phải với những cố gắng của những người ngu si ngoan cố, Mà nhờ những giáo huấn cốt lõi, Ba Vòng của Pháp Tánh của Ba Điểm Chính Yếu, Hãy an lập cái thiền định toàn quyền, bản tánh vốn sẵn của chính mình.

Không phải nhờ hoạt động phù phiếm, ngu ngốc, Mà nhờ những giáo huấn cốt lõi của Đạt Đến Vị Bình Đẳng Bao La Hãy làm bình đẳng nhất như những mùi vị của sanh tử và niết bàn với hoạt động thông suốt thống nhiếp.

Không như ánh sáng của một con đom đóm, Mà nhờ những giáo huấn cốt lõi của Mặt Trời và Mặt Trăng Không Khuyết và Không Che Ám, Hãy rõ biết tánh Giác bổn nhiên, kết quả thống nhiếp.

Lại hãy nghe, các bạn lòng của ta! Tâm yếu của chư Phật Chiến Thắng của ba đời, Cái bí mật nhất của Kho Tàng Bí Mật Vĩ Đại của Những Dakini,

167

Ánh sáng tinh chất nhất của Mười Bảy Tantra về Quang Minh, Tinh túy chính yếu của Một Trăm Mười Chín Giáo Huấn Cốt Lõi, Điểm cô đọng thiết yếu nhất trong mọi điểm thiết yếu, Là Kho Tàng Của Những Giáo Huấn Cốt Lõi Dòng Truyền Tai của Phật toàn hảo Drimé Oser:(14)

Giáo Huấn Cốt Lõi của sự Làm Vỡ Tan Vỏ Bọc Vô Minh. Giáo Huấn Cốt Lõi của sự Cắt Đứt Mạng Lưới Mê Lầm. Giáo Huấn Cốt Lõi của Bình Đẳng như Hư Không. Giáo Huấn Cốt Lõi Phá Hủy Căn Lều của Nhị Nguyên Phân Biệt. Giáo Huấn Cốt Lõi Chỉ Bày Sự Phân Biệt giữa Sanh Tử và Niết Bàn. Giáo Huấn Cốt Lõi Chỉ Bày Tức Thời Tánh Giác Vốn Sẵn. Giáo Huấn Cốt Lõi Tinh Chất Hóa Một Trăm Điểm Thiết Yếu. Giáo Huấn Cốt Lõi Soi Sáng Cách Thức Duy Trì Các Kinh Nghiệm Thiền Định. Giáo Huấn Cốt Lõi Phát Hiện Cái Biết Đơn Nhất Giải Thoát cho Tất Cả. Chu Trình của người Bà La Môn Phân Biện Với Sự Xác Quyết Đế Vương. Và Giáo Huấn Cốt Lõi Hiện Tiền Phát Lộ Giải Thoát Tự Nhiên…

Những cái này không nên chỉ là lý thuyết. Hơn nữa, hãy đâm thủng lõi của mê lầm tương tục của vô minh Với nghĩa căn cốt của ba lời sắc sảo.

168

Lại hãy nghe, các bạn lòng của ta! Chớ thi thiết, chớ thi thiết, chớ làm biến đổi tâm bạn, Khi đi vào tạo tác và sửa sang, Tâm sẽ bị quấy nhiễu, Và trạng thái giả tạo này của tâm Sẽ che ám trái tim của sự việc. Tâm tự nó, tự do với tạo tác, là khuôn mặt bổn nguyên, đích thực của mình. Hãy nhìn thẳng trần trụi vào bản tánh vốn sẵn này, không biến đổi, Hộ trì dòng thiền định, Tự do với tạp chất do giả tạo.

Mọi pháp được chứa đựng trong cái vô cùng của sanh tử và niết bàn, Một cái là toàn thiện, hai cái là toàn thiện, Tất cả đều toàn thiện trong tâm: Hãy an trụ trong trạng thái bổn nhiên của tâm, Đại viên mãn. Một cái là giải thoát, hai cái là giải thoát, Tất cả đều giải thoát trong địa vị của chúng: Hãy an trụ trong trạng thái vốn giải thoát tự nhiên, Đại viên mãn.

Thoát khỏi phóng tưởng, thoát khỏi bám chấp, thoát khỏi thiền định, vượt khỏi trí thức: Hãy an trụ trong trạng thái vượt khỏi tâm, ý, ý thức, Đại viên mãn.

169

Vô ngã, vô sanh, tự do với biên kiến, không thể diễn tả: Hãy an trụ trong bản tánh bất khả tư nghì, Đại viên mãn.

Hiện diện nguyên sơ, xảy ra tự nhiên, tất cả đều toàn thiện tự nhiên: Hãy an trụ trong tính bình đẳng tự nhiên của Đại viên mãn. Chân thật bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng, tất cả là bình đẳng: Hãy an trụ trong tính bình đẳng của Đại viên mãn. Toàn khắp, pháp tánh rỗng rang, bầu trời lồng lộng: Hãy an trụ trong trạng thái của Đại viên mãn, bao la như hư không. Tự do với chuồng cũi của biến đổi, tác nhân của biến đổi, và tất cả thứ gì biến đổi, Hãy an trụ trong trạng thái của tánh tự nhiên không thi thiết vĩ đại. An trụ không thi thiết, bạn sẽ gặp bổn tâm tự hữu. An trụ trong không-thiền định, bạn sẽ thành tựu một cách tự nhiên Phật tánh vốn sẵn đủ. Trong cảnh giới Không của trí huệ giác tánh bẩm sinh, Hãy an trụ trong trạng thái của Phổ Hiền (Kuntuzangpo)(15) tự hữu.

Bồ đề tâm tuyệt đối thì thanh tịnh như bầu trời, Mặt trời trí huệ của tánh giác bẩm sinh lộ rõ nguyên sơ, Phổ Hiền hiện diện tự khởi một cách bổn nguyên. Bạn có thể nghĩ nó là vĩnh cửu, nhưng không phải,

170

Bạn có thể thấy nó như không hiện hữu, nhưng không phải, Cũng như thế đối với vừa có vừa không và không có không không… Bản tánh của tâm không khác biệt, thống nhất, như bầu trời. Những tâm trí non nớt nghi ngờ chúng sai hay không sai.

Thanh tịnh từ vô thủy, là ý nghĩa của Pháp thân vĩ đại Phân tích nó bằng những tiến trình tri thức, Thì dù chúng ta có tìm kiếm Hết cả một đại kiếp, chúng ta sẽ không tìm ra nó. Người không được chỉ cho biết, non nớt, cố gắng cởi tháo những nút thắt trong hư không: Ôi, đáng thương biết bao, những người ngu mê ấy! Rốt lại, có ích gì khi làm bao nhiêu tạo tác?

Bất kỳ nơi nào có một điểm quy chiếu, ở đấy có cái thấy bị nhiễm độc, Nơi nào có trụ, nơi đó là con đường lừa dối của thiền định, Nếu có chọn lấy và chối bỏ, đó là hành động lầm lỗi, Nơi nào có một mục đích trong tâm, quả sẽ bị ngăn ngại: Hãy đơn giản ở yên trong một trạng thái không phóng tưởng, thoát khỏi bám nắm.

171

Bất cứ đối tượng thiền định nào, người thiền định nào, Bất cứ phương pháp nào, chúng ta thiền định thế nào v.v… Hãy vượt khỏi tất cả những thứ ấy vào trong Pháp giới, Cảnh giới hiện diện bổn nhiên của tâm-trí huệ, Sự không-hành của Phổ Hiền.

Người nào không bám níu Vào những cực đoan nhị nguyên của sự tham thiền Và không tham thiền, Liền bước vào trạng thái bất nhị vĩ đại vượt khỏi trí thức.

Pháp tánh không thể tỏ bày một cách cục bộ bằng viết lách, Và dầu những giải thích dài dòng cũng khó nhận ra: Cái thanh tịnh đồng nhất, tánh Như nguyên sơ, Vị bình đẳng vô biên. Không gian vô vi bổn nhiên của Phổ Hiền.

Hãy nghỉ ngơi an ổn trong pháp giới vô cùng bao la, Và không dựa gì vào những khó nhọc của hàng trăm con đường. Bấy giờ mặt trời tâm-trí huệ của Drimé Oser Phổ Hiền Mọc lên chắc thật trong lòng bạn,

172

Thế nên hãy tinh chiết hàng trăm điểm yếu quyết vào trong một cái, những bạn lòng của ta! Pháp thân thì hằng hằng bất biến. Như con chim mù bay tìm những giới hạn của bầu trời, Hay như một người mù khảo sát thân một con voi, Người ta sẽ không bao giờ tìm ra những giới hạn của pháp tánh không tạo tác.

Cái tuyệt đối thì không cố gắng, chớ cố công quá nhiều, Hãy buông bỏ chín hành động thân khẩu ý(16) của những thực hành bày đặt giả tạo, Và ở lại trong dòng tự nhiên bổn nguyên bao la. Không nương dựa vào những con đường bày đặt giả tạo khác nhau, Người ta thành tựu Phật tánh trong một đời, Quả tối hậu, không bày đặt, tuyệt đối. Drimé Oser và những vị khác đã nói như thế, Cũng như một trăm ngàn vidyadhara thành tựu, Thế nên hãy giữ ý nghĩa của điều này trong tâm, các bạn lòng của ta!

Nào, nếu mắt bạn mở, chớ nhảy vào vách đá! Chớ bỏ vương quyền tối cao, và trông chờ cái gì đâu khác! Chớ bỏ qua con voi, và đi tìm những dấu chân nó! Chớ vất bỏ cái nhân và giữ vỏ!

173

Giống như những phẩm tính đặc biệt phân biệt vàng và đồng. Chân lý của sự phân biệt giữa tâm thức và Rigpa sẽ rõ ràng khi bạn áp dụng sự thực hành. Tánh giác vốn sẵn, viên ngọc như ý vương quyền tối cao, Là lời khuyên bảo tinh chất của lòng, hỡi các bạn lòng của ta.

IV Sự thực hành tóm kết là cái tuyệt hảo của hồi hướng công đức. Lấy bất kỳ công đức nào được hoàn thành ở đây như một ví dụ, Và gồm nó chung với tất cả công đức được tích tập qua suốt ba thời Bởi chúng ta và tất cả chúng sanh Vừa cả cái có quy chiếu và cái với sự thanh tịnh không quy chiếu ba phần(17) Như chư Phật và Bồ tát hồi hướng trọn vẹn công đức của các ngài Cho tất cả chúng sanh không trừ sót, vô biên như không gian, Để nhanh chóng đạt được giác ngộ viên mãn vô thượng, Hãy đóng dấu ấn niêm công đức này với một lời cầu nguyện tuyệt hảo của hồi hướng thanh tịnh.

Bằng việc này, những thiện căn sẽ không bị hư hoại bởi những hoàn cảnh, Mà tăng trưởng hơn gấp nhiều lần cho đến giác ngộ. Dấu hiệu phân biệt duy nhất này, không tìm thấy ở những vị thầy khác(18) Được tán thán mạnh mẽ trong những kinh, tantra và luận,

174

Như Kinh Hoa Nghiêm, Một Trăm Ngàn Bài Tụng Bát Nhã, Kinh Vòng Hồi Hướng Toàn Thiện và vân vân. Tất cả những giáo lý vô tận của chư Phật, không có ngoại lệ, Được cô đọng trong sự thực hành ba cái tuyệt hảo này: Sự phát sanh tuyệt hảo Bồ đề tâm như là chuẩn bị, Sự thực hành tuyệt hảo thiền định vô niệm, và hồi hướng những công đức như là tóm kết.

Những Giáo Huấn Cốt Lõi Của Con Đường Phi Thường Của đức Phật Longchen Rabjam nói rằng, “Sự phát sinh chuẩn bị của tâm giác ngộ, Thực hành chính yếu vô niệm, Và tóm kết với hồi hướng, tất cả được áp dụng thấu đáo: Đó là ba cái vô giá để đi hết con đường giải thoát” Kho Tàng Của Viên Ngọc Như Ý cũng nói như vậy.

Vào thời gian của nền tảng, những cái ấy là bản chất của hai chân lý, Trong suốt con đường, là sự hoàn thiện của hai sự tích tập, công đức và trí huệ, Vào thời gian của quả, là sự thành tựu của Pháp thân và Sắc thân và vân vân. Chúng là tinh túy-tâm của tất cả giáo lý của Phật. Nhiều hơn đó thì không cần thiết, ít hơn thì không đủ.

175

Ba cái vô giá này là trái tim và đời sống của con đường, Như thế, hãy đặt chúng vào lòng, hỡi bạn lòng thân quý. Giáo huấn cốt lõi này, cao hơn thuốc trường sanh của lòng, Được soạn thành qua sự chân thành như lời khuyên thành thực Cho người đồng hành của tôi, Damcho Zangmo. Mong nó chuyển hóa một cách tốt lành thành cam lồ của tâm trí!

Bài này được hát ở Dordogne, xứ sở của phúc lạc lớn lao, Trong khu rừng của Phổ Hiền tự hữu, Trong căn lều của trời xanh trống trải hoàn toàn, Và được trao tặng bởi con chó giữa loài người, một hình thể người giữa loài chó, Ông sư xấu tệ, Jamyang rách rưới:

Do những công đức này, tâm bạn chảy vào nghĩa của pháp tánh, Nguyện đây là nguyên nhân của sự hiện thực tâm trí huệ. Hơn nữa, từ giờ cho tới khi giác ngộ Khác với người không đức hạnh, mê mờ, thế tục Họ cư xử như những con chó, con heo, chiến đấu và tranh chấp trong những thành phố u tối, Vật lộn giành giựt không dứt, chất nặng khổ đau Qua sự hội nhập mọi lạc thú vào con đường của giáo lý Mật thừa,

176

Tâm thoải mái trong sự bảo vệ nhanh nhạy của con đường bí mật, Mong rằng chúng ta hưởng thụ những vũ điệu và những bài ca kim cương, Thiện xảo toàn hảo trong việc kinh nghiệm trí huệ của Không-Lạc của bốn niềm vui, Hiện thực hóa đại phúc lạc của tự thân tánh giác, Và nguyện thân thể, tài sản và mọi công đức gom tụ trong ba thời của chúng ta, Nuôi dưỡng sự thực hành làm trọn vẹn giác ngộ.

Nguyện ước vọng này, không chỉ là câu chữ, Mà sự cầu nguyện thành tâm của tôi, Được chư Phật và Bồ tát chấp nhận!

Thế nên bây giờ, từ vương quốc Pháp vĩ đại của Tây phương, Đây là lời khuyên nhủ cho Damchoš Zangcho và những bạn lòng khác: Mong rằng nó được công đức lợi lạc!

177

12. Ý Nghĩa Thiết Yếu Dordogne, Pháp 1983

Con đảnh lễ bậc Thế Tôn vua của bầu trời!

Kye Ho! Hãy nghe, bạn lòng tốt nhất của ta, Mặt trời thông tuệ và hiểu biết tuyệt vời:

Hãy vất bỏ mọi xao lãng, mọi ảo tưởng trải cùng, Và trong một niệm hãy nhìn vào thực tại tuyệt đối, như nó đang là. Giờ đây, đằng trước, đằng sau và cứ thế, Trong mười phương, ở dưới và ở trên, Tất cả ba vô số tri giác – ngoài, trong và chặng giữa – Dù chúng xuất hiện, tất cả chúng là thực tại tuyệt đối như thị, Và sự biểu lộ tự nhiên của nó không gì khác hơn là trò phô diễn sáng tạo.

