Lịch Sử Giao Thương

Total Page:16

File Type:pdf, Size:1020Kb

Lịch Sử Giao Thương LỊCH SỬ GIAO THƯƠNG Thương mại định hình thế giới như thế nào? WILLIAM J. BERNSTEIN Ngọc Mai dịch Võ Minh Tuấn hiệu đính —★— ebook©vctvegroup Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Dành tặng Jane! BẢN ĐỒ Các tuyến đường tơ lụa cổ đại Hệ thống thương mại thế giới, thiên niên kỷ thứ ba TCN Các con kênh cổ đại ở Suez Gió mùa đông Gió mùa hè Hành trình lương thực Athens Các vùng đất và hành trình hương liệu Thế giới thương mại trung cổ Quần đảo Gia vị Giao thương gia vị/nô lệ đông Địa Trung Hải, khoảng năm 1250 Cái chết Đen - Hồi I: Giai đoạn 540-800 Cái chết Đen - Hồi II: Giai đoạn 1330-1350 Đường Tordesillas ở phương Tây Hành trình đầu tiên của Da Gama, 1497-1499 Cỗ máy gió toàn cầu Eo Hormuz Đế chế Hà Lan ở châu Á thời kỳ đỉnh cao vào thế kỷ 17 Khu vực trồng cà phê và các cảng ở Yemen cuối trung cổ Quần đảo Mía đường Cửa sông Châu Giang Kênh Erie và hệ thống Saint Lawrence năm 1846 Dòng chảy dầu thế giới, hàng triệu thùng mỗi ngày LỜI NÓI ĐẦU Bối cảnh chẳng có gì đặc biệt: một buổi sáng tháng chín, tại sảnh khách sạn giữa trung tâm Berlin. Trong lúc nhân viên lễ tân và tôi lịch sự chào nhau bằng thứ tiếng Anh và tiếng Đức rời rạc, tôi lơ đãng đưa tay với trái táo trong chiếc tô đặt trên quầy và thả vào ba lô. Vài giờ sau, khi cơn đói tìm đến, tôi quyết định dừng ở Tiergarten để ăn nhanh chút đồ nhẹ. Khung cảnh và âm thanh của công viên thành phố rộng lớn này làm tôi suýt quên mất cái nhãn bé xíu cho biết bữa trưa miễn phí của mình là một “sản phẩm của New Zealand.” Ti vi Đài Loan, rau diếp Mexico, sơ mi Trung Hoa, và dụng cụ Ấn Độ phổ biến đến nỗi khiến người ta dễ quên mất rằng những điều kỳ diệu này của thương mại chỉ vừa mới xuất hiện. Còn hình ảnh nào tượng trưng cho thiên anh hùng ca về thương mại toàn cầu hay hơn hình ảnh trái táo đến từ bên kia địa cầu của tôi, được tiêu thụ đúng lúc những người anh em của nó tại châu Âu vừa chín tới và vào vụ thu hái? Hàng nghìn năm trước đây, chỉ những hàng hóa có giá trị cao nhất - tơ lụa, vàng bạc, gia vị, trang sức, đồ sứ, và thuốc men - là được vận chuyển giữa các lục địa. Thật dễ hiểu khi một món hàng đến từ vùng đất xa xôi được bao phủ trong sự thần bí, lãng mạn, và địa vị quyền quý. Nếu trở lại thế kỷ 3 và địa điểm là thành Rome, thì ví dụ điển hình nhất cho hàng nhập khẩu xa xỉ chính là tơ lụa Trung Hoa. Những hoàng đế La Mã vĩ đại nhất được lịch sử ca tụng nhờ các cuộc đại chinh phục, công trình kiến trúc và xây dựng, cũng như thể chế pháp luật. Nhưng Elagabalus, trị vì từ năm 218 đến 222, thì lại được nhớ đến, nếu có dịp hiếm hoi nào đó ông ta được nhớ đến, vì hành xử tàn bạo cùng với sở thích dành cho các cậu trai trẻ và tơ lụa. Trong suốt thời gian tại vị, ông ta đã khiến người dân vốn thờ ơ ở kinh đô thế giới cổ đại bị choáng váng trước sự phô diễn nhiều hành động bê bối, từ đùa cợt vô hại tới giết chóc trẻ em theo tính khí đồng bóng của ông ta. Tuy nhiên, chẳng