MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề Chăn nuôi gia cầm là nghề sản xuất truyền thống lâu đời và chiếm vị trí quan trọng thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong toàn ngành chăn nuôi Việt Nam. Để phát triển tốt ngành chăn nuôi, thức ăn là một trong các yếu tố quan trọng để chăn nuôi có được sản lượng và chất lượng như mong muốn. Ở một số nước trên thế giới việc sản xuất bột lá thực vật bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho gia cầm đã trở thành một ngành công nghiệp chế biến như: Thái Lan, Ấn Độ…. Qua nhiều nghiên cứu ở trên thế giới và trong nước, các nhà khoa học đã kết luận rằng khi cho vật nuôi ăn bột lá thực vật thì khả năng sinh trưởng và sản xuất cao hơn và mức độ an toàn thực phẩm cao hơn so với sử dụng các chế phẩm để tạo màu khác. Bột lá ngoài cung cấp protein, lipit, xơ còn cung cấp kích tố tự nhiên, vitamin và chất quan trọng nhất là sắc tố. Sắc tố có tác dụng làm tăng khả năng đậu thai, tăng tỉ lệ nuôi sống vật non, tăng tỉ lệ trứng có phôi, ấp nở, tăng độ đậm màu của lòng đỏ trứng và vàng của da gà là yếu tố khiến người tiêu dùng ưa chuộng. Nước ta là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều rất thích hợp cho việc phát triển các cây thức ăn như cỏ hòa thảo, cây họ đậu ... Cây họ đậu ở nước ta là cây thức ăn gia súc giàu protein, vitamin, khoáng chất. Đặc biệt, cây họ đậu có khả năng cộng sinh với vi sinh vật nốt sần ở rễ nên có thể sử dụng được nitơ trong không khí tạo nên protein của cây thức ăn. Hiện nay, ở nước ta chưa có nhiều giống cây họ đậu làm thức ăn xanh, giống cỏ guianensis CIAT 184 là cây thuộc họ đậu, giàu protein (16 – 18% VCK), thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới, dễ nhân giống, phù hợp với chân ruộng cao chịu đựng được khô hạn, ít bị sâu bệnh và có thể phát triển

trên nhiều loại đất, ngay cả ở vùng đất đồi cao. Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu về cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 hiện nay rất ít, nhất là về xác định tỉ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của bột cỏ, từ đó tính toán năng lượng trao đổi là cơ sở cho việc phối hợp khẩu phần ăn cho gà hầu như chưa có. Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Xác định tỉ lệ tiêu hóa, năng lượng trao đổi của cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 đối với gà thịt”. 2. Mục đích của đề tài Xác định tỷ lệ tiêu hóa và năng lượng trao đổi để làm cơ sở cho việc phối trộn bột cỏ Stylo vào khẩu phần ăn của gia cầm được chính xác. 3. Ý nghĩa của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả thực hiện của đề tài bổ sung thêm những thông tin mới về tỉ lệ tiêu hóa và năng lượng trao đổi của cỏ Stylo trên gà thịt. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Xác định được năng lượng trao đổi khi sử dụng bột lá ta sẽ phối hợp được khẩu phần ăn chính xác, nhờ đó cho kết quả chăn nuôi tốt hơn. 4. Điểm mới của đề tài Hiện nay, tại Việt Nam hầu như chưa có nghiên cứu xác định tỉ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng và năng lượng trao đổi của bột cỏ Stylo. Vì vậy, xác định tỉ lệ tiêu hóa và năng lượng trai đổi của bột cỏ Stylo là điểm mới của đề tài này.

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giới thiệu về cây Stylo 1.1.1. Nguồn gốc Stylosanthes là một chi thực vật thuộc họ , phân họ Faboideae và được APGII (2003) [35] phân l oại như sau: Giới (regnum): Phantae Không phân hạng: Angiospermae Không phân hạng: Không phân hạng: Bộ (ordo): Họ (familia): Fabaceae Phân họ (subfamilia): Faboideae Tông (tribus): Aeschynomeneae Chi (genus): Stylosanthes Sw Cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 (viết tắt là Stylo CIAT 184) là loài đậu lưu niên ngắn vùng nhiệt đới có nguồn gốc từ miền Trung và miền Nam nước Mỹ, được chọn tạo từ Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT). Cỏ được trồng phổ biến ở Tây Ấn Độ, Hawii và một số nước Châu Phi như Kenya, Uganda, Nigieria. Stylosanthes phân bố tự nhiên ở Trung và Nam Mỹ, từ Brasil nhập vào Australia những năm 1930, nhưng sau chiến tranh thế giới lần thứ II mới được chú ý đến. Đây là loại cây thức ăn gia súc được phát triển đáng kể ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đã nhập vào nhiều nước như: Malaysia, Công gô, Nam Trung Quốc.