Bên trong, hãy nhìn vào bản tánh của tâm bạn, Tâm như hư không, tự nhiên, không cố gắng, Tự nhiên như thị, thanh tịnh bổn nhiên từ vô thủy, Sự thật tối hậu, vượt khỏi sự hoàn thành do cố gắng với nhân và duyên, Cái minh triết vĩ đại của tánh tỉnh thức bẩm sinh, tự chiếu sáng, tánh giác bổn nhiên của chính mình,

178

Siêu vượt khỏi mọi nơi chốn, dừng trụ, đến và đi, Trạng thái tự nhiên tự do với mọi ý niệm, phóng tưởng và mọi nhập định. Mọi sự là dòng chảy tự nhiên, cái hằng cửu tự nhiên vĩ đại, Minh triết vượt khỏi tư tưởng, diễn tả và thí dụ, Tâm Phật, bản tánh của pháp giới bao la, Tâm-trí huệ của Samantabhadra tự hữu, Chỗ đến tối hậu của tất cả các pháp, Của những kinh điển, tantra, truyền thọ và giáo huấn cốt lõi, Được tán thán bởi triệu triệu bậc học giả và thành tựu trong quá khứ, Không chỉ một lần mà lập đi lập lại. Cái ấy ta yêu cầu bạn lấy làm tâm của mọi thực hành.

Sự thiền định đúng đắn về ý nghĩa này: Điểm bắt đầu của thực hành là niềm tin và ước mong giải thoát khỏi sanh tử. Nền tảng của sự thực hành là bốn chuyển hướng của tâm,(19) Cơ sở của sự thực hành là quy y và Bồ đề tâm. Người bảo vệ của sự thực hành là cầu nguyện hồi hướng hoàn toàn thanh tịnh. Đây là điểm cốt yếu sâu xa của mọi con đường kinh điển và tantra. Vì chúng làm cho chúng ta đạt đến điểm rốt ráo của con đường thực hành, Chúng là những gốc rễ và không nên bị bỏ quên. Bởi thế, con của lòng ta, ta yêu cầu con giữ nó trong lòng con!

179

Nếu người ta đi đến tinh túy, mọi cái này sẽ được bao gồm, Nếu không, bấy giờ tất cả hiểu biết và nghiên cứu, Dầu người ta cặm cụi với chúng hàng đại kiếp, cũng sẽ chỉ là nguyên nhân của lao nhọc.

Lời dạy cốt yếu này được nói lên Bởi tôi, con người lôi thôi xấu xa Jamyang Dorje. Tôi tặng lời khuyên giống như trái tim tôi này Cho bạn, bạn lòng yêu quý nhất của tôi. Chớ có ruồng rẫy nó, mà cất giữ nó trong lòng bạn, Do công đức này, nguyện tâm bạn hoan hỷ trong thực hành Liên tục, không cách hở, ý nghĩa thiết yếu! Đây là sự chỉ dạy cho hành giả Hoa Kỳ tên là Surya, người học những truyền thống Phật giáo và không phải Phật giáo.

Géo! Mangalam!

180

LỊCH SỬ 13. Dòng Đại Toàn Thiện của Nyoshul Khenpo Surya Das viết

Những giáo lý và thực hành của Ati Dzogchen, Đại viên mãn, truyền xuống từ hai đạo sư không ai sánh kịp người Ấn ở thế kỷ thứ tám là Guru Rinpoche và Vimalamitra qua một dòng phái đặc biệt những đạo sư thành tựu và học rộng người Tây Tạng, cũng như qua những khám phá phát hiện bằng linh kiến. Trong thế kỷ mười bốn, những giáo lý hợp lại nơi Longchen Rabjam toàn giác, cũng được biết với tên là Gyalwa Longchenpa, con người trỗi vượt của Cựu Phái Nyingma. Truyền thống Đại viên mãn này được biết như là Đại viên mãn Nyingthig

Sơ Kỳ hay Tinh Túy Tâm Yếu.

Rigdzin Jigme Lingpa là người kế thế của Longchen Rabjam. Vào thế kỷ thứ mười tám ngài nhận lãnh những giáo lý và trao truyền trọn bộ của Đại viên mãn Nyingthig trong những linh kiến từ Manjushrimitra (Jampel Shenyen), Guru Rinpoche, Vimalamitra và Gyalwa Longchenpa. Trong ba linh kiến rõ ràng về Longchenpa, Jigme Lingpa nhận những ban phước từ vị guru vô song của mình, ngài là một với Phật Samantabhadra nguyên sơ, và đạt đến giác ngộ. Gyalwa Longchenpa tạo ra hơn hai trăm tác phẩm, một số hiện nay vẫn còn. Những bản văn giác ngộ do Rigdzin Jigme Lingpa viết, như là Yonten Rinpoche Dzeu, chứa đựng tinh túy cô đọng của tất cả những giáo huấn và bình giải vô tận của Gyalwa Longchenpa, bao gồm Bảy Kho Tàng nổi tiếng của Longchenpa. Trong bản chất, những tác phẩm này bao gồm tất cả Phật

181 pháp vô lượng. Những terma, những kho tàng Pháp được khám phá trở lại – mà Jigme Lingpa đã nhận được trong năm (hay bảy) cuộn sách màu vàng, cũng như từ tâm qua tâm – tạo thành nền tảng của truyền thống được biết với tên là Longchenpa Nyingthig, Tinh Túy Tâm Yếu của Pháp Giới Bao La. Cái này cũng được biết như là truyền thống Đại viên mãn Nyingthig Hậu Kỳ. Những chi tiết về Gyalwa Longchenpa, Rigdzin Jime Lingpa và những vị tổ khác của dòng Đại viên mãn phát xuất từ Samantabhadra và Garab Dorje được diễn tả trong nhiều sách và lời dạy khác. Chương này diễn tả ngắn gọn dòng Longchenpa Nyingthig mà Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje đã nhận lãnh và giảng dạy, truyền từ Rigdzin Jigme Lingpa trong một dòng ban phước tiếp nối tương tục. Đây là tinh túy tâm yếu của Longchenpa và Rigdzin Jigme Lingpa toàn giác, dòng cực kỳ tắt và trực tiếp đặc biệt của Longchen Nyingthig, terma của Jigme Lingpa, hơi thở tươi mới của các dakini, đường tắt kim cương của Dorje Sempa. Trước tiên, một diễn tả ngắn về dòng Đại viên mãn tổng quát, dòng dài hay ringyu. Dòng này truyền từ Phật Samantabhadra nguyên sơ đến Dorje Sempa, Garab Dorje, Jampel Shenyen, Shri Simha, Jnanasutra, Vimalamitra, Padmasambhava, và bao gồm nhiều lama giác ngộ theo dấu chân của các ngài. Tất cả được ghi chép trong dòng dài kahma, giải thích dưới đây. Với những pháp danh của những lama truyền dòng, xin xem lời cầu nguyện dòng của Nyoshul Khenpo, có tên là Osel sangwa nyingthig gi gyupai soldeb mutig trengwa, Cầu Nguyện Dòng Chuỗi Hạt Trai Tinh Túy Tâm Yếu Bí Mật. Theo dòng Đại viên mãn Nyingthig tổng quát, giữa pháp sư Vimalamitra thế kỷ thứ tám và Longchenpa, có mười hai vị nắm giữ dòng kiệt xuất và giữa Longchenpa và Jigme Lingpa có mười bốn vị. Điều này chỉ xét về những vị nắm giữ dòng, chứ không kể đến những người thành tựu khác đã học theo các vị. Dòng Đại viên mãn dài này như vậy đi xuống từ Phật Samantabhadra, từ thầy qua trò, trong một dòng chảy không đứt đoạn cho đến ngày nay.

182

NHỮNG GIÁO LÝ ĐƢỢC TRAO TRUYỀN NHƢ THẾ NÀO

Những giáo lý của Nyingma hay phái Cựu Dịch được truyền qua hai hệ thống chánh, dòng Kahma và Terma. Kahma để chỉ mọi giáo lý và trao truyền trải qua những thế kỷ bởi dòng dài những vị thầy và đệ tử. Terma để chỉ những giáo lý đã được cất giấu từ trước rồi được khám phá trở lại của dòng tắt và trực tiếp (nyegyu) từ Guru Rinpoche và những vị giác ngộ khác. Những đạo sư này trao truyền giáo lý một cách trực tiếp, qua các thân-trí huệ bất tử của các ngài, trong kinh nghiệm linh kiến, đến vị terton người khám phá và phát hiện những giáo lý này. Terma Longchen Nyingthig của Jigme Lingpa là một trao truyền cực kỳ mãnh liệt và sâu xa, tươi mới, tắt và trực tiếp như vậy. Trong chín bộ tác phẩm của Jigme Lingpa, có hai bộ là gong ter, kho tàng tâm-trí huệ. Jigme Lingpa nói rằng có bốn mục đích đối với sự khám phá terma: để cho Pháp không bị biến mất; để cho những giáo huấn tinh túy không trở nên hư hao qua những thời kỳ lâu dài, khi những lỗi lầm và vi phạm các cam kết và sự hiểu lầm xảy ra; để cho những ban phước gia bị không bị phai nhạt; và để cho dòng trao truyền trực tiếp được duy trì. Những giáo lý terma do Guru Rinpoche Padmasambhava truyền lại thì thích hợp với những nhu cầu và tính chất khác nhau của đủ loại người ở những nơi chốn và thời gian khác nhau. Người ta có thể đạt được quả tối hậu của con đường bằng cách thực hành chỉ một terma riêng biệt, bởi vì mỗi cái tự nó đã trọn vẹn. Tuy nhiên để bảo tồn và xiển dương tất cả những giáo lý của Phật pháp trong toàn bộ của chúng, người ta cũng phải nhận sự trao truyền của dòng kahma. Bởi thế, kahma và terma thường được thực hành và chuyển trao không riêng biệt và tách lìa nhau. Những giáo lý Đại viên mãn thường được xếp thành ba phạm trù: Sem De, Loại Tâm; Long De, Loại Pháp Giới; và Men Ngag Gi De, Loại Những Giáo

183

Huấn Cốt Lõi. Sự xếp loại ba phần này do Jampel Shenyen, đệ tử của Garab Dorje làm ra. Hai mươi mốt tantra chánh tạo thành nền tảng của Sem De. Chín tantra (chia làm ba nhóm: trắng, đen và đủ màu) tạo thành nền tảng của Long De. Phạm trù Men Ngag Gi De phân thành chín loại nhỏ. Cái thứ tư của chín loại này, Gyu Rangshung, là bản văn của những tantra gốc và những tantra giải thích trong hình thức đầy đủ và tinh túy nhất. Chúng đích thực là những giáo huấn cốt lõi. Loại Gyu Rangshung trong Men Ngag Gi De bản thân nó phân thành bốn nhóm gọi là Thigle Korshi. Bốn nhóm này là Chikor, Vòng Ngoài; Nangkor, Vòng Trong; Sangkor, Vòng Bí Mật; và Yangsang Lame, Tối Mật và Tối Thượng. Sự phân chia bốn nhóm này do Shri Himsa, đệ tử của Jampel Shenyen làm ra. Nyingthig là rút ngắn của Nying Gi Thigle, nghĩa là Tinh Túy Tâm Yếu hay Tinh Túy Sâu xa Nhất. Nó ám chỉ đến những giáo huấn cốt lõi tinh túy nhất (men ngag) của Ati Dzogchen. Chữ “nyingthig” chỉ gắn liền với Men Ngag Gi De, nhóm giáo huấn cốt lõi của những giáo lý Dzogchen. Hơn nữa, nó thường ám chỉ đặc biệt đến tâm lõi tận cùng, sâu xa và bí mật nhất của những giáo huấn cốt lõi này, có tên là Yangsang Lame. Bởi thế, những giáo lý cũng được biết như là Sangwa Nyingthig (Tinh Túy Tâm Yếu Bí Mật), Osel Nyingthig (Tinh Túy Tận Cùng Quang Minh), hay Men Ngag Nyingthig (Tinh Túy Tâm Yếu của Những Giáo Huấn Cốt Lõi). Mỗi từ này ám chỉ đến những giáo lý Nyingthig tìm thấy lúc đầu trong phần Yangsang Lame của Men Ngag Gi De. Mười bảy tantra chánh của Men Ngag Gi De tạo thành nền tảng cho Yangsang Lame. (Theo truyền thống của Vimalamitra, có mười tám tantra; theo truyền thống của Guru Rinpoche, có mười chín. Chúng hầu hết cùng là những tantra y nhau, với vài thay đổi chút đỉnh; cả hai đạo sư đều nhận sự trao truyền từ Shri Simha). Những tantra này được tìm thấy trong ba mươi sáu bộ toàn tập của những tantra Nyingma, được gọi là Nyingma Gyubum,

184

được gom lại bởi Terchen Ratna Lingpa, vị vĩ đại nhất của mười ba lingpa tối cao, những vị terton hay đạo sư kho tàng. Với người bình thường thật khó khăn để hiểu những tantra mà không có những giải thích của một vị thầy chứng ngộ. Bảy Kho Tàng (Dzodun) của Gyalwa Longchenpa được viết để làm sáng tỏ ý nghĩa cực kỳ sâu xa của mười bảy tantra chính của Dzogchen, cũng như những giáo lý của chín thừa. Vì mục tiêu của sự thực hành hiện thực của Đại viên mãn tùy theo những tantra này, Longchenpa gom các terma riêng của ngài, cũng như của Chetsun Senge Wangchuk (vị về sau tái sanh là Jamyang Khyentse Wangpo), và của Pema Ladrey Tsel (tiền thân của Longchenpa), thành mười ba bộ toàn tập là Nyingthig Yabshi. Yabshi này là phương diện thực hành của những tác phẩm của Longchenpa và là nền tảng của Nyingthig Cổ. Trong đó ngài tổng hợp Birma Nyingthig của Vimalamitra và Khandro Nying-thig của Guru Rinpoche, và giải thích tất cả những chi tiết thực hành trong ánh sáng của sự chứng ngộ của riêng ngài. Tinh túy cô đọng của mọi giáo lý tantra được soi sáng trong Bảy Kho Tàng của Longchenpa được chứa đựng trong tác phẩm kệ Yonten Dzo, Kho Tàng của những Phẩm Tính Giác Ngộ của Jigme Lingpa. Sự thực hành bao gồm trong Nyingthig Yabshi được cô đọng trong một hình thức dễ áp dụng, trong bốn bộ Nyingthig Tsapod của Jigme Lingpa, trong đó có Triyig Yeshe Lama nổi tiếng. Giáo lý cốt lõi này của Tsapod là nền tảng của sự thực hành Đại viên mãn Togal phi thường của Longchenpa Nyingthig. Những giáo lý hiếm hoi sâu xa và phi thường này giải thích chính xác những phương pháp chính yếu khác nhau để hiện thực hóa trực tiếp những giáo lý tận cùng của Ati Dzogchen, Đại viên mãn, Thừa Tột Đỉnh, nó là phương pháp trực tiếp để chứng ngộ nhanh chóng bản tánh tối hậu của tâm thức, và đạt đến Phật tánh trong một thân ánh sáng cầu vồng. Trong thời đại hiện nay, Longchenpa Nyingthig là thực hành chủ yếu ở trung tâm của mọi giáo lý và giáo huấn cốt lõi của Đại viên mãn.