điều gì khiến thành Rome quan tâm (và nhen nhóm sự đố kỵ) bằng gia tài quần áo của ông ta và những trò màu mè lúc ông ta chưng diện nó, như cạo hết lông trên người và vẽ mặt bằng bột trắng bột đỏ. Mặc dù loại vải ưa thích của ông ta đôi khi lẫn cả vải lanh - cũng được gọi là sericum [Từ gốc La Mã, chỉ sản phẩm làm từ tơ. (Tất cả chú thích của người biên tập trong sách này sẽ đánh dấu (BT); các chú thích còn lại là của người dịch.)] - nhưng Elagabalus vẫn là vị vua đầu tiên ở phương Tây mặc quần áo hoàn toàn bằng tơ lụa.1 Xuất phát từ vùng đất quê hương ở Đông Á tới điểm cuối hành trình ở thành Rome cổ đại, chỉ tầng lớp thống trị mới đủ khả năng chi trả cho thứ sản phẩm tiết ra từ loài vật không xương Bombyx mori nhỏ bé - con tằm. Độc giả hiện đại, vốn đã quen với thứ vải nhân tạo thoải mái, êm mượt, lại chẳng đắt đỏ gì, hãy tưởng tượng quần áo từng được, làm chủ yếu bằng ba nguyên liệu: da động vật, rẻ, nhưng nóng và nặng nề; len thô; hoặc vải lanh trắng dễ nhàu. (Vải bông dù đã xuất hiện ở Ấn Độ và Ai Cập nhưng lại khó sản xuất hơn, vì thế giá đắt hơn, thậm chí đắt hơn tơ tằm). Trong một thế giới với nguyên liệu may mặc hạn chế như vậy, sự mơn trớn dịu êm, nhẹ như không của tơ lụa trên da trần có thể quyến rũ bất kỳ ai từng được cảm nhận nó. Không khó để hình dung những thương gia buôn tơ lụa đầu tiên, ở mỗi cảng và mỗi quán trọ trên đường đi, kéo từ trong túi ra một xấp vải sặc sỡ, đưa ể cho nữ chủ nhà với cái nhìn ranh mãnh, “Thưa bà, bà phải cảm nhận nó để tin vào điều đó.” Thi sĩ Juvenal, viết vào khoảng năm 110, phàn nàn về loại phụ nữ ham mê xa xỉ là “những người thấy chiếc áo choàng mỏng nhất vẫn là quá nóng với họ; muốn da thịt mong manh của mình được cọ xát bằng những mảnh tơ lụa tốt nhất.”2 Chính các vị thần cũng không cưỡng lại nổi: nữ thần Isis được mô tả là đã khoác lên mình “tấm lụa cao sang có thể biến đổi màu sắc, khi vàng, khi hồng, khi ánh lửa, và khi thì màu tối mơ hồ (khiến tâm trí phiền não của tôi thêm day dứt)”.3 Mặc dù người La Mã biết tới tơ lụa Trung Hoa, nhưng họ lại không biết gì về Trung Hoa. Họ tin rằng tơ lụa mọc trực tiếp trên cây dâu, mà không hay rằng lá dâu chỉ là nhà và thức ăn của con tằm. Hàng hóa được vận chuyển từ Trung Hoa tới thành Rome như thế nào? Rất chậm chạp và đầy hiểm nguy, mỗi bước đi đều đầy gian khó.4 Thương lái Trung Hoa xếp tơ lụa lên tàu tại các cảng phía nam cho hành trình dài ven biển, từ Đông Dương, vòng qua bán đảo Mã Lai và vịnh Bengal tới các cảng ở Sri Lanka. Ở đó, họ sẽ gặp các lái buôn Ấn Độ, những người này chuyển vải tới các cảng Muziris, Nelcynda, và Comara ở Tamil thuộc vùng ven biển phía tây nam Tiểu lục địa. Tại đây, nhiều nhà môi giới Hy Lạp và Ả-rập tiếp tục vận chuyển hàng tới đảo Dioscordia (nay là Socotra), nơi tập trung đông đúc giới thương lái Ả-rập, Hy Lạp, Ấn Độ, Ba Tư, và Ethiopia. Từ Dioscordia, hàng được chất lên tàu Hy Lạp, tiến vào Biển Đỏ tại Bab el Mandeb (tiếng Ả- rập nghĩa là “Cổng u sầu”) tới cảng chính của vùng