Cỏ Stylo CIAT 184 thường mọc thành từng bụi nhỏ, mọc thẳng đứng hoặc xiên ngang, chiều cao thân cây có thể cao hơn 1,2m. Cỏ Stylo có hoa dạng chùm màu vàng, hoa ra rải rác quanh năm, hoa hình bông không cuống kết lại thành chùm, thường có 70 – 1200 chùm/bụi với kích thước chung bình từ 4 – 8mm x 3 – 5mm, mỗi chùm có 5 – 9 hoa. Quả đậu không có cuống, gồm 7 – 8 hạt có vỏ cứng, có màu nâu sáng hoặc màu xám đen trọng lượng 1000 hạt khoảng 3 – 4g. Cây ra hoa rải rác quanh năm nhưng trong điều kiện khí hạ ở Việt Nam, từ cuối tháng 10 cây bắt đầu có hoa và hoa nở rộ vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 sau đó giảm dần. Những hạt trên đầu chùm hoa luôn chín trước và khi chín hạt được đùn lên tự rụng xuống Cây non mới mọc từ hạt phát triển chậm, dễ rụng lá và bị sâu hại trong 3 – 4 tháng đầu sau khi gieo. Cỏ Stylo CIAT 184 có khả năng ra rễ ở thân, khi già thường chuyển màu xanh sẫm hoặc tím. Bộ rễ ăn sâu dưới đất đến 70cm. Rễ phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng nên có khả năng chịu hạn, chịu úng ngập tạm thời, chống xói mòn rất tốt. Lá chẻ ba, dài hẹp và nhọn, có lông, có nhiều hoặc ít lông mềm. Lá dài 2 – 3cm, rộng 5 – 10mm, tỷ lệ lá/thân = 5/7. Loài nhập nội không có vòi cuống. Stylo CIAT 184 thích nghi rộng với các loại đất và khí hậu, mọc tốt trên đất cằn cỗi, đất chua có pH = 4,0 – 8,0. Tuy nhiên, trên đất quá chua, quá phèn hoặc quá mặn, nghèo dinh dưỡng và có hàm lượng đất sét cao cỏ Stylo không thể phát triển tốt. Là cây có khả năng thích nghi rộng với các vùng sinh thái nhất là vùng khí hậu nhiệt đới, yêu cầu lượng mưa từ 700 – 5000mm, lượng mưa thích hợp nhất cho sự sinh trưởng phát triển là 1000 – 2500mm. Cỏ có thể sống được ở những vùng có lượng mưa trung bình khoảng 890 mm. Tuy nhiên, với lượng mưa 650mm cây vẫn có thể sống được nhưng sinh trưởng rất kém. Độ ẩm không khí thích hợp là 70 – 80%. Cỏ Stylo cũng có thể chịu được ngập tạm thời, ở những nơi quá ẩm năng suất cỏ cũng bị giảm. Cỏ Stylo phát triển tốt khi nhiệt độ không khí trong

khoảng 20 – 350C. Nhiệt độ thích hợp cho cỏ Stylo sinh trưởng phát triển là 23 – 270C. Khi nhiệt độ dưới 50C và trên 400C cây phát triển kém. Khi thiếu ánh sáng cỏ Stylo bị giảm năng suất. Stylo CIAT 184 là loại thức ăn xanh giàu protein bổ sung rất tốt cho động vật, bao gồm gia cầm, lợn và cá (Guptan và cs, 1986) [43]. Stylo CIAT 184 có thể cho ăn ở dạng tươi hay khô và bột lá. Ngoài ra, nó còn có tác dụng cải tạo đất, chống xói mòn và ngăn chặn cỏ dại một cách hữu hiệu. Ở Việt Nam, cỏ Stylo nhập lần đầu vào năm 1967 từ Singapore, Australia. Các giống Stylo đang được gieo trồng: Stylosanthes guianensis (Common Stylo): cây lâu năm Stylosanthes hamata (Caribbcan Stylo): cây hàng năm Stylosanthes scabra (Shrubby Stylo): cây lâu năm Stylosanthes humilis (Townsville Stylo): cây hàng năm Hàm lượng các chất dinh dưỡng: vật chất khô 23 - 24%, đạm thô 17 - 18%, xơ thô 28 – 31%, khoáng tổng số 8 – 10%, lipit 1,55%. Với thành phần dinh dưỡng như vậy cây Stylo là nguồn thức ăn bổ sung protein rất có giá trị cho gia súc ăn cỏ, đặc biệt là có khả năng chế biến thành bột cỏ (Lê Đức Ngoan và cs, 2006) [18]. Tại Việt Nam, rất nhiều vùng đã trồng thử nghiệm giống cỏ Stylo. Trung bình hàng năm thảm cỏ cho 3 – 4 lứa cắt tại các tỉnh phía Bắc và 6 – 7 lứa cắt tại các tỉnh miền Trung và miền Nam. Năng suất chất xanh biến động từ 45 – 82 tấn/ha/năm và khả năng lưu giữ thảm có tùy thuộc vào mức độ quản lý và chăm sóc (Nguyễn Thị Mùi, 2009) [16]. 1.1.2. Năng xuất chất xanh của cỏ Stylo Năng suất chất xanh là toàn bộ khối lượng chất xanh thu được trên một đơn vị diện tích.