185

RIGDZIN JIGME LINGPA

Được biết như là một Vidhyadhara toàn giác hay “người nắm giữ tánh giác,” Rigdzin Jigme Lingpa (1729-1798) đã bỏ hai năm trì tụng thần chú và cầu nguyện, và rồi nhận những giáo lý Đại viên mãn từ Lama Thugchog Tsel về bản văn sâu xa Drolthig Gongpa Rangdrol, Tinh Túy Giải Thoát của Tâm Trí Huệ Tự Do Vốn Sẵn. Rồi Jigme Lingpa đến ở trong một cái hang gần Samye Chimpu nhiều năm, nơi đó ngài cầu nguyện thường trực đến Gyalwa Longchenpa. Trong lần ẩn cư nhập thất ba năm lần thứ hai. Jigme Lingpa kinh nghiệm ba linh kiến tỏa sáng về Longchenpa. Trong linh kiến thứ nhất Jigme được ban phước bởi thân trí huệ của Longchenpa, trong lần thứ hai bởi ngữ trí huệ của ngài và trong lần thứ ba bởi tâm trí huệ của ngài. Tâm ngài và tâm Longchenpa hòa lẫn không cách hở, và trong một khoảnh khắc ngài hiểu tất cả kinh và tantra trọn vẹn và không sai lầm. Những chi tiết của câu chuyện này được tìm thấy trong toàn thể những bộ viết về ngài. Có cả một bộ viết hoàn toàn về ngài. Sự thực hành và giáo lý vẫn còn là nguồn cảm hứng chính yếu của chúng ta trong truyền thống Nyingthig hôm nay. (Tiểu sử ngài được Steven Goodman đề cập trong đề tài, “Rigdzin Jigme Lingpa và Longchen Nyinghtig” trong Phật giáo Tây Tạng: Lý Do và Phát Hiện, của Steven D. Goodman và Ronald M. Davidson.) Để nhanh chóng đạt đến chứng ngộ, người ta cần sự ban phước gia bị của vị thầy. Điều này gọi là chinlab kyi gyud, dòng ban phước gia bị. Sự trao truyền huyền bí qua tâm của Jigme Lingpa từ Phật Longchenpa, người đã sống trước đó ba thế kỷ, là một thí dụ của những làn sóng cảm ứng như vậy. Sau những kinh nghiệm này những tác phẩm của Jigme Lingpa ngang tầm với của Longchenpa, dù chính Jigme Lingpa hầu như không từng nghiên cứu những bản văn và bình giảng.

186

Chúng ta cũng có thể xem câu cuyện của Rabjam Orgyen Chodrak, ngài là guru của vị thầy Nyingthig của Jigme Lingpa, Shri Natha (Rabjam Orgyen hay Lama Palgon). Tiếc thay không có những tiểu sử tâm linh viết đầy đủ của cả hai vị đạo sư truyền dòng này.

NHỮNG ĐỆ TỬ CỦA RIGDZIN JIGME LINGPA

Rigdzin Jigme Lingpa có bốn đệ tử chánh giác ngộ, như đã được tiên tri: “bốn Jigme” hay “những vị vô úy”. Họ là Jigme Gyalwai Nyugu, Jigme Thrinley Odzer (Dodrup Chen đệ nhất), Jigme Ngotsel Tenzin và Jigme Kundrol Namgyal. Những dòng của hai vị sau không phát triển rộng rãi; hiện giờ chúng không phân biệt với hai dòng chủ yếu của Longchen Nyingthig, như ngày nay được đại diện bởi những cháu chắt dòng dõi trực tiếp của Gyalwai và Dodrup Chen đệ nhất. Đệ tử nổi tiếng của Gyalwai Nyugu là Dza Patrul Rinpoche (1808-1887) có bốn đệ tử chánh, mỗi vị trong họ trở thành chodak hay người kế pháp của một trong những chuyên môn của ngài: Bát Nhã ba la mật, Luật và Luận, luận lý và tranh luận, và Đại viên mãn. Người đệ tử xuất sắc Patrul Rinpoche tên là Nyoshul Lungtok Lama, Tenpai Nyima, là chodak Đại viên mãn. Chính dòng giáo lý của ngài trở thành truyền thống Nyingthig ở Tu viện Kathok. Nyoshul Khenpo đã theo truyền thống Kathok này. Có nói rằng một trăm ngàn thiền giả Kathok đã đạt được thân ánh sáng cầu vồng của giác ngộ viên mãn qua thực hành con đường đặc biệt này. Tu viện Nyoshul ở Derge, miền đông Tây Tạng, được những đệ tử Kathok của ngài Nyoshul Lungtok xây dựng. Khenpo Ngawang Palzang, vị kế pháp của Nyoshul Lungtok, trở thành vị trụ trì đầu tiên ở đó. Vị khenpo chứng đạo này, Ngawang Palzang, đã nuôi dạy hậu thân (tulku) của Nyolshul Lungtuk là Shedrup Tenpai Nyima, người về sau tiếp tục ngài để trụ trì tu viện Nyoshul Gompa. Dù Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje học với Khenpo

187

Ngawang Palzang, Shedrup Tenpai Nyima mới là guru gốc của Nyoshul Khenpo. Nyoshul Lungtok, đệ tử của Paltrul Rinpoche, có năm đệ tử xuất sắc: hai vị là lingpa hay đạo sư kho tàng, và ba vị là những khenpo thành tựu Đại viên mãn. Trổi vượt nhất trong số đó là Khenpo Ngawang Palzang đã nói ở trên, ngài cũng có tên là Khenpo Ngakga. Ngài là một hóa thân của cả Longchenpa và Vimalamitra. Toàn bộ tác phẩm của ngài gồm mười bộ, và hậu thân của ngài hiện đang sống ở Tây Tạng. Khenpo Ngakga là guru gốc của Jatral Rinpoche Sangye Dorje. Ngakga là một đệ tử sáng chói của Azom Drupka, một trong những đệ tử chứng ngộ của Jamyang Khyentse Wangpo, và cũng là người kế pháp của Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima. Bản thân Khyentse Wangpo đã nhận sự trao truyền Longchen Nyingthig từ Jigme Gyalwai Nyugu, cũng như từ những đệ tử của dòng Dodrup Chen, thế nên trong những đạo sư kiệt xuất này cả hai dòng hòa lẫn. Lerab Lingpa là vị thứ nhất trong năm đại đệ tử của Nyoshul Lungtok, và đã theo ngài nhiều năm. Một trong những vị khenpo Kathok của thời đại đó có ấn tượng mạnh về sự xác tín vĩ đại của Lerab Lingpa về cái thấy, thiền định và hành động của Đại viên mãn – mà ngài đã thành tựu không qua nghiên cứu nhiều về mặt trí thức – đến nỗi ông cũng trở thành một đệ tử sùng tín của Nyoshul Lungtok Lama, sau khi Lerab Lingpa nói với ông rằng ngài đã đạt đến chứng ngộ bằng chỉ Men Ngag Nyengyud Chenmo, những Giáo Huấn Cốt Lõi Truyền Miệng của Nyoshul Lungtok và Patrul Rinpoche. Khi Lerab Lingpa trở thành vị thầy Đại viên mãn của Dalai Lama thứ mười ba, và Jatral Rinpoche dạy cho Nhiếp Chính Reting lên tiếp tục Dalai Lama thứ mười ba, thì dòng này trở nên càng tiếng tăm hơn.

188

Dòng Longchen Nyingthig này truyền như sau:

Vimalamitra và Guru Rinpoche (thế kỷ thứ tám) Gyalwa Longchenpa (1307-1363) Rigdzin Jigme Lingpa (1729-1791) Jigme Gyalwai Nyugu Patrul Rinpoche (1808-1887) Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima Khenpo Ngawang Palzang (1879-1941) Nyoshul Lungtok Tulku, Shedrup Tenpai Nyima Nyoshul Khenpo, Jamyang Dorje (1926-)

Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima xem nyongtri hay những giáo huấn thể nghiệm của Nyingthig quý giá đến nỗi, ngài bắt những lama bác học tầm cỡ – gồm Jamyang Loter Wangpo, Khenpo Tenphel và những khenpo vĩ đại khác – chờ đợi thời gian lâu và hứa thực hành thực sự từng bước, trước khi ngài ban cho họ Triyig Yeshe Lama của Jigme Lingpa theo lối nyongtri, đưa cho những giáo huấn và hướng dẫn từng người căn cứ trên kinh nghiệm tâm linh của mỗi cá nhân hành giả. Về sau, Loter Wangpo – một trong những guru gốc của Dilgo Khyentse Rinpoche, người đã truyền những giáo lý này cho Khyentse Chokyi Lodro và Dilgo Khyentse – đã ghi chép bên lề một bản văn Triyig Yeshe Lama (mà Khenpo Rinpoche đã được thấy), những kinh nghiệm của ngài tiến bộ qua Rigpai tsebeb, cái thấy Togal thứ ba.

189

JIGME GYALWAI NYUGU

Jigme Gyalwai Nyugu là đệ tử lỗi lạc của Rigdzin Jigme Lingpa. Ngài trở thành guru gốc của Dza Patrul Rinpoche. Ngài thường nhận những lời dạy từ Jigme Lingpa, đi vào ẩn cư và thực hành hàng tháng trong những nơi vắng vẻ, rồi trở về với vị thầy giác ngộ của mình để có tiếp những giáo huấn khác. Một lần Jigme Gyalwai Nyugu đang thực hành thiền định Đại viên mãn trong một hang động ở Tsenrong trong hai hay ba năm. Mặc dù những gian khó khắc nghiệt về vật chất, ngài thực hành liên tục với sự chuyên cần vui sướng. Một hôm, sau thời thiền định buổi chiều, ngài rời hang và nhìn vào bầu trời xanh sáng rỡ với một đám mây trắng khổng lồ. Ngài có cảm giác rằng lama của ngài, Rigdzin Jigme Lingpa, và mọi guru của dòng phái ở trong đám mây ấy. Cầu nguyện đến các vị với lòng sùng mộ nhiệt thành, ngài bất tỉnh. Khi ngài tỉnh lại, tâm thức ngài và của guru hòa lẫn, và ngài nhận biết Rigpai nelug, trạng thái bổn nguyên tự nhiên của tánh giác nguyên sơ. Điều này là do sự cầu nguyện sùng mộ không ngần ngừ, những ban phước của dòng phái và sự thực hành mãnh liệt ngài đã dấn thân. Như thế ngài đã chứng ngộ bản tánh tuyệt đối của tâm và của mọi vật. Ba yếu tố tâm linh này là cần thiết để đạt chứng ngộ: sùng mộ, ban phước và thực hành theo tánh Giác. Người ta sẽ không thành tựu nếu chỉ nghiên cứu và phân tích. Ngay vào lúc tâm ngài Gyalwai Nyugu hòa nhập với tâm của guru tức là pháp thân, ngài chứng ngộ chonyi kyi gong, sự chứng ngộ pháp giới tuyệt đối hay tâm Phật. Đó là nyamshak, thiền định. Như là je thob hay sau-thiền- định, năng lực của trí huệ ngài khai triển rộng lớn bao la, và ngài tự nhiên hiểu tất cả giáo lý của Phật pháp mà không cần được chỉ dạy.

190

Khi Gyalwai Nyugu đạt đến chứng ngộ, ngài quyết định từ bỏ hang đá đi xuống núi để gặp lama của mình. Ngài đã ở đó trong một cách khổ hạnh nhất, như một yogi vô danh không thí chủ, không có trợ giúp hay giao thiệp, chỉ là một ẩn sĩ trong núi bình thường, không ai hay biết. Về sau, Jigme Lingpa đặt tên cho ngài là Jigme Gyalwai Nyugu, Đứa Con Vô Uý của các bậc Chiến Thắng, vì sự thành tựu của ngài. Nhưng vào lúc ấy, ngài hoàn toàn vô danh và một mình. Ngài đã quyết định ở trong thất, thiền định trên núi, cho đến khi đạt đến tỉnh thức hay chết trong nỗ lực thử thách. Ngài đã đạt đến chứng ngộ, như thế đã hoàn thành lời nguyện của mình. Khi quyết định xuống núi ngài ở trong một tình trạng sức khỏe tồi tệ. Nửa đường, ngài suy sụp. Ngài nghĩ, “Ta đã thành tựu, nhưng giờ đây ta chẳng có thể làm lợi lạc cho ai. Ta sắp chết ở đây một mình trong hoang vu, nhưng cũng tốt thôi.” Rồi ngài toàn tâm cầu nguyện đến Jigme Lingpa cho ngài có thể làm tròn những mục tiêu và nguyện vọng cho những người khác và cho mình. Cuối cùng có hai người hoang dã dữ tợn cắm lông chim trên tóc xuất hiện mang đến bắp và thịt. Họ cho ngài thức ăn và sau vài ngày ngài hồi phục. Rồi ngài tiếp tục đi cho đến những làng xóm nơi có thể dừng chân. Khi cuối cùng đến Jigme Lingpa, lama nói với ngài đó là hai vị hộ pháp của vùng Tsari ấy, họ là những hóa thân của Shingkyong và vị phối ngẫu, thành viên của chúng hội của Gonpo Mahakala. Họ đã xuất hiện giả dạng thành hai người hoang dã để che chở và cho ngài thức ăn. Rigdzin Jigme Lingpa nói ngài đã đạt đến mức độ chonyi zaysar của Trekchod (không giống như chonyi zaysar của Togal), cấp độ tối hậu của Trekchod, chứng ngộ bản tánh hiện thực của tánh giác bổn nhiên. Sau đó, Jigme Lingpa ban cho ngài pháp danh Jigme Gyalwai Nyugu, hợp theo lời tiên tri Jigme Lingpa đã nhận được rằng ngài sẽ có bốn đại đệ tử tên là Jigme. Jigme Gyalwai Nyugu gốc người xứ Kham. Ngài đã bỏ quê hương nhiều năm trước và dành nhiều năm để thực hành và nhận lãnh những chỉ dạy trong vùng chung quanh Lhasa và Tsari. Sau đại ngộ của Gyalwai Nyugu,

191

Jigme Lingpa bảo ngài trở lại Kham và thiền định nơi một ngọn núi gọi là Tramolung, một ngọn núi có hình dạng núi Zangdok Palri màu đồng đỏ, nói thêm rằng ngài sẽ làm lợi lạc cho đông đảo người. Theo giáo huấn của thầy, Gyalwai Nyugu đến Tramolung. Ngài đã bỏ xứ Kham lâu đến độ không ai nhận ra hay biết ngài. Ngài một mình, chỉ mang cái bị trên vai, khi đến núi ấy ở phía bắc Derge. Nơi đây hoàn toàn hoang vắng, không người không thú, rải rác một ít thực vật. Những người du mục đem gia súc đến đấy vào mùa hè, nhưng họ sống xa hơn về phía bắc, ở những cao độ thấp hơn suốt những mùa khác. Những người du mục đã bỏ đi khi ngài đến. Ngài không có đồ cung cấp hay chỗ ở, nhưng ngài theo lệnh thầy và ở trong một cái hang may mắn tìm ra. Những điều kiện sống cực kỳ khắc nghiệt, nhưng ngài quyết tâm chẳng thà chết còn hơn là không đáp ứng ý muốn của guru toàn giác của mình. Và như thế ngài tồn tại, thiền định hầu hết thời gian và tìm kiếm bất kỳ loại cỏ cây nào ăn được. Sau vài tháng, một nhóm người du hành bằng ngựa đi ngang qua. Một người trong bọn họ, mặc đồ trắng cỡi một con ngựa trắng, gọi ngài và nói, “Ông làm gì ở đây? Ông cho là đã theo lời của guru bằng cách ở đây ư!” Và ông ta chỉ cho một chỗ lạnh lẽo, hoang vắng còn cao hơn sườn núi lộng gió, nơi không có chỗ ẩn trú hay đời sống hoang dã. Gyalwai Nyugu biết đó là một vị hộ pháp trách cứ ngài, và lập tức ngài dời đến chỗ đó. Tại đây ngài ở lại trong hai mươi mốt năm, đến khi tiếng tăm lan rộng và những đệ tử tụ hội tới. Về sau, Patrul Rinpoche trách móc các đệ tử, nói rằng, Jigme Gyalwai Nyugu đã ở hai mươi mốt năm, trong khi họ không thể thiền định ở đó chỉ vài năm. Khenpo Rinpoche nói rằng bản thân ngài chưa hề viếng nơi thiêng liêng đó, vì nó xa chỗ ngài ở, nhưng Dilgo Khyentse Rinpoche có đến thăm chỗ ấy, và nó hoàn toàn không có người ở. Khenpo Rinpoche nhận xét rằng Gyalwai Nyugu, Patrul Rinpoche lẫn Nyoshul Lungtok không một vị nào xây một tu

192 viện hay giữ chứa cái gì, mà chỉ để cho sự vật đến và đi một cách vô tư nhất, chẳng nương dựa vào cái gì ngoài tinh thần sâu xa của Pháp. Lúc ban đầu Gyalwai Nyugu ở đó, trước khi được biết tiếng, ngài suýt chết vì những khó khăn khắc nghiệt phải chịu đựng. Khi nghĩ mình sắp chết, ngài nhớ lại trước kia có lần những hộ pháp đã xuất hiện để cứu ngài, thế nên ngài lại cầu nguyện nhiệt thành đến guru Jigme Lingpa của ngài. Thình lình một thiếu nữ xuất hiện trong vùng hoàn toàn trơ trụi này, mang theo một bình da-ua làm ở nhà. Cô hỏi ngài làm gì ở đây. Ngài nói ngài đang thiền định. Cô nói, “Làm sao thầy có thể thiền định, khi thầy không có thức ăn?” Gyalwai Nyugu nghi ngờ về sự việc này và không muốn chấp nhận thức ăn cúng dường. Ngài nghĩ đây có thể là một âm mưu của ma để cố gắng đánh lừa và ngăn chặn ngài. Ngài lại cầu nguyện mãnh liệt đến Jigme Lingpa. Bầu trời hoàn toàn trong trẻo và xanh ngắt, nhưng trong một đám mây trắng Jigme Lingpa thình lình xuất hiện và nói, “Nếu những cội gốc của những cam kết Mật thừa (samaya) của người yogi không bị hư hoại, chư thiên và thần linh luôn luôn cung cấp nuôi dưỡng.” Rồi ngài biến mất. Như thế, những nghi ngờ của Gyalwai Nyugu tan biến. Ngài nhận ra cô gái là người bảo hộ Dorje Yudronma. Nhận bình da-ua, ngài lấy lại sức khoẻ và có thể thiền định nhiều tháng nữa. Cuối cùng, những người du mục trở lại với đàn gia súc của họ. Một người thấy cái đầu của ngài từ đàng sau, trong quang cảnh trống trải trơ trụi này. Người ấy không biết là người hay ma quỷ, không dám đến gần. Người du mục đến làng gần nhất và kể lại điều đã thấy. Người ta hỏi cái đầu còn đó hay biến mất. Khi ông nói nó vẫn còn, các bạn ông nói rằng phải có một con người ở đó. Người du mục trở lại, và kêu lên từ xa, “Ông là ai? Ông đang làm gì thế?”

193

Ngài trả lời, “Thiền định một chút.” Như thế ngài trở nên được biết tiếng là một yogi đơn độc sống nơi vùng hẻo lánh ấy. Khi những người du mục từ làng trở lại, họ cúng dường ngài thức ăn, cùng với một tấm chăn dầy dệt bằng lông trâu yak, mà ngài dùng làm một chỗ ẩn náu thô sơ. Ngài đã sống trong một chỗ lõm hay cái hố trong đất, nhưng bây giờ ngài dựng lên một cái lều nhỏ với vài cây chống tấm chăn. Khi họ hỏi tại sao ngài sống ở đây, ngài nói rằng lama của ngài bảo ngài thiền định ở đấy, và như thế ngài có thể làm lợi lạc cho nhiều người, đó là điều ngài làm. Dần dần tiếng tăm của ngài lan xa, vì ngài đã ở trong sự cầu nguyện và thiền định hàng chục năm. Hàng trăm yogi tụ tập quanh ngài trong những lều và chái trên núi ấy suốt đời ngài. Gyalwai Nyugu được biết đến như một lama với sự chứng ngộ nội tâm và những phẩm tính tâm linh kỳ diệu. Trong hàng ngàn đệ tử của ngài, những người chủ yếu là Dza Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo, vị Khyentse thứ nhất danh tiếng. Dòng của ngài – dòng thực hành của những giáo huấn cốt lõi Đại viên mãn – được truyền bá rộng rãi. Qua hai vị đại đệ tử này và những người theo họ, dòng này còn sống đến ngày nay. Theo cách ấy ngài làm lợi lạc cho vô số chúng sanh trong thế giới này. Không thể ước lượng hoạt động Phật sự không thể nghĩ bàn của ngài trong những cõi sống khác. Khi những người thực hành này thiền định về Đại viên mãn, mục tiêu và quan tâm duy nhất của họ là chứng ngộ bản tánh tuyệt đối của tâm thức và đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Họ không có mục tiêu nào khác, không làm công việc nào khác. Họ không có nhiều tư tưởng, quan niệm và dự tính. Jigme Gyalwai Nyugu tự nghĩ, “Tôi sẽ chứng ngộ bản tánh của tâm thức. Dù tôi có chết, tôi cũng sẽ chỉ làm điều này và không làm cái gì khác.” Ngài không giống như người thế gian họ có nhiều việc để làm. Với những người thực hành như Gyalwai Nyugu, thật rất đơn giản. Họ chỉ nghĩ, “Tôi sẽ ở lại đây và thực hành cho đến khi chứng ngộ.”

194

Từ một quan điểm thế gian, hình như lạ lùng và khó khăn để hiểu – một ai đó chỉ ngồi và thiền định một mình trên núi gió lồng lộng, không thực phẩm, chỉ ăn cỏ. Thật là kỳ lạ. Milarepa thiền định tám năm trong một cái hang chẳng hạn. Thân thể ngài ốm o, tái xanh, hư hao, dù ngài đến từ một gia đình khá giả. Những người Tây Tạng thường nói, “Làm việc tốt hay mày sẽ kết thúc như Milarepa.” Nhưng đối với Milarepa, đấy là việc duy nhất ngài thấy có ý nghĩa và quan tâm. Một lần, Milarepa gặp những cô gái trẻ và hấp dẫn trên đường, họ hoảng sợ với sự xuất hiện khủng khiếp của ngài. Họ có một mong ước không bao giờ sanh lại trong trạng thái ấy. Milarepa nói, “Dù các cô có muốn, các cô cũng không thể nào sanh lại như thế này.” Đấy là câu chuyện của Jigme Gyalwai Nyugu và như thế nào ngài đạt đến chứng ngộ. Dĩ nhiên có nhiều chuyện khác nữa, Patrul Rinpoche tán thán đạo sư của mình trong bài kệ mở đầu của bộ những giáo huấn cốt lõi truyền miệng về Đại viên mãn của thầy ngài, Tsiksum Nedek, Ba Lời Khuyên Xác Đáng: Cái thấy thì giống như hư không bao la vô tận, Longchen Rabjam. Thiền định thì giống như những tia sáng của trí huệ và từ bi, Khyentse Ozer (Jigme Lingpa). Hoạt động Phật giống như những bồ tát. Jigme Gyalwai Nyugu, con cầu nguyện ngài.

195

PATRUL RINPOCHE

Dza Patrul là đệ tử chánh của Jigme Gyalwai Nyugu. Ngài là hóa thân lần thứ ba của một thành tựu giả về Quán Thế âm có tên là Palgyi Samten Rinpoche. Hóa thân lần thứ hai đã chết trong những năm hai mươi tuổi. Câu chuyện là trong một lễ quán đảnh (wang), chuỗi hạt ngài đã chạm vào một cô gái đang nhận lễ quán đảnh, một cử chỉ mà đối với một nhà sư Tây Tạng được xem là xấu như chạm đến một xác chết. Vị thầy của ngài trách ngài, nói rằng mọi người đều thấy chuyện xảy ra và giờ đây thanh danh ngài đã sụp đổ. Vị tulku trả lời đó là nghiệp và ngài không thể làm gì để tránh được. Sau sự việc đó, ngài chết. Cô gái về sau có một đứa con trai, tức là sự tái sanh của vị tulku ấy – Dza Patrul Rinpoche. Ngài là Quán Thế Âm đại bi trong hình thức con người. Hơn nữa, có nói rằng trong một đời trước, ngài là pháp sư Ấn Độ thế kỷ thứ tám Shantideva, tác giả của Bồ tát hạnh. Patrul nhận pháp danh từ Dodrup Chen Rinpoche thứ nhất, Jigme Trinley Odzer (đệ tử của Jigme Lingpa), người đã xác nhận ngài như là Palgyi Trulku (viết tắt thành Pal-trul hay Patrul). Ngài học ở Tu viện Dzogchen và trở nên rất uyên bác. Guru gốc của Patrul Rinpoche về những giáo lý và trao truyền Đại viên mãn là Jigme Gyalwai Nyugu. Từ vị này ngài nhận lãnh mọi giáo lý, trao truyền và những giáo huấn cốt lõi nói thầm bên tai của Nyingthig. Ngài cũng nhận vô số giáo lý Dzogchen từ nhiều lama, trong đó có Dodrup Chen Rinpoche thứ nhất, Shenphen Thaye và những vị khác. Ngài nhận sự hướng dẫn thực nghiệm hay nyongtri của Đại viên mãn Longchen Nyingthig từ Jigme Gyalwai Nyugu. (Điều này giống như Dilgo Khyentse Rinpoche, người đã nhận vô số giáo lý Đại viên mãn và những cái khác từ nhiều lama, và nhận sự trao truyền chánh về Đại viên mãn từ Shechen Gyaltsab Rinpoche. Khyentse Rinpoche nhận nyongtri Longchen Nyingthig đặc biệt này từ

196

Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, như vị Dodrup Chen thứ tư hiện tại đã làm.) Sau khi nhận sự hướng dẫn cá nhân của thầy mình, Patrul Rinpoche đi vào núi để thiền định, rồi thỉnh thoảng trở lại cho những trao truyền thêm nữa. Đôi khi ngài thực hành rushen (một thực hành căn bản độc nhất trong Đại viên mãn) trong nhiều tháng. Đôi khi ngài chỉ đơn giản trông chừng bản tánh của tâm thức. Có nhiều câu chuyện về Patrul Rinpoche, đã cực kỳ nổi tiếng suốt đời ngài, tuy nhiên ngài luôn luôn vẫn là vị khiêm hạ nhất trong các đạo sư. Patrul Rinpoche có vài vị vua làm đệ tử, dù ngài không cất giữ một cái gì và luôn luôn sống trong những nơi cô quạnh và đi du hành vô danh không ai biết đến. Dù ở những nơi ngài được mong chờ đến dạy, nơi người ta đến từ khắp nơi để nghe ngài, ngài thường đi bộ đến những chỗ ấy, giữa những người bình thường, không ai chú ý. Trong một dịp như thế, ngài gặp một người đàn bà khi đang hành cước. Cô nhờ ngài mang giúp đứa con nhỏ, và sau vài tuần đi chung, cô nói với ngài, “Ông là một người đàn ông dễ mến. Chúng ta đã cùng đi với nhau rất tốt. Tôi cảm thấy tốt đẹp khi đi với ông. Một người đàn bà góa như tôi cần một người chồng, chúng ta nên lấy nhau chứ?” Ngài từ chối một cách tao nhã. Cô ấy không biết rằng ngài là một lama học rộng và đã thành tựu hoàn toàn. Về sau, cô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy ngài ngồi trên cái ngai giảng pháp của một vị đại lama trong một tu viện gần đó, với đông người bao quanh. Một lần Patrul Rinpoche bị các thị giả nấu bếp đuổi đi khi ngài đến thăm một đồng môn, Jamyang Khyentse Wangpo nổi tiếng. Khi Khyentse Wangpo nghe điều gì xảy ra, ngài bảo những thị giả đi tìm ngài Patrul, nhưng vô hiệu. Chính Khyentse Wangpo cũng đã có những kinh nghiệm như thế khi ngài đi hành cước một mình để học hỏi với những đại sư thời mình. Một lần ngài ngủ bên ngoài, gần một cửa một tu viện ngài đã viếng trong cuộc du hành. Vị trụ trì tu viện ấy sau đó đến gặp ngài, chảy nước mắt và xin ngài tha thứ.

197

Một lần Dza Patrul ở Laotang, trong một nghĩa địa đầy ma quỷ. Chúng tìm cách lừa gạt ngài. Có sấm, chớp, những tiếng nói trên không và những ảo ảnh huyễn thuật. Patrul Rinpoche hàng phục tất cả bằng cách cầu nguyện bổn sư của mình và trụ trong bản tánh tối hậu của mọi sự như chúng thật sự là. Qua thể nghiệm này, sự hiểu biết bao la về tất cả kinh điển tự nhiên khai mở trong lòng ngài. Dù ngài đã nghiên cứu rộng trước đó, sự hiểu biết và thấu hiểu của ngài trở thành vô cùng lớn hơn. Cầu nguyện và sùng mộ rất là quan trọng. Đại thành tựu giả Do Khyentse Rinpoche Yeshe Dorje nói với Patrul Rinpoche rằng cũng như Phật Thích Ca đã hàng phục bốn loại ma trong một khoảnh khắc trước dưới cội bồ đề, ngài Patrul cũng đã làm được như thế. Tuyển tập của Patrul Rinpoche gồm nhiều bộ, dù nhiều tác phẩm đã không được sưu tập trong đó. Những bài thơ, kệ ngẫu phát ngài tự nhiên viết hay hát thường được đưa cho bạn bè hay những người tín đồ, rồi cũng biến mất như lá trong gió. Ngài là tác giả của Kungzang Lamai Shelung rất phổ biến, cũng như của nhiều tác phẩm sâu xa khác.

NYOSHUL LUNGTOK TENPAI NYIMA

Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima là đệ tử thượng thủ của Patrul Rinpoche. Trong hai mươi lăm năm ngài nhận nyongtri từ guru của mình, thường đi vào núi và rừng để thiền định sau khi nhận những giáo huấn cá nhân. Patrul Rinpoche luôn luôn ở nơi hoang dã, với chỉ vài đệ tử, và Nyoshul Lungtok ở với ngài phần lớn thời gian. Một lần họ thiền định chung trong núi. Patrul Rinpoche hỏi đệ tử đã chứng biết bản tánh của tâm thức chưa. Nyoshul Lungtok nói rằng ngài chưa thấy biết nó rõ ràng. Họ tiếp tục thực hành. Một buổi chiều họ đốt lửa và nấu vài thức ăn. Thầy lại hỏi đệ tử đã thấu biết bản tánh của tâm thức chưa, và đệ tử lại nói không.