Ở Việt Nam Stylo CIAT 184 được trồng từ những năm trước đây, các nghiên cứu cho thấy tùy thuộc vùng sinh thái, mức phân bón, lượng nước tưới, đất đai ... khác nhau thì cho năng suất khác nhau. Sản lượng chất xanh của cỏ Stylo đạt từ 25 – 60 tấn/ha/năm (5 – 14,5 tấn chất khô/ha/năm), Stylo là nguồn thức ăn bổ sung rất có giá trị cho gia súc ăn cỏ, đặc biệt là có khả năng chế biến thành bột cỏ để bổ sung cho các loài khác như gia cầm. Năng suất chất xanh của cỏ Stylo CIAT 184 được trồng tại Đắc Lắc đạt 12,34 tấn/ha/lứa; cho năng suất 3,08 chất khô/ha/lứa (tương ứng với 21,56 tấn/ha/năm) cao hơn so với trồng ở các vùng sinh thái khác của Việt Nam (Lê Hòa và Bùi Quang Tuấn, 2009) [10]. Stylosanthes CIAT 184 trồng tại Nghĩa Đàn đạt sản lượng thức ăn xanh từ 52,5 tấn/ha đến 65,2 tấn/ha ở 2 mức phân bón hóa học và 3 mức phân hữu cơ khác nhau. Trên cỏ Stylo Plus, sản lượng chất xanh đạt từ 49,70 tấn/ha/năm đến 62,00 tấn/ha/năm, sản lượng chất khô (CK) đạt từ 11,70 đến 14,92 tấn/ha/năm, sản lượng protein từ 1,99 đến 2,53 tấn/ha/năm ở 2 mức phân bón hóa học và 3 mức phân hữu cơ khác nhau. Khi sử dụng đạm 50 - 70kg ure cho cỏ Stylosanthes CIAT 184 đạt sản lượng trung bình từ 58,8 – 58,9 tấn/ha/năm (Hoàng Văn Tạo và Nguyễn Quốc Toản, 2010) [23]. Theo Lê Đức Ngoan và cs (2006) [18] năng suất chất xanh của cỏ Stylo đạt từ 25 – 60 tấn/ha và đạt 5 – 14,5 tấn chất khô/ha/năm. Tại Đắc Lắc, năng suất chất xanh của Stylo CIAT 184 đạt 12,34 tấn/ha/lứa; 3,08 tấn CK/ha/lứa (tương ứng 21,56 tấn/ha/năm), cao hơn so với năng suất ở các vùng sinh thái khác (Lê Hòa và Bùi Quang Tuấn, 2009) [10]. Cỏ Stylo CIAT 184 trồng tại Thái Nguyên có năng suất chất xanh năm thứ nhất dao động từ 49,9 – 59,2 tấn/ha và năm thứ hai dao động từ 27,4 – 34,06 tấn/ha khi bón các mức phân bón khác nhau (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [17].

Cỏ Stylo CIAT 184 trồng ở Brazil cho năng suất chất xanh từ 15 – 20 tấn/ha còn ở Zaire 35 tấn/ha/năm (Ecoport, 2001) [42]. Năng suất chất xanh của cỏ Stylo trong các nước vùng Đông Nam Châu Á biến động từ 40 – 127 tấn/ha (16 – 19,5 tấn chất khô/ha/năm) (Nguyễn Thị Mùi, 2009) [16]. 1.1.3. Thành phần hóa học * Protein Cây họ đậu là những cây giàu protein trong thân, lá. Bột cỏ Stylo là loại thức ăn chăn nuôi có giá trị dinh dưỡng cao, vì có chứa nhiều protein nên có thể hỗn hợp với các loại thức ăn tinh khác để nuôi lợn và gia cầm. Thành phần hoá học cỏ Stylo CIAT 184 của các tác giả khác trên thế giới protein thô từ 10,6 - 19,93% CK tuỳ thuộc vào vùng sinh thái nghiên cứu (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [17]. Cỏ Stylosanthes có thành phần dinh dưỡng biến động từ 15 – 17% protein thô tính theo vật chất khô (Ecoport, 2001) [43]. Còn theo Sukkasem và cs (2002) [63] cỏ Stylo CIAT 184 có protein thô dao động từ 12,1 - 18,1% CK trong thân lá, và có thể lên đến 21% CK ở lá (Huy và cs, 2000) [46]. Cỏ Stylo CIAT 184 có giá trị dinh dưỡng cao, tỷ lệ protein thô đạt 16,86% (Lê Hòa, Bùi Quang Tuấn, 2009) [10]. Hàm lượng protein trong vật chất khô (VCK) trung bình của cỏ Stylo CIAT 184 tại Đức Trọng là 16,45% tương đương với kết quả phân tích tại Ba Vì 16,1%. Với cỏ Stylo Plus tại Ba Vì là 17,1% và tại Lâm Đồng là 17,3% (Nguyễn Thị Mùi, 2009) [16]. Theo Lê Đức Ngoan và cs, (2006) [18], thì hàm lượng protein thô trong cỏ Stylo đạt 17 – 18%. Theo Nguyễn Quang Tin (2013) [27] thì tỷ lệ protein thô trong cỏ Stylo là 18,1%. Hàm lượng protein thô trong bột cỏ dao động trong phạm vi 16,01 - 16,93%. Hàm lượng protein cao hơn trong hỗn hợp bột cỏ S.Scabra,

S.guianensis và S.seabrana có chứa 14,2%, 16,4% và 13,7% trong CK (Krishna Daida và cs, 2008) [53] và 13,56% protein thô trong nghiên cứu của Njwe và cs, (1996) [56]. Stylosanthes cũng được trồng phổ biến tại Thái Lan và Lào. Stylo CIAT 184 trồng tại Thái Lan có chứa protein thô 17,1% (Kiyothong và Wanapat, 2004) [49]. Theo SatjiPanon và cs (1995) [61] thì thành phần hóa học của cỏ Stylo CIAT 184 ở 4 lứa cắt tính theo chất khô dao động từ 16,7 – 18,1% protein thô. Hàm lượng protein thô trong bột cỏ Stylo CIAT 184 được trồng tại Thái Nguyên dao động từ 16,01 – 16,93%. Hàm lượng protein thô trung bình trong cỏ Stylo CIAT 184 tươi là 4,1% (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [17]. * Lipit Theo Hồ Thị Bích Ngọc (2012) [17], tỷ lệ lipit trung bình là 0,42% ở cỏ Stylo CIAT 184 tươi và 1,7% ở bột cỏ, bột cỏ Stylo CIAT 184 cắt ở 60 ngày và 105 ngày có tỷ lệ lipit là 1,87 và 1,52 %. Theo Lê Đức Ngoan và cs (2006) [18], cỏ Stylosanthes guianensis có tỷ lệ lipit là 1,55 %. Theo nghiên cứu của Omole và cs (2007) [60] thì cỏ Stylosanthes guianensis trồng tại Nigeria có 1,34 % lipit thô. Theo kết quả phân tích của Viện chăn nuôi (2001) [33], hàm lượng lipit của bột cỏ Stylo CIAT 184 là 1,90 %. Theo Kopinski và cs (2011) [51] tỷ lệ lipit trong cỏ Stylo CIAT 184 cắt sớm và cắt muộn là 2,2 % và 1,7 %. * Chất xơ: Stylo CIAT 184 có tỷ lệ xơ thô chiếm 30% VCK (Chanphone và cs, 2003) [40]. Còn theo Toum Keopaseuht (2004) [67] thì cỏ Stylo có tỷ lệ VCK đạt từ 20 – 28 %; protein thô 13,3%; xơ trung tính 16,9%. Theo