198

Nyoshul Lungtok đã có một giấc mơ cứ tái đi tái lại, trong đó ngài thấy một hạt đá núi của một xâu chuỗi màu đen và Partul Rinpoche mở ra, lộ ra ở giữa là một tượng Phật Vajra-sattva bằng vàng. Patrul Rinpoche nói, khi ám chỉ đến giấc mộng đó, “Chúng ta hãy làm điều đó bây giờ.” Trời chiều. Họ đã thực hành namkhai naljor, yoga như hư không, nằm trên đất, nhìn vào bầu trời tối đầy sao. Từ phía dưới thung lũng họ nghe những tiếng chó sủa từ xa ở tu viện Dzogchen. Patrul Rinpoche hỏi ngài, “Con có nghe tiếng chó sủa không?” Đệ tử bảo có. Patrul Rinpoche hỏi, “Con có thấy sao trên trời không?” Nyoshul nói có. Nyoshul nghĩ, “Vâng, ta có thể nghe những con chó sủa; đó là thức của tai. Vâng, ta có thấy những ngôi sao; đó là thức của mắt. Đó là toàn thể tánh giác!” Trong khoảnh khắc ấy ngài chứng ngộ rằng tất cả đều bao gồm ở bên trong, chẳng phải ở ngoài. Rigpa, tâm Phật nguyên sơ là vốn sẵn ở bên trong. Mọi sự là trò phô diễn của Rigpa, tánh giác vốn sẵn đủ từ xưa nay. Trong giây phút ấy, xích xiềng của sự bám chấp nhị nguyên sụp đổ, hoàn toàn tiêu hoại, và ngài thể nghiệm bản tánh của tâm. Mọi nghi ngờ đều cắt tuyệt từ bên trong, và ngài thấy biết tánh giác không chướng ngại, tánh Không bổn nhiên. Đây là do sức mạnh thực hành thiền định ngài đã làm – vì ngài đã thực hành rất miên mật – phối hợp với sự gia bị của guru, người mà ngài đã tin tưởng và trông cậy hoàn toàn. Những câu hỏi của Patrul Rinpoche hỏi vào lúc đó chỉ là chỗ dựa cho sự trao truyền những ban phước tâm linh của ngài. Hỏi đệ tử có thấy và nghe thì không phải là một khảo sát trí thức, một giải thích về Pháp, hay bất cứ thứ gì đại loại như vậy. Đó là một cách thức thân mật, trực tiếp không thể nghĩ bàn để đổ rót những ban phước từ thầy vào trò. Theo cách này, Nyoshul Lungtok đạt đến đại chứng ngộ. Patrul Rinpoche bảo Nyoshul Lungtok chớ dạy Đại viên mãn cho đến khi ngài hơn năm mươi tuổi. Lúc ấy hãy dạy nó cho bất kỳ người nào ngài muốn dạy. Dza Patrul Rinpoche cũng tiên đoán rằng Nyoshul Lungtok sau này sẽ

199 gặp một hóa thân của Vimalamitra, người sẽ trở thành người nắm giữ dòng phái. Bởi thế, Nyoshul Lungtok thiền định cho đến những năm năm mươi tuổi, và bắt đầu chỉ dạy. Patrul Rinpoche nói rằng Vimalamitra xuất hóa mỗi một trăm năm, và ngài, Patrul sẽ không gặp được vị ấy, nhưng Nyo-shul Lungtok thì sẽ gặp. Điều này ám chỉ đến Ngawang Palzang, Khenpo Ngakga. Patrul Rinpoche dạy Nyoshul Lungtok hãy giao dòng nyongtri trọn vẹn cho vị ấy. Về sau Nyoshul Lungtok có năm đại đệ tử, hai lingpa hay terton, và ba đại khenpo, trong ấy Khenpo Ngawang Palzang là tối cao. Như thế Patrul Rinpoche trao truyền dòng nyongtri hay giáo lý thể nghiệm của Đại viên mãn Nyingthig cho Lungtok Tenpai Nyima. Patrul Rinpoche truyền dòng shetri đặc biệt hay giáo lý lý thuyết cho Orgyen Tenzin Norbu. Thực sự, Dza Patrul có bốn đại đệ tử và những người nối Pháp (chodak), mỗi người trong họ giữ một trong những chuyên môn của ngài, như đã nói ở trên. Nyoshul Lungtok nắm giữ dòng Đại viên mãn Men Ngag Nyongtri, dòng sau này Nyoshul Khenpo nhận lãnh. Khi Patrul Rinpoche lấy Nyoshul Lungtok làm người truyền thừa về Đại viên mãn, ngài đưa cho đệ tử bản chép tay của ngài Dzodun, Bảy Kho Tàng của Longchenpa. Tuyển tập này, sau khi Patrul Rinpoche và Nyoshul Lungtok Lama dùng, được lưu giữ như một vật để thờ tại Tu viện Nyoshul cho đến nay, khi chính Nyoshul Khenpo Rinpoche có dịp may thấy và tôn kính nó. Đã không có ai mở nó ra từ nhiều thập kỷ. Patrul Rinpoche truyền dòng giáo lý giải thích (shetri) cho Orgyen Tenzin Norbu, người cũng được biết với tên là Khenpo Tenga. Vị thầy này sau đó truyền cho Khenpo Shenga và Khenpo Yonten Gyamtso (cũng có tên là Yon-ga), hai đại khenpo của Tu viện Kathok, họ là đệ tử của Orgyen Tenzin Norbu và đã gặp chính Patrul Rinpoche. Khenpo Yonga là tác giả của bình giải tuyệt vời về Yonten Dzod của Jigme Lingpa. Khenpo Shenga cũng viết một bình giải chính thống về nó. Trong nhà của Dilgo Khyentse Rinpoche có một bức tượng của đức bảo hộ Tseringma, do Orgyen Tenzin Norbu an vị. Khenpo Yonga là cháu của Orgyen Tenzin Norbu, và đã viết một bình giải

200 nổi tiếng về Bồ tát hạnh của Shantideva. Tất cả những vị khenpo học rộng này đều là những hành giả vĩ đại cũng như là những học giả và vị thầy năng động.

KHENPO NGAWANG PALZANG

Khenpo Ngawang Palzang là đệ tử và người nối pháp vĩ đại nhất của Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima. Ngawang Palzang cũng được gọi là Ngala hay Ngakga, và ngài cũng có một tên lúc nhỏ là Ngalu. Khi còn là một đứa bé, ngài mang những đôi giày ống bằng da và da trâu yak. Một hôm mẹ ngài đem ngài đến Nyoshul Lungtok, để nhận những ban phước trong khi Nyoshul Lungtok đang nhập thất. Vào đúng ngày hôm đó, Nyoshul Lungtok nói với thị giả rằng nếu có ai tới ra mắt ngài thì hãy để họ vào, dù theo lệ thường, thời gian ấy khách phải ra về. Khi bà mẹ và đứa con đến ra mắt vị lama và để nhận ban phước, Nyoshul Lungtok nhận họ. Ngài đặt tên đứa bé là Ngawang Palzang và cho nó một tách trái nho đã cúng và một sợi dây bảo vệ màu đỏ để sống lâu. Ngài cũng nói với bà mẹ hãy chăm sóc thật tốt cho đứa bé, tránh cho nó khỏi những chỗ dơ uế và đem nó trở lại sau này để được giảng dạy. Khi Ngawang Palzang lên tám, ba mẹ của ngài đưa đến gặp lại Nyoshul Lungtok và nhận ban phước. Khi lên mười, đứa bé trở thành người hầu hạ và đệ tử của vị lama vĩ đại này, theo vị ấy đi khắp nơi, đi đàng sau khi đi nhiễu, nghe những bài thuyết pháp ngài ban cho ở những nơi ngài đến, ngồi với ngài trong chỗ riêng, hầu ngài trà và thức ăn, và thực hành những thực hành sơ khởi (ngondro) và trì tụng vào thời gian rỗi. Khi vào khoảng mười ba tuổi, ngài thực hành mạn đà la như một phần của ngondro. Nyoshul ban cho ngài một thangka – một bức tranh truyền thống của Tây Tạng – của Longchenpa, và vài viên thuốc rilbu, những thánh tích

201 trong những pho tượng nhỏ, và một sợi tóc của Jigme Lingpa. Ngài được dạy cầu nguyện đến Longchenpa với tất cả những vật nâng đỡ này, chắc chắn sẽ có những ban phước lớn lao. Một hôm, trong khi đang thực hành mạn đà la, ngài có một thị kiến: Có một ngọn núi trắng hình ốc tù và, trên đỉnh là một cánh đồng cỏ phẳng, đẹp, đầy hoa. Và ngài thấy Gyalwa Longchenpa cầm một viên pha lê hình trái tim tỏa ánh sáng năm màu. Rồi Longchenpa ban cho ngài Rigpai tsel wang, quán đảnh thứ tư, sự giới thiệu vào bản tánh tuyệt đối của tâm-trí huệ vốn sẵn đủ, Rigpa. Vào khoảnh khắc đó ngài hiểu được bản tánh của tâm; tuy nhiên ngài còn thấy rằng Longchenpa là khác với ngài, rằng họ là hai. Ngài nói với lama của mình về thị kiến này và trạng thái nội tại của tánh giác ngài đã khám phá. Vị lama bảo, “Đấy có thể là Pháp thân hay alaya (kun shi tiếng Tây Tạng, nền tảng của tất cả các thức). Chúng ta sẽ xét nghiệm sự vi tế này về sau.” Lungtok bảo Ngawang Palzang thiền định về Bồ đề tâm, và ngài đã làm một thời gian dài. Sau đó vị thầy huấn luyện cho ngài trải qua mọi nhánh của Đại viên mãn, từ những thực hành sơ bộ của ngondro đến Trekchod và Togal. Trong cái thấy đầu tiên này, ngài nhận ra bản tánh nền tảng của tâm mình. Rồi khi thực hành Bồ đề tâm, ngài kinh nghiệm bản tánh tuyệt đối của thực tại. Về sau, ngài tiếp tục qua mọi thực hành, từng bước, từng bước đến Togal. Sự chứng ngộ ban đầu của ngài là một cái gì chưa trọn vẹn. Ngài còn có nghi ngờ và cần sự làm cho sáng tỏ, thế nên ngài đi qua mọi phần nhánh này của sự thực hành. Đấy là tại sao có những công việc ngondro, ý nghĩa sâu xa càng lúc càng được thăm dò và làm cho sáng tỏ theo kinh nghiệm cá nhân của mỗi hành giả. Chỉ có những trường hợp hiếm hoi nhất, trong đó chứng ngộ và giác ngộ trọn vẹn xảy ra đồng thời. Những hành giả như vậy, như Garab Dorje, được gọi là chik charpa trong tiếng Tây Tạng, nghĩa là sự thức tỉnh tất cả-trong- một lần hay thình lình đốn triệt. Thông thường, người ta có một kinh nghiệm

202 thức tỉnh, sự chứng ngộ tâm linh, và rồi khai triển cho đến Phật tánh trọn vẹn.

SHEDRUP TENPAI NYIMA

Đệ tử chính của Khenpo Ngawang Palzang là Shedrup Tenpai Nyima, guru gốc của Nyoshul Khenpo Rinpoche. Ngài là tulku của Nyoshul Lungtok, và sinh ra làm con của Terton Yeshe Tenzin, một trong những đệ tử của Nyoshul Lungtok. Một lần Nyoshul Lungtok cho Yeshe Tenzin một lời tiên tri, nói rằng mọi sự luôn luôn đổi thay và một ngày kia ngài, Nyoshul Lungtok sẽ được ban phước từ Yeshe Tenzin, đệ tử của mình. Vào lúc đó. Yeshe Tenzin không hiểu điều thầy mình nói. Nhưng khi có một đứa con trai, một thời gian sau sự ra đi của thầy, và cũng trải qua một giấc mơ rõ ràng về Nyoshul Lungtok, ông nhớ lại lời báo trước của guru và kết luận rằng con mình là hóa thân của ngài. Bởi thế, ông đem đứa bé đến Khenpo Ngawang Palzang và thuật lại cho ngài lời báo trước cũng như giấc mơ của mình. Khenpo Ngawang xác nhận điều đó, nói rằng trước đây ngài đã có mơ thấy đức Quán Thế Âm bốn tay, và rằng Nyoshul Lungtok là một hóa thân của Quán Thế Âm. Như thế, vị tulku đã được xác nhận. Shedrup Tenpai Nyima lớn lên với cha mình và nhận những lời chỉ dạy từ cha. Khi lên chín, người cha tôn quý của ngài, Terton Yeshe Tenzin, ra đi. Ngày thứ ba sau cái chết của cha, đứa bé có một thị kiến về cha mình, mặc đồ trắng, như một yogi, tóc cột thắt, đưa ngài vào bản tánh của tâm thức ngài. Vào lúc ấy ngài thức dậy, nhận biết thực tánh của tâm. Về sau, Shedrup Tenpai Nyima học với Khenpo Ngawang Palzang và nhận tất cả giáo lý, từ ngondro đến Trekchod và Togal, theo truyền thống nyongtri và khai triển mọi kinh nghiệm tâm linh, thị kiến v.v… Khi ngài đã thấu hiểu rõ ràng bản tánh của tâm thức. Shedrup Tenpai Nyima nói với Khenpo

203

Ngawang Palzang về kinh nghiệm đã có một cách ngắn ngủi sau cái chết của cha mình, và thảo luận về trạng thái của tâm thức ngài đã chứng nghiệm. Khenpo Ngawang Palzang nói rằng cái ấy quả thật là bản tánh tuyệt đối đích thực, nhưng ngài còn phải đi qua mọi thực hành để làm vững chắc sự chứng ngộ của mình và làm cho nó không lay động. Shedrup Tenpai Nyima thấy guru của mình, Khenchen Ngawang Palzang và Kunkhyen Longchenpa hoàn toàn đồng nhất: ba lần ngài trải qua những thị kiến về sự bất khả phân của hai vị. Ngài cũng có những thị kiến về Jigme Gyalwai Nyugu, Patrul Rinpoche, Terdak Lingpa và những vị khác. Những sự kiện này không được kể lại trong tiểu sử tâm linh hay namthar của ngài, nhưng được ngài nói riêng với Nyoshul Khenpo Rinpoche. Dòng nyongtri này truyền trực tiếp từ Rigdzin Jigme Lingpa được vẽ trong bản đồ sau.

NYOSHUL KHENPO

Shedrup Tenpai Nyima truyền thừa cho Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje. Nyoshul sinh ở Derge, miền đông Tây Tạng. Tuổi nhỏ, ngài chăm sóc thú vật, vào một Tu viện Sakya vào lúc còn nhỏ (gia đình mẹ ngài thuộc phái Sakya) và về sau trở thành đệ tử của Shedrup Tenpai Nyima ở Tu viện Nyoshul (trong hệ thống Tu viện Kathok), một gompa ở Derge với khoảng một trăm vị tăng và một trường học tu viện. Ngài phục vụ guru của mình như một thị giả riêng (shabshu) trong ba năm khi còn là một đứa trẻ, chịu nhiều gian khổ. Một tập sự nghèo, ngài phải thường xuyên chống lại những đàn chó loại lớn thuộc giống Tây Tạng trên đường đi khất thực. Ngài vẫn còn những vết sẹo trên đùi chứng tỏ điều đó. Ngài quá nghèo đến nỗi không có cả một hạt gạo để cúng khi thực hành những cúng dường mạn đà la, trong khi tu hành ngondro vào tuổi mười hai.