Kiyothong và cs (2004a) [49], hàm lượng xơ trung tính là 39,1% và xơ axit là 56,8%. Hàm lượng xơ thô của cỏ Stylo trồng tại Zaire đạt từ 33 - 40% tính theo vật chất khô (Ecoport, 2001) [42], hàm lượng xơ thô đạt 30% (Chanphone Keoboualapheth và cs, 2003) [39], còn theo Toum Keopaseuht (2004) [64] hàm lượng xơ trung tính 16,9% chất khô. Tỷ lệ xơ có xu hướng tăng dần khi tháng tuổi tăng lên, tỷ lệ xơ trung bình là 7,32 % ở cỏ Stylo CIAT 184 tươi và 32,58 % trong VCK của bột cỏ. Bột cỏ Stylo CIAT 184 cắt ở 60 ngày và 105 ngày có tỷ lệ xơ thô là 27,41 và 37,53 % VCK của bột cỏ (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [17].Nguyễn Quang Tin (2013) [28] thì tỷ lệ xơ thô trong cỏ Stylo là 26,8%. Theo nghiên cứu của Phengsavanh (2003b) [59], cỏ Stylo CIAT 184 tươi 40 – 45 ngày tại Lào có 20,2% VCK, tỷ lệ chất xơ trung tính tính theo VCK là 64,2%. * Các chất khoáng Lá cây họ đậu cung cấp khoáng chất và vitamin thiết yếu cần thiết cho sự phát triển của vật nuôi. Chất khoáng trong thức ăn mặc dù chiếm tỷ lệ không lớn như protein, lipid và glucid. Mặc dù không có giá trị năng lượng nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong quá trình sinh trưởng, sinh sản và sản xuất. Chất khoáng tham gia cấu trúc bộ khung cơ thể như canxi, phốt pho cấu trúc xương, duy trì áp suất thẩm thấu, cân bằng kiềm – acid trong và ngoài tế bào như: kali, natri, clo . . . Chất khoáng còn tham gia cấu trúc protein chức năng như hemoglobin, myoglobin, các enzym, kích thích tố (hormone) để xúc tác, điều khiển các phản ứng sinh học luôn xảy ra trong cơ thể vật nuôi. Theo Chanphone và cs (2003) [39], Stylo CIAT 184 có chứa 5,1% chất khoáng tổng số trong VCK, trong đó khoáng Ca chiếm 0,2 % và P chiếm 0,4 %. Tỷ lệ khoáng tổng số của cỏ Stylo CIAT 184 ở 4 lứa cắt tính theo chất khô

dao động từ 6,3 – 8,7 % (Kiyothong và cs, 2004b) [01]. Tại Lào cỏ Stylo CIAT 184 tươi 40 – 45 ngày chứa 20,2% VCK; còn chất khoáng tính theo VCK có 5,5 % (Phengsavanh, 2003b) [60]. Cỏ Stylosanthes guianensis trồng tại Nigeria có 9,38 % khoáng tổng số (Omole và cs, 2007) [57] Theo Bai Changjun và cs (2004) [36], cỏ Stylo có 1,13% canxi và 0,11% photpho trong CK. Cỏ Stylosanthes guianensis khô 6 tuần sau thu hoạch ở Nigeria tính theo VCK có 7,3 % khoáng (Bamikole và Ezenwa, 1999) [37]. Cỏ Stylosanthes trồng tại tại Zaire có 0,1 – 0,2 % phốt pho; 0,8 – 1% canxi; 1,2 –1,8 kali; 0,3 – 0,8 % magie; 0,02 % natri và 0,1 – 0,8% clo tính theo vật chất khô (Ecoport, 2001) [42]. Theo Chanphone Keoboualapheth và cs (2003) [39], Stylo CIAT 184 có khoáng 5,1%, canxi 0,2%; photpho 0,4%. Theo Hồ Thị Bích Ngọc (2012) [17] hàm lượng khoáng tổng số trong bột cỏ Stylo khá cao, dao động từ 1,5 – 1,9% trong cỏ tươi và 7,7 – 8,09% trong bột cỏ và hàm lượng khoáng có xu hướng tăng dần khi tuôi ngày tuổi tăng lên. * Các chất sắc tố Stylosanthes guianensis là một loài cây giàu chất sắc tố, chủ yếu là carotenoid. Hàm lượng carotenoid cao, khoảng 270 – 300 mg caroten/kg bột cỏ. Hàm lượng caroten trong cỏ Stylo CIAT 184 tươi dao động từ 417,1mg/kg đến 423,82mg/kg tùy theo từng mức phân bón khác nhau, trong bột cỏ 225mg/kg đến 232mg/kg ở cùng một phương pháp chế biến (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [17]. Carotenoid là một dạng sắc tố hữu cơ có màu da cam, vàng hoặc đỏ, tùy theo loại carotenoid, thể mang màu, nguồn nguyên liệu trồng, thời tiết. Mạch cấu tạo 40C với công thức phân tử C40H56. Cơ thể động vật không thể tự tổng