204

Sau cùng, vì quyết tâm mạnh mẽ, ngài vượt trội trong việc học và trở nên rất uyên bác, hoàn thành việc huấn luyện để trở thành khenpo ở trường học tu viện chùa Nyoshul dưới sự hướng dẫn của Shedrup Tenpai Nyima, trong khi vẫn tu hành Đại viên mãn và nhiều kỳ nhập thất, gồm trọn một năm thực hành tsalung yoga trong một cái hang. Khenpo Rinpoche là một trong số ít khenpo Đại viên mãn còn lại ở ngày nay. Ngài là một đệ tử lâu năm của Đức Dudjom Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Kangyur Rinpoche (Longchen Yeshe Dorje), và là một huynh đệ kim cương thân thiết của Jatral Rinpoche Sangye Dorje. Ngài cũng là một Rimé hay một vị thầy không bộ phái. Nyoshul Khenpo có hai mươi lăm vị thầy tâm linh. Ngài nhận những lời nguyện Giới luật từ vị trụ trì phái Nyingma Thubten Gomchok Lekden, người đã nhận chúng từ đại khenpo của Nyoshul, Ngawang Palzang. Khenpo Rinpoche đã viết một cuốn sách biên niên về cuộc đời của những vị nắm giữ dòng chủ yếu trong hệ này, từ đức Phật và các đệ tử của ngài cho đến ngày nay. Khenpo Rinpoche kể lại một câu chuyện về guru Đại Ấn của ngài, Rigdzin Jampel Dorje, vị này đã nhập thất bảy năm tu về Tara, trong thời gian đó ngài hoàn thành một trăm ngàn lần trì tụng Hai Mươi Mốt Tán Thán Đức Tara cho mỗi bài kệ của bài tán ca dài và đẹp đẽ này – hai mươi mốt lần một trăm ngàn trì tụng tất cả. Vị đại lama thấy toàn bộ những cõi Phật và mạn đà la bày hiện của Tara. Khi ngài ra đi, ngài thở ra một hơi thật dài, nói rằng ngài sắp đi đến cõi Phật của Tara, rồi ngài tắt hơi, ngồi ngay thẳng trong thugdam, thiền định tịnh quang, một tuần sau khi chết. Một vị thầy Đại Ấn khác của Khenpo, Lama Tashi Tsering, vốn xuất thân từ một tu viện Sakya. Về sau, ngài bỏ mọi thứ và sống như Gyalwai Nyugu. Ngài thực hành Đại viên mãn Nying-thig trên một ngọn núi hẻo lánh phía đông Derge và trở thành một đại sư của bốn thị kiến Togal. Khi xác ngài được hỏa táng, nhiều xương xá lợi còn lại trong tro trong hình dạng Dorje Sempa, Hevajra, Tara và những hóa thần bổn tôn khác, cũng như có in khắc những chủng tử tự Mật thừa.

205

Vị thầy Sakya của Khenpo Rinpoche là Khenchen Kunga Gyaltsen. Khenpo nhận Lam Dray hay những giáo lý Con Đường và Quả và những trao truyền liên hệ từ vị lama này, ngài cũng đồng thời là một nhà Đại viên mãn. Chuyện kể rằng Kunga Gyaltsen đã nhận quán đảnh Rigpai tsel từ một người có tính khí điên, vị này để hết thì giờ này này sang ngày khác khiêng những tảng đá từ một con sông ở xa về xây một bức tường bao quanh nhà cầu nguyện, và ai cũng cho rằng người ấy điên khùng. Về sau trở nên rõ ra rằng rushen chính là thực hành chủ yếu của vị ấy, và vị ấy đã làm thế trong hai mươi năm. Điều này giải thích tính khí thái độ kỳ lạ, ngoài quy ước của ngài. Kunga Gyaltsen cảm thấy con người có vẻ điên khùng này là một người đặc biệt, bởi thế ngài xin vị yogi điên này kiểm nghiệm sự thiền định của mình. Khi lama Kunga Gyaltsen ngồi thiền, vị yogi điên đánh ngài đàng sau lưng bằng một viên đá để xây tường, trực tiếp đưa ngài vào bản tánh của tánh giác vốn sẵn đủ. Rồi con người tu rushen kỳ quái ấy bỏ chạy mất. Kunga Gyaltsen, một đại khenpo với nhiều thầy và nhiều đệ tử, đã xem vị ấy như một trong những lama gốc chánh yếu của mình, do nhờ buổi gặp gỡ đơn sơ ấy mà có một đại ngộ, sau đó ngài không bao giờ được gặp lại vị kia nữa. Vài lama gốc của Khenpo Rinpoche hiện còn sống ở Tây Tạng. Một trong số đó là đại khenpo tên là Khenpo Munsel từ xứ Golok, đến bây giờ ngài gần một trăm tuổi. Ngài đã ở hai mươi năm trong tù khi xứ ngài bị chiếm đóng, ở trong đó ngài đã bí mật dạy Đại viên mãn cho hàng trăm người bạn tù. Họ đã thực hành và hoàn thành nó mà không có sự nâng đỡ của nghiên cứu hay lễ nghi bên ngoài, trong một thời kỳ mà hình phạt cho sự tuân thủ tôn giáo là tội tử hình. Trong tù, Khenpo Munsel dạy Choying Dzo của Longchenpa và Yeshe Lama của Jigme Lingpa từ trí nhớ. Nyoshul Khenpo nổi tiếng vì sự thông thạo những tác phẩm của Longchenpa và vì những chỉ dạy liên quan đến chúng. Trong nhiều dịp ngài đã được yêu cầu giữ một địa vị một khenpo tại những tu viện và trường của đức Gyalwa Karmapa, đức Dudjom Rinpoche, Situ Rinpoche, Palyul Rinpoche, Pema Norbu và những vị khác. Ngài là tác giả của cuốn Lịch Sử của Đại viên mãn

206

Nyingthig: những Câu Chuyện Cuộc Đời của Dòng Vidyadhara, cũng như những tác phẩm và bài ca khác. Ngài có nhiều đệ tử ở Bhutan, Nepal, Ấn Độ và châu Âu.

NHỮNG DÒNG TRUYỀN ĐẠI TOÀN THIỆN ĐƢƠNG THỜI

Cả hai Khenpo Ngawang Palzang và Shedrup Tenpai Nyima đã hiểu được bản tánh của tâm thức mình trong khi thực hành ngondro, nhưng các ngài còn đi qua mọi thực hành cho đến Trekchod và Togal. Trong dòng đặc biệt này có vài vị đạo sư đạt đến chứng ngộ tức thời, một lần trọn vẹn. Loại người này được gọi là chik charpa. Jigme Gyalwai Nyugu cũng truyền nyongtri này cho Jamyang Khyentse Wangpo, vị Khyentse thứ nhất, ngài chứng ngộ bản tánh vốn sẵn trong khi thực hành ngondro. Có kể rằng đại đệ tử của ngài là Azom Drukpa cũng như vậy, và đệ tử của Azom Drukpa là Jatral Choying Rangdrol cũng chứng ngộ theo cách ấy. Rangdrol đã truyền dòng này cho Dodrup Rinpoche hiện thời, vị Dodrup Chen thứ tư. Đức Dudjom Rinpoche nhận dòng Đại viên mãn nyongtri từ Phokang Tulku Gyurmed Ngedon Wangpo, guru của mình, ngài là đệ tử thượng thủ của Dudjom Lingpa, hiện thân trước kia của đức Dudjom Rinpoche. Phokang Tulku nhận nó từ Jamyang Khyentse Wangpo; ngài cũng biết Patrul Rinpoche và Jamgon Kongtrul Lodro Thaye. Đức Dilgo Khyentse nhận dòng nyongtri này từ Shechen Gyaltsab, guru gốc của ngài. Vị sau có nhiều đệ tử. Khyentse Rinpoche gặp guru của mình khi ngài còn rất trẻ. Shechen Gyaltsab đã nhận dòng riêng biệt này từ Jamyang Khyentse Wangpo. Trong dòng này có nhiều vị giống như những chik charpa. Trong chính tiểu sử của Jamyang Khyentse Wangpo có nói rằng ngài đã đạt đến chứng ngộ khi đang thực hành ngondro.

207

Guru gốc của Kangyur Rinpoche, Jedrung Rinpoche, Thrinley Jampa Jungnay, đã nhận sem tri hay những giáo lý Đại viên mãn về bản tánh của tâm từ cả hai vị Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgon Kongtrul Lodro Thaye. Jedrung Rinpoche là lama trưởng của Riwoche, một tu viện Rimé vùng Kham ở đó cả hai truyền thống Kagyu và Nyingma được thực hành. Ngài chủ yếu thuộc dòng Taklung Kagyu, dù ngài là một đại terton và hành giả Đại viên mãn. Jedrung Rinpoche trao truyền toàn bộ cho Kangyur Rinpoche, người cha của Tulku Pema Wangyal sau này. Jatral Rinpoche Sangye Dorje là một đệ tử trực tiếp của Khenpo Ngawang Palzang và sư bác của Shedrup Tenpai Nyima, vị guru của Khenpo Rinpoche. Khenpo Rinpoche cũng đã từng gặp Khenpo Ngawang Palzang khi ngài còn rất nhỏ, dù cho ban đầu ngài học với Shedrup Tenpai Nyima. Rinpoche Neten Chokling quá cố, người cha tôn kính của Rinpoche, hóa thân lần thứ ba của Chokgyur Dechen Lingpa, là một đệ tử của Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, vị Khyentse thứ hai, người chủ yếu là một đệ tử của Azom Drukpa. Như thế dòng nguyên vẹn đi xuống từ ngài, như một ngọn đèn được thắp từ một ngọn đèn khác. Đấy là những dòng Đại viên mãn chúng ta có đến ngày hôm nay, chủ yếu là kahma hay dòng trao truyền bằng miệng.

NHỮNG TERMA

Chúng ta đã miêu tả dòng kahma. Cũng có những dòng terma. Ở đây chúng ta chỉ giới thiệu ngắn về những terma. Terma là những kho tàng Pháp được khám phá lại. Có nhiều câu chuyện về Kangyur Rinpoche nhận trao truyền trực tiếp từ Guru Rinpoche, sau đó tâm của hai ngài hòa lẫn. Cũng có những câu chuyện kể những linh kiến của ngài về Vimalamitra, Longchenpa, Jigme Lingpa và những vị khác. Dudjom

208

Rinpoche đã nhận nhiều trao truyền trực tiếp theo cách ấy. Những dòng terma là những trao truyền trực tiếp và vô cùng từ Guru Rinpoche đến đạo sư kho tàng (terton). Như thế, giữa Guru Rinpoche và chúng ta, chỉ có một người, đó là đại terton ngài là thầy của chúng ta trong dòng terma này. Đây là lý do của thần lực khủng khiếp và sự hiệu quả của những trao truyền như vậy, ngay cả ngày nay. Những giáo lý terma của dòng tắt và trực tiếp thì giống như hơi thở ấm áp và tươi mát của những dakini, trong đó sức mạnh của những ban phước vẫn còn nguyên vẹn. Nói chung, có ba dòng terma. Cộng vào với ba dòng kahma nữa là có tất cả sáu dòng Đại viên mãn Dzogchen. Mọi kahma và terma đều gồm trong sáu cái này. (Tất cả điều này được giải thích rõ ràng trong bình giải của Khenpo Yonga về chương thứ mười của cuốn Yonten Dzo của Jigme Lingpa.) Những terma thường có hai loại, gong ter hay kho tàng tâm, và dze ter hay kho tàng vật chất. Gong ter được rút ra từ cảnh giới bất khả tư nghì của tánh giác, tâm-trí huệ, bởi vị terton mà kho tàng ấy đã được dành cho ngài. Rồi chúng được dạy và viết ra trong một cách có thể hiểu được cho những người tiếp xúc với một vị thầy và với giáo lý như vậy. Dze ter được khám phá như những đồ vật, chẳng hạn những tấm da hay cuộn giấy màu vàng có chữ của dakini, những đồ thờ, xá lợi, ngọc… Chúng có thể có nhiều hình thức để làm lợi lạc cho chúng sanh. Trong mọi trường hợp, tất cả mọi loại terma khác nhau đều được chính Guru Rinpoche – hay những người cộng sự như Yeshe Tsogyal, Vimalamitra hay Vairotsana – cất giấu để cho những hậu thân của những đệ tử của ngài tiếp tục khám phá chúng về sau cho lợi lạc của những thế hệ tương lai. Tulku Thondup đã viết một cuốn sách hảo hạng về chủ đề này, cuốn Những Giáo Lý Được Cất Giấu của Tây Tạng. Như chính Guru Rinpoche đã nói, “Trừ xác chết của một con chó, mọi vật có thể lấy làm ter.” Điều này có nghĩa những kho tàng terma là nguồn mỏ giáo lý vô tận, nó có thể xuất hiện trong bất cứ hình thức nào thích hợp với những

209 nhu cầu của chúng sanh. Chủ đề terma là thực sự rộng lớn, sâu xa và không thể quan niệm nổi. Đôi khi những kho tàng terma được những hộ pháp giao cho các terton, hay được phát giác trong những giấc mơ và những linh kiến. Đôi khi những terton phải tìm kiếm những terma mà họ đã được tiền định để tìm thấy. Đôi khi những danh sách của những terma và bản đồ được khám phá hay giao cho các terton, liên quan đến những giáo lý dành cho họ phát hiện. Đôi khi những terma được đọc như những cuốn sách bởi những người khám phá. Thường thường họ phải giải mã chúng từ dayig hay chữ tượng trưng bí mật của dakini, hay từ một mật mã đơn lẻ hay chủng tử tự. Đôi khi chỉ có bản thân vị terton đọc được, hay thấy được terma. Những trường hợp khác mọi người đều có thể thấy. Thỉnh thoảng, phải có những nỗ lực lớn lao trước khi kho tàng được khám phá. Một terton làm mòn vài cái đục khi cố gắng moi một terma ra khỏi một vách đá trên một bờ vực thẳm. Những vị khác phải làm nhiều lễ cúng dường (tsok), hay tìm ra người phối ngẫu thích hợp, trước khi đáp ứng mọi điều kiện tốt lành cần thiết cho việc khám phá những kho tàng Pháp. Trong thế kỷ mười bảy Terdak Lingpa cố gắng sưu tầm và kết hợp tất cả những terma vào thời đó. Tuy nhiên, đến thời Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgon Kongtrul Lodro ở thế kỷ mười chín, không có một kết tập nào đã được làm. Vì lý do ấy, hai đạo sư Rimé vĩ đại này, cũng chính là những terton, đã gom lại kho tàng terma vĩ đại Rinchen Terdzo, bao gồm tất cả những terma gốc chính yếu của những terton. Như thế họ giữ nhiều kho tàng Pháp khỏi bị mất mát. Hiện giờ có hơn sáu mươi ba bộ, gồm mười bảy ngàn quán đảnh.

Mỗi terma là một vòng, một chu trình tự đầy đủ, gồm tất cả giáo lý chính yếu cần thiết để đạt đến giác ngộ. Mỗi terma chứa đựng những phần đoạn bao hàm những thực hành sơ khởi, ba cái gốc, Đại viên mãn… dù tất cả mọi phần khác nhau không phải luôn luôn được phát hiện, dạy hay viết ra bởi

210 chính người khám phá. Dựa vào nhiều yếu tố, gồm cả thời gian và hoàn cảnh, và hoặc những giáo lý ấy có được các đệ tử yêu cầu hay không, một số terma được hoàn chỉnh về sau bởi những hóa thân. Một terton vua, tối cao như Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) đã phát hiện hình thức bao quát nhất của những kho tàng Pháp, bộ Bảy Trao Truyền hay Kabab Dun nổi tiếng. Người đồng thời với ngài, Chokgyur Dechen Lingpa (Choling Rinpoche thứ nhất), cũng có Kabab Dun, trong một hình thức kém đầy đủ hơn nhiều. Những phát hiện và tác phẩm của Khyentse thứ nhất cũng như cuộc đời ngài thì hoàn toàn đáng kinh ngạc. Kahma Đại viên mãn – gồm tất cả những sadhana được thực hành vào thời Guru Rinpoche và trao truyền từ guru đến đệ tử qua một dòng không đứt đoạn – lần đầu được kết tập, xuất bản và truyền bá trong thế kỷ mười bảy bởi hai huynh đệ của Mindroling, là Terdrak Gyurme Dorje và Lochen Dharma Shri. Một vị là terton rất vĩ đại, và vị kia là một đại dịch giả. Họ thêm vào những truyền thống khẩu truyền những terma riêng và bình giải của họ, tạo thành bốn mươi hai bộ tất cả. Đức Dudjom Rinpoche cũng đã làm như thế. Đối với một dẫn nhập mười hai bộ tác phẩm của Dudjom Rinpoche, xin xem Truyền Thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Những terton nổi bật khác là Guru Chowang, Rigdzen Godem, Pema Lingpa, Ratna Lingpa, Sangyay Lingpa, Dorje Lingpa, Nyangral Nyima Ozer, Jatshon Nyingpo, Terdak Lingpa và Longsel Nyingpo. Có nói năm terton vua vĩ đại, một trăm terton trưởng, một ngàn terton thứ, dù người ta nên hiểu rằng con số những terton thì không thể đếm, và con số những terma, cũng như những tantra thì không thể quan niệm. Người ta có thể đọc về nhiều terton trong cuốn Những Cuộc Đời của Một Trăm Lẻ Tám Terton của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye trong bộ Rinchen Terdzo, nhưng còn chưa được dịch. Hiện thân trước kia của đức Dudjom Rinpoche, Trakthung Dudjom Lingpa, là một đại terton của thế kỷ vừa rồi, vị này đã phô diễn những thần lực đáng kể cũng như có một tính khí rất phẫn nộ. Một đại thành tựu giả Phurba

211

(Vajra Kilaya), ngài gần như không biết chữ, đã dùng mười ba người chép tay để đưa những phát hiện của ngài thành tác phẩm. Ngài giống như những thành tựu giả thông tuệ-điên cuồng thời xưa.

TIÊN TRI

Một lần, Khenpo Ngawang Palzang, đệ tử của Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima có một giấc mộng trong đó ngài thấy một cái tháp lớn ở Ấn Độ. Đó là một cái tháp lớn nhất được vua Ashoka dựng nên, chứa những xá lợi của Phật. Nó đã bị hư hỏng từ đỉnh cho tới đáy. Một dòng sông lớn chảy qua cuốn mọi thứ vào đại dương ở hướng tây, nơi đó cả biển trở thành màu đỏ vì cái tháp này rớt vào trong đó, như nó bị vỡ từ một trái núi lớn vào trong nước. Vào lúc đó, có một tiếng nói từ trên trời bảo rằng hằng triệu người sống trong biển sẽ được lợi lạc do cái tháp ấy. Ngawang Palzang kể lại giấc mơ này cho lama của ngài, Nyoshul Lungtok, vị này không nói gì cả. Về sau, Nyoshul Lung-tok nói về điều này rằng những giáo lý của đức Phật bấy giờ đã được thực hành ở Đông phương sẽ bị hủy hoại ở đây, nhưng chúng sẽ qua Tây phương làm lợi lạc cho nhiều chúng sanh. Tiếng nói trong giấc mộng đã nói những chúng sanh sẽ được lợi lạc và sẽ “thấy chân lý.” Điều này có nghĩa là họ sẽ thấy hay hiểu chân lý tuyệt đối. Không nhất thiết có nghĩa là tất cả họ đều chứng ngộ chân lý tuyệt đối, nhưng họ sẽ được lợi lạc lớn lao nhờ nhận những giáo lý và hiểu được chân lý của chúng. Nyoshul Khenpo Rinpoche bình luận rằng cái tháp này tượng trưng nền tảng của những giáo lý Phật giáo, chúng đang bị hủy hoại ở phương Đông nhưng sẽ lan truyền càng ngày càng rộng lớn ở phương Tây. Khi tiếng nói ở trên trời nói rằng những chúng sanh sẽ được nhiều lợi lạc và thấy chân lý, nó nghĩa là một triệu người sẽ chứng ngộ chân lý tuyệt đối, và tất cả chúng sanh

212

ở phương Tây sẽ được lợi lạc lớn lao nhờ những giáo lý sẽ phổ biến rộng rãi này. Đây là một tiên tri quan trọng và đầy ý nghĩa, đặc biệt trong liên hệ với dòng và những giáo lý Đại viên mãn riêng biệt của chính Nyoshul Khenpo. Tiên tri ấy đến từ những gương mặt chính của dòng Nyingthig này, người nối Pháp xuất sắc của Patrul Rinpoche, Nyoshul Lungtok và đệ tử thượng thủ của vị này là Khenpo Ngawang Palzang. Nếu người ta thực sự thiền định về thật nghĩa của Dzogchen, người ta sẽ có chứng ngộ chân thật không nghi ngờ gì.

THỰC HÀNH ĐẠI VIÊN MÃN

Với những người bình thường, Phật tánh có vẻ như rất xa xôi. Tuy nhiên, đối với người thực hành Đại viên mãn, nó không quá đỗi khó. Tất cả những con đường khác, cả trong và ngoài Phật giáo, đều giống như những sơ bộ cho Đại viên mãn, Thừa Chót Đỉnh. Đại viên mãn bao gồm mọi con đường khác và những giáo lý khác, và nó tự trọn vẹn trong chính nó. Tất cả những Pháp khác tìm thấy sự trọn vẹn trong nó và dẫn đến nó, như những dòng sông đổ vào đại dương. Những Pháp khác có những quan điểm xung đột nhau, Đại viên mãn giải quyết hết thảy chúng. Đại viên mãn là con đường cực kỳ trực tiếp, ngắn, nhanh chóng đến giác ngộ toàn vẹn ngay trong đời này. Nó không có gian khổ, khó nhọc lớn lao. Những con đường khác giống như những đường lộ dẫn đến một ngôi nhà ở xa; Đại viên mãn giống như sống trong ngôi nhà đó. Đại viên mãn Men Ngag Nyengyud giống-như-cam-lồ này của Vidyadhara hay dòng nắm giữ tánh giác Rigpa là tinh yếu quý báu và tinh chất nhất của mọi giáo lý có thể có được. Nó cho phép chúng ta thấy biết những mức độ vi tế nhất của việc sự vật hiện hữu như thế nào và mọi sự hiển lộ đích thực như thế nào, và làm cho chúng ta có thể nhanh chóng trở thành hoàn toàn chứng ngộ, thức tỉnh

213 hoàn toàn, tự do trọn vẹn. Nếu chúng ta thực hành nó bây giờ, chắc chắn sẽ có những lợi lạc cho người Tây phương khắp nơi trong tương lai. Có vô số giải thích tinh vi và sâu xa về tất cả những giáo lý Phật giáo, và cũng về cả Đại viên mãn, nhưng tất cả đều dựa vào thực hành thiền định. Đấy là điều chính yếu nhất. Người ta phải kinh nghiệm những giáo lý cho chính mình, và trình bày kinh nghiệm riêng của mình, sự hiểu, hay chứng ngộ với một bậc thầy đã chứng ngộ, với vị thầy tốt lòng của mình, để nhận sự thẩm định và lời khuyên của thầy. Vị thầy không thể đơn giản trình ra chứng ngộ cho bạn. Nhưng một vị thầy Đại viên mãn đích thực, có thẩm quyền có thể dễ dàng hướng dẫn một đệ tử thích hợp trong đường lối nyongtri đến sự đạt được thành tựu viên mãn mà không có nhiều khó khăn, hay những giáo lý chi tiết và những giải thích trí thức và nghiên cứu. Tất cả mọi giáo lý sẽ gồm trong những giáo huấn cốt lõi cần thiết mang tính cá nhân này. Bởi thế, người ta cần hoàn toàn nương dựa vào đó. Gyalwa Longchenpa nói về Đại viên mãn: “Nó hòa hợp toàn hảo với tất cả giáo lý, và là tối cao.” Mục tiêu của thực hành Đại viên mãn là thiết lập một cách rõ ràng một cái thấy, một tri kiến dẫn trực tiếp đến chứng ngộ rằng bản tánh chân thật của tự tâm mình là bản tánh tuyệt đối. Chúng ta phải không bằng lòng với cái hiểu biết thuần trí thức về nó. Cái ấy sẽ không giải thoát chúng ta. Chúng ta phải khai triển một xác tín bên trong, không lay chuyển, vĩ đại về bản tánh bẩm sinh nền tảng này. Mọi thực hành khác nhau là những phương tiện để khai triển, làm tiến bộ và vững chắc sự xác tín ấy. Sự thực hành giản dị nhưng sâu xa này, liên quan đến Trekchod hay thiền định Cắt Đứt, được giải thích trong Tsiksum Nedek, Ba Điểm Cốt Yếu Phát Hiện Tinh Túy của Patrul Rinpoche. Dù nếu Gyalwa Longchenpa, hay Phật nguyên sơ Saman-thabhadra xuất hiện thình lình trước chúng ta trong một linh kiến ánh sáng cầu vồng kỳ diệu, điều đó cũng không là gì so với việc có trước mặt chúng ta Tulku Uzgyen Rinpoche và Chatral Rinpoche, những vị Phật sống, như chính Padmasambhava, người có thể nói Đại viên mãn thẳng vào tai chúng ta.

214

Những vị thầy vĩ đại này là những người nắm giữ dòng phái sống không ai sánh hiện thân cho tất cả bổn tôn, thầy và giáo pháp.

NHỮNG DÒNG VÀ THẦY

Đôi khi một lama có thể có nhiều vị thầy và nhận vô số trao truyền mà không chống trái xung đột gì. Không nhất thiết phải chỉ có một lama gốc. Người ta có thể xem tất cả các vị thầy là những biểu lộ hay lưu xuất của lama gốc của mình, ngài thực sự giống như Vajradhara hiện thân. Trong vài trường hợp khác, chỉ có một vị thầy đã đủ. Một guru giống như một tấm gương; người ta cần để thấy mặt mình, thật tánh của mình. Tất cả những tấm gương chỉ phản chiếu cái xuất hiện trước chúng. Bởi thế, hầu như không thể diễn tả trọn vẹn và liệt kê chính xác tất cả những dòng thuộc về một cá nhân. Nhiều lama nắm giữ nhiều dòng, chánh và phụ. Chẳng hạn Khyentse thứ nhất, ngài đi bộ khắp Tây Tạng một cách vô danh trong mười ba năm để gom góp tất cả mọi giáo lý, có một trăm hai mươi lăm lama gốc. Như thế ngài có thể giữ gìn và trao truyền tất cả mọi dòng phái theo một cách hoàn toàn không bộ phái. Cùng với Jamgon Kongtrul và Chogyur Lingpa, ngài thắp sáng sự phục hưng Rimé ở miền đông Tây Tạng trong thế kỷ vừa qua. Không trộn lẫn các thứ với nhau, Jamyang Khyentse dạy mỗi cái trong nhiều truyền thống theo truyền thống riêng biệt của nó. Đã thực hành và chứng ngộ mọi thứ nhận được, ngài có thể dạy và truyền không sai lầm tất cả Phật pháp vô số, thuận theo những nguyện vọng và khả năng của các đệ tử khác nhau. Vị thầy của chúng ta, đức Dilgo Khyentse Rinpoche quá cố, ngài mất năm 1991 ở Bhutan, đã nhận những giáo lý và trao truyền chủ yếu của Đại viên mãn từ Shechen Gyaltsab, một đạo sư phi thường ở Tu viện Shechen xứ Kham. Dilgo Khyentse Rinpoche cũng nhận nhiều trao truyền chính trong chi tiết từ Jamyang Khyentse Chokyi Lodro và Khenpo Pema Losel Ten-

215 kyong. Shechen Rabjam Rinpoche đã tái sanh làm cháu của ngài, tức là Rabjam Tulku. Khyentse Rinpoche là một đạo sư Rimé rất vĩ đại. Dĩ nhiên ngài cũng là một terton, cũng như hiện thân của Jamyang Khyentse Wangpo, là Manjushri (Văn Thù) trong hình thức con người. Ngài là thầy Đại viên mãn của đức Dalai Lama thứ mười bốn, cũng như là guru của hoàng tộc nước Bhutan. Mong rằng ngài sớm tái sanh vào thế giới này! Có người hỏi Nyoshul Khenpo Rinpoche về dòng của ngài. Ngài nói rằng ngài không có dòng nào đặc biệt, chỉ là dòng Đại viên mãn tổng quát, dòng vidyadhara phác họa ở trên. Người nào tinh tấn trong thực hành Pháp sẽ giống như những vị Khyentse và Kongtrul, đạt đến thái bình của niết bàn và trở thành một người nắm giữ dòng. Dòng đặc biệt của Khenpo là dòng thực hành. Khenpo Rinpoche nói rằng có những tiểu sử đầy đủ về hầu hết những đạo sư của dòng, được viết lại bởi chính các đạo sư hay các đệ tử thân cận, chỉ trừ ba vị: Orgyan Rabjam Chodrak, Orgyan Rabjam Palgon (Shri Natha, guru Nyingthig của Jigme Lingpa là một đệ tử của Orgyan Rabjam Chodrak), và Nyoshul Lungtok Tenpai Nyima. Những nguồn tiểu sử này thì khác nhau và phân tán. Chúng chưa bao giờ được gom lại trong một biên niên bao quát và độc nhất. Từ Jigme Lingpa xuống đến ngày nay, sự việc rõ ràng dù hầu hết không được ghi lại mà chỉ dạy miệng. Trước thời kỳ của Jigme Lingpa một số chi tiết khó đưa ra ánh sáng. Lịch sử của dòng Vidyadhara của Khenpo là một cố gắng nhỏ trong chiều hướng đó, dù cho còn những tìm kiếm cần phải làm. Cuốn Chosjung nổi tiếng của đức Dudjom Rinpoche chủ yếu là một biên niên về những khuôn mặt chánh trong lịch sử Nying-ma. (Trong tiếng Anh đó là một bộ chính thống và khổng lồ có tên là Trường Phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, Gyurme Dorje và Matthew Kapstein dịch và ấn hành). Terdak Lingpa sưu tập và viết lại những tiểu sử của mười một lama trong dòng từ Longchenpa xuống đến ngài, thế nên chúng ta có thể đọc về các ngài trong tác phẩm ấy.

216

Nyoshul Khenpo Rinpoche luôn luôn lập đi lập lại rằng Pháp không thuộc về một ai, vì bất cứ thực hành thành thật và siêng năng sẽ đạt đến chứng ngộ và trở thành người thừa kế vương quốc của đức Thích Ca Mâu Ni, lên ngai của đức Phổ Hiền Samantabhadra. Đấy không có nghĩa là người ta thừa hưởng một địa vị thế gian hay những đồ vật vật chất, mà là bất kỳ ai thật sự đem những giáo lý vào lòng và thực hành đúng như chúng phải được thực hành sẽ trở nên một người nắm giữ dòng, và như thế làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh cũng như chính họ. Đó là điều Khenpo Rinpoche muốn khuyến khích và cổ vũ chúng ta. Mục đích duy nhất của mọi thực hành, giải thích và câu chuyện này là để khuyến tấn sự thực hành tâm linh, chứ không chỉ bồi dưỡng trí thức. Những giáo lý Longchen Nyingthig sâu xa này không phải là những chỉ dạy của một con người. Tất cả chúng là những giáo lý của Dorje Chang, Vajradhara. Đặc biệt về dòng nyongtri, nó không chỉ là những giáo lý của Jigme Lingpa, Gyalwa Long-chenpa, hay Guru Rinpoche: nó là giáo lý của Dorje Chang, lối tắt kim cương của Dorje Sempa, tâm-trí huệ của Samantabhadra biểu lộ trong ánh sáng của kinh nghiệm và chứng ngộ của mỗi đạo sư giác ngộ trong dòng, thích ứng với các đệ tử của các ngài và những thế hệ tương lai. Chúng ta cần hiểu điều ấy. Trong truyền thống nyongtri, sự hướng dẫn lớn lên từ sự tương tác cá nhân giữa một người thực hành và thầy mình thuận theo kinh nghiệm thiền định có được dọc con đường, mỗi cá nhân có sự thâm nhập trực tiếp vào những giáo lý của Dorje Chang. Đây là phẩm tính trực tiếp, ân phước, thần lực và quý báu của nó, đem lại những kết quả phi thường. Chúng ta hãy sử dụng nó một cách tốt nhất có thể được, cho lợi lạc của mỗi một và tất cả.

217

Thuật Ngữ alaya (TT kun shi) Nền tảng của tất cả thức hay sem (tâm thức), nó phân biệt với Rigpa – cái hiện diện thanh tịnh nguyên sơ, tánh giác bẩm sinh vốn sẵn đủ. bodhicitta Tâm của giác ngộ. Động lực vị tha đạt đến giác ngộ để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm có hai phương diện: tuyệt đối và quy ước. Bồ đề tâm tuyệt đối là chân lý, tánh Không. Bồ đề tâm tương đối là từ và bi. chakra Vòng tròn, bánh xe. Những trung tâm năng lượng trong thân thể nối kết với nhau bằng kinh mạch trung ương. Chenrezig (Skt Avalokiteshvara) Bồ tát hiện thân của Đại Bi, tình thương và thiện cảm. Thường được dùng như một hóa thần bổn tôn để thiền định. Om Mani Padme Hung là thần chú của ngài. chik charpa Những hành giả đạt đến giác ngộ “tất cả trong một lần,” đồng thời và thình lình (Đốn Giác). Để phân biệt với rim gyipa, những người đạt đến chứng ngộ theo cách dần dần, cấp bậc (Tiệm Giác). Chošd Cắt đoạn cái ngã. Một hệ thống thiền định để cắt đoạn những gốc rễ của chấp ngã. Dòng bắt đầu từ thế kỷ thứ mười một, với Padampa Sangye và Machig Lapdron, một người nắm giữ dòng là nữ. chonyi kyi gong Chứng ngộ pháp giới tuyệt đối, hay Phật tánh. dakini Năng lực nữ tính thiêng liêng, nhân cách hóa như là những tantrika nữ; gọi là “người đi trên trời,” họ giống như những thiện thần, thiên thần hay hóa thần. Nguyên lý dakini đưa vào những chuyển động vô cùng hay sự nhảy múa của tánh Không qua mọi hình tướng. “Mọi phụ nữ là dakini, mọi đàn ông là daka.”

218 dharmakaya (Pháp thân) Thân chân lý của Phật. Phương diện tuyệt đối của Phật, biểu lộ như là tánh Không vô tướng và sáng ngời. doha Một bài ca kim cương tự phát, một bài ca giác ngộ, do những thiền sư trong một dòng khởi từ những thành tựu giả của Ấn Độ cổ thời.Dòng thực hành Đường lối của các thiền giả hơn là đường lối của lý thuyết, học và học giả. Dòng của Milarepa. Drimé Oser Một danh hiệu của Longchenpa Rabjam, nghĩa đen là “những tia sáng không nhiễm.” Dzogchen Đại viên mãn hay Đại Viên Mãn. Những giáo lý bất nhị của Phật giáo, thường được gọi là “cái thấy từ trên cao.” Nó ám chỉ đến Ati Yoga trong tiếng Sanskrit, và cũng được biết như Thừa Đỉnh hay Đại Hoàn Thành. Emaho Một thán từ để biểu lộ ngạc nhiên hay phấn khích; có thể dịch là “kỳ diệu” hay “lạ lùng.” guru yoga Thực hành Kim Cương thừa sùng mộ và những ban phước cảm ứng để hòa lẫn với tâm của guru và chứng ngộ sự bất khả phân của mình với Phật tánh. gyu Dòng tâm thức; dòng hiện sinh sâu xa của mỗi chúng ta. kahma Kahma ám chỉ tất cả những giáo lý và trao truyền qua những thế kỷ bởi dòng dài những thầy và đệ tử (xem ringyu). Nó ngược lại với dòng ngắn và trực tiếp của terma (xem nyegyu), những giáo lý của Guru Rinpoche và những bậc giác ngộ khác được khám phá lại. Kangyur Ba Tạng của Tây Tạng. Khenpo (Skt acharya) Một tu viện trưởng, người hướng dẫn hay giáo sư. Kuntuzangpo (Skt Samantabhadra, Phổ Hiền) Đây là bản tánh hay trạng thái của Phật tánh nguyên sơ, nó có nghĩa đen là “Trọn Vẹn Tốt,” một nhân cách hóa của bản tánh bổn nguyên thanh tịnh của chúng ta.

219

Lam Rim Con đường giác ngộ tiệm tiến, được trình bày rộng rãi bởi Lama Tsong Khapa và những vị khác. Lingpa Terton hay những đạo sư khám phá kho tàng. (xem terma) Lojong Tu hành tâm thức của Đại thừa. Nó ám chỉ sự mở rộng động lực cá nhân (tìm cầu hạnh phúc cho riêng mình) thành nguyện vọng cứu độ cho tất cả chúng sanh trong vũ trụ và làm nhẹ tất cả khổ đau. Mahamudra Đại Ấn. Nó ám chỉ bản thân thực tại tuyệt đối: mọi sự thực sự là thế nào. Nó cũng là tên của một dòng và truyền thống giáo lý. Mahasandhi Một danh từ thay thế của Đại viên mãn hay Thừa Hoàn Thành; tương đương với Maha Ati, Thừa Đỉnh. mahasiddha Đại thành tựu giả. Những môn đồ của thiền; những hiền triết giác ngộ. mantra Thần chú. Những lời thiêng liêng của năng lực. Trì tụng, ca hát nó được dùng trong thiền định. namkhai naljor Yoga như hư không; một thực hành thiền định của Đại viên mãn hòa hợp tâm thức hữu hạn với tánh giác vô hạn như hư không. namthar Một tiểu sử tâm linh. namtok Tính ý niệm, tư tưởng diễn dịch; nó ám chỉ tâm thức nhị nguyên và suy đoán phân biệt.Năm Trang Hoàng của Asanga Năm đại luận mà pháp sư Ấn Độ Asanga nhận được trong một cách linh kiến từ đức Phật tương lai là Di Lặc (Maitreya). Chúng là: Madhyanta-vibhaga, Dharma-dharmata- vibhaga, Abhisamaya-alamkara, Mahayana-sutra-alamkara và Uttaratantra. ngondro Những thực hành căn bản và sơ khởi. Thực hành ngondro thường bao gồm hàng trăm ngàn lễ lạy, lời nguyện quy y và Bồ đề tâm, trì tụng thần chú tịnh hóa một trăm âm Vajrasattva, cúng dường mạn đà la và thực hành guru yoga. Thường được dùng như tu hành chuẩn bị cho thực hành tantra.

220 nirmanakaya (TT tulku) hóa thân. Những hiện thân của Phật ở thế giới này, như Phật Thích Ca mâu Ni, đức Dalai Lama và những lama tái sanh khác. nyegyu Dòng ngắn và trực tiếp của terma từ Padmasambhava và các bậc giác ngộ khác. Những đạo sư này truyền những giáo lý một cách trực tiếp, qua những thân-trí huệ bất tử của các ngài, trong kinh nghiệm linh kiến, cho những terton hay những đạo sư khám phá và phát hiện những kho tàng giáo lý này. Nyingthig, Longchen Nyingthig Tinh túy tâm yếu của Longchenpa và Jigme Lingpa toàn giác, tinh chất của Đại viên mãn bẩm sinh vốn sẵn. Đây là một sự trao truyền dòng chỉ dành cho một đệ tử vào một thời gian, hiếm khi cho một nhóm. Nó được xem là cực kỳ hiếm và quý. nyongtri giáo lý chứng nghiệm. Một truyền thống giáo lý trong đó sự hướng dẫn cá nhân được thầy ban cho khi kinh nghiệm thiền định của đệ tử phát triển. Ngược lại với chương trình tổng quát lý thuyết của những giáo lý trong sách hay những bài thuyết giảng. quán đảnh (Skt abhisheka; Tây Tạng Wang; nghĩa đen: xức dầu) Một lễ nghi trao truyền của Mật Thừa, trao quyền cho phép một đệ tử thực hành một sadhana riêng biệt của Kim Cương thừa. rangjung yeshe Trí huệ tánh giác tự sanh, tự nhiên hay sự tỉnh thức bổn nguyên nội tại trong bản chất chúng ta. Rigpa Trí huệ hay sự tỉnh thức bẩm sinh vốn sẵn đủ; sự hiện diện thanh tịnh; hiện thể nguyên sơ. Rigpai tsel wang Quán đảnh thứ tư, sự đưa vào bản tánh tuyệt đối của tâm trí huệ bẩm sinh, Rigpa. Rigpai nelug Trạng thái bổn nguyên, tự nhiên của tánh giác nguyên sơ; cách thế đích thực của hiện thể.

221

Rimé Dòng thực hành không bộ phái, một phong trào thế kỷ mười chín, do Jamgon Kongtrul và Jamyang Khyentse Wangpo ủng hộ, để bảo tồn và làm sống lại những giáo lý của nhiều trường phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng. ringyu Dòng dài của Đại viên mãn. Nó truyền xuống từ Phật nguyên sơ Samantabhadra đến Dorje Sempa, Garab Dorje, Jampel Shenyen, Shri Simha, Jnanasutra, Vimalamitra và Padmasambhava, và gồm nhiều lama giác ngộ theo dấu chân của các ngài. rupakaya sắc thân. Thân sắc tướng của một vị Phật. Chân lý hay thực tại biểu lộ trong hình tướng, hơn là chỉ tánh Không vô tướng, sáng chói hay pháp thân. rushen Sự chia tách hay phân biệt sanh tử khỏi niết bàn – tâm thức nhị nguyên khỏi tánh giác-trí huệ bất nhị, trói buộc khỏi giải thoát. Một thực hành độc nhất trong những sơ khởi của Đại viên mãn. sadhana Những bản văn nghi thức và những thiền định được hướng dẫn trong thực hành Kim Cương thừa. samaya Những lời thề hay cam kết trong thực hành Mật thừa. sambhogakaya báo thân. Thân thọ hưởng của một vị Phật. Sắc tướng thấy được mà chư Phật biểu lộ cho những người có tri giác thanh tịnh. sarva mangalam “Nguyện cho mọi sự đều hoàn toàn tốt lành.” Một lời cầu nguyện thông thường ở đầu hay cuối những bản văn Sanskrit. sem Tâm thức hữu hạn, nhị nguyên, hợp lý. Tâm thức diễn dịch, ý niệm. semkye Một từ để chỉ Bồ đề tâm trong tiếng Tây Tạng – nghĩa đen “phát sanh Bồ đề tâm” – sự nở hoa của lòng vô ngã đầy đủ trí huệ và đại bi. semtri Những giáo lý „bản tánh của tâm‟ thiết yếu của Đại viên mãn.

222 shamatha Tập trung an định, dẫn đến tập trung nhất niệm. shetri Dòng giáo lý lý thuyết hoặc giải thích. (xem nyongtri) shunyata Giáo lý của Đại thừa nói rằng mọi sự đều trống không và rỗng rang trong bản chất, không có hiện hữu nội tại và riêng biệt (tánh Không). Tangyur Bộ sưu tập những bình giải của các đạo sư Ấn Độ. tathagatagarbha Như Lai tạng. Phật tánh bẩm sinh vốn sẵn đủ, phương diện tuyệt đối của Bồ đề tâm; nó là Rigpa, cốt lõi của kinh nghiệm và chứng ngộ của Đại viên mãn. tám dấu hiệu tốt lành Tám biểu tượng truyền thống của sự tốt lành: một cái dù, một đôi cá vàng, một bình kho tàng, một bông sen, một vỏ ốc tù và xoắn về phía phải, một cái nơ không dứt, một ngọn cờ chiến thắng, một bánh xe Pháp. terma terma ám chỉ những giáo lý trước kia được cất giấu và được khám phá lại của dòng ngắn và trực tiếp (nyegyu) từ Padmasambhava và những bậc giác ngộ khác. Những đạo sư này truyền những giáo lý trực tiếp, qua những thân-trí huệ bất tử của các ngài, trong linh kiến, cho các terton (đạo sư khám phá kho tàng), họ khám phá và phát hiện những giáo lý này. thanh tịnh nguyên sơ vô cùng (TT kadak) Tri kiến Trekchod của Đại viên mãn rằng tất cả là tự nhiên toàn thiện và trọn vẹn từ khởi thủy, không đòi hỏi phải cải thiện hay chuyển hóa. thugdam Thiền định Tịnh Quang, thường duy trì sau cái chết lâm sàng. Togal Siêu vượt (nghĩa đen: nhảy qua). Một thực hành trong các tantra Đại viên mãn để thấy chân lý, còn bí mật hơn Trekchod. Trekchod Cắt đứt hay Nhìn thấu qua: thực hành tánh giác trần trụi chính yếu của Đại viên mãn. Một thực hành bí mật trong giáo lý bất nhị và truyền thống thực hành của Đại viên mãn.

223 tsalung yoga Yoga nội của Kim Cương thừa gồm tsa – những nadi hay kinh mạch; lung – prana, năng lực hay khí; và tigle – lãnh vực của tâm thức hay bindu. tulku Sự xuất hóa của một bậc chứng ngộ, thường dùng để ám chỉ sự biểu lộ của một bồ tát hay tái sanh của một lama cao cấp đã chết. tummo Yoga nội nhiệt bí mật. Một cách dùng hơi thở, các luân xa, áng sáng bên trong và hơi nóng để đun nóng „nồi nấu‟ thân thể và đạt đến giác ngộ. vidyadhara người nắm giữ tánh giác hay đạo sư Rigpa.

Chú thích 1. Lòng. 2. Trung tâm lời nói. 3. Mysore, Ấn Độ. 4. Shedrub Tenpai Nyima là guru gốc của Nyoshul Khenpo. 5. Hai terton là đức Dudjom Rinpoche và đức Khyentse Rinpoche. 6. Ba cửa là thân, khẩu, ý hay thân, ngữ, tâm thức. 7. Năm tri giác ám chỉ những giáo huấn cốt lõi truyền miệng của Đại viên mãn Men Ngag Nyengyud. 8. Ba loại niềm tin là niềm tin mong mỏi, niềm tin sáng suốt, và xác tín hoàn toàn. 9. Cái này ám chỉ sự hiện thực hóa trí huệ về Phật tánh viên mãn, và đại bi cho tất cả chúng sanh. 10. Bốn thế lực ma quỷ (mara) là tiện nghi, cái chết, những phiền não che chướng và năm ấm.

224

11. Năm độc là năm phiền não che chướng: tham, sân, si, kiêu mạn và ghen ghét. 12. Ba tu hành là giới, định, huệ: ba phần của con đường Bát Chánh. 13. Chokyi Wangpo là Patrul Rinpoche, tác giả của Kunzang Lamai Shelung. 14. Drimé Oser là Longchenpa Rabjam. 15. Samantabhadra, Phổ Hiền. 16. Chín hành động là những hành động tích cực, tiêu cực và trung tính của thân, ngữ và tâm thức; nói cách khác là tất cả hành động. 17. Sự thanh tịnh ba phần không quy chiếu ám chỉ tính bất nhị hoàn hảo về chủ thể, đối tượng và hành động. 18. “Những vị thầy khác” nghĩa là những vị thầy khác ngoài đức Phật. 19. “Bốn chuyển đổi của tâm thức” là tham thiền về 1) cơ hội quý báu do cuộc sống làm người đem lại; 2) vô thường và sự tử vong của chúng ta, cũng như những cái chết của tất cả những cái gì được sanh ra; 3) luật nghiệp báo nhân quả không sai chạy; 4) những khuyết điểm của sanh tử – hiện hữu trong điều kiện.

225

Một Lời Cầu Nguyện Trƣờng Thọ cho Nyoshul Khenpo Rinpoche của Đức Dilgo Khyentse Rinpoche

Sư chói sáng như những biểu lộ của Pháp sâu xa và rộng lớn, Con đường hoan hỷ của Văn Thù và tất cả các bậc giác ngộ. Nguyện Sư mãi mãi ở trong trạng thái của Amitayus, Vô Lượng Thọ Phật, Không gian bổn nhiên bất biến của ba kim cương bí mật.

226