biển này là Berenice ở Ai Cập; sau đó băng qua sa mạc tới sông Nile bằng lạc đà; và tiếp theo là đi thuyền xuôi dòng xuống Alexandria, từ đây các con tàu La Mã Hy Lạp và La Mã Ý tiếp tục chuyển hàng qua Địa Trung Hải tới Puteoli (nay là Pozzuoli) - hải cảng lớn thuộc La Mã - và Ostia. Đã thành thông lệ chung, người Trung Hoa hiếm khi đi quá phía tây Sri Lanka, người Ấn Độ hiếm khi đi quá phía bắc cửa Biển Đỏ, và người Ý hiếm khi đi quá phía nam Alexandria. Lộ trình đó dành cho người Hy Lạp, họ tự do di chuyển từ Ấn Độ tới Ý, mang đến sự giao thương phồn thịnh. ầ ể Sau mỗi cung đường dài và đầy hiểm nguy của hành trình, tơ lụa khi sang tay lại bị đẩy giá lên cao hơn. Ở Trung Hoa nó đã đủ đắt đỏ; sang đến thành Rome, nó còn đắt hơn cả trăm lần - có giá ngang với vàng, đắt đến mức chỉ vài ounce cũng tiêu tốn cả năm tiền lương của một người làm công trung bình.5 Chỉ những người giàu có nhất, như Hoàng đế Elagabalus, mới đủ khả năng khoác nguyên một tấm áo choàng làm từ tơ lụa. Một cách khác để tới thành Rome là qua Con đường Tơ lụa nổi tiếng, được khai phá đầu tiên nhờ công của các sứ thần người Hán vào thế kỷ 2, di chuyển chậm chạp trên đường bộ qua Trung Á. Tuyến đường này phức tạp hơn nhiều, và lộ trình cụ thể cũng thay đổi nhiều tùy thuộc tình hình chính trị và quân sự biến động, từ phía nam đèo Khyber Tuyến đường núi nối Afghanistan với Pakistan.
Recommended publications
  • Englischer Diplomat, Commissioner Chinese Maritime Customs Biographie 1901 James Acheson Ist Konsul Des Englischen Konsulats in Qiongzhou
    Report Title - p. 1 of 348 Report Title Acheson, James (um 1901) : Englischer Diplomat, Commissioner Chinese Maritime Customs Biographie 1901 James Acheson ist Konsul des englischen Konsulats in Qiongzhou. [Qing1] Aglen, Francis Arthur = Aglen, Francis Arthur Sir (Scarborough, Yorkshire 1869-1932 Spital Perthshire) : Beamter Biographie 1888 Francis Arthur Aglen kommt in Beijing an. [ODNB] 1888-1894 Francis Arthur Aglen ist als Assistent für den Chinese Maritime Customs Service in Beijing, Xiamen (Fujian), Guangzhou (Guangdong) und Tianjin tätig. [CMC1,ODNB] 1894-1896 Francis Arthur Aglen ist Stellvertretender Kommissar des Inspektorats des Chinese Maritime Customs Service in Beijing. [CMC1] 1899-1903 Francis Arthur Aglen ist Kommissar des Chinese Maritime Customs Service in Nanjing. [ODNB,CMC1] 1900 Francis Arthur Aglen ist General-Inspektor des Chinese Maritime Customs Service in Shanghai. [ODNB] 1904-1906 Francis Arthur Aglen ist Chefsekretär des Chinese Maritime Customs Service in Beijing. [CMC1] 1907-1910 Francis Arthur Aglen ist Kommissar des Chinese Maritime Customs Service in Hankou (Hubei). [CMC1] 1910-1927 Francis Arthur Aglen ist zuerst Stellvertretender General-Inspektor, dann General-Inspektor des Chinese Maritime Customs Service in Beijing. [ODNB,CMC1] Almack, William (1811-1843) : Englischer Teehändler Bibliographie : Autor 1837 Almack, William. A journey to China from London in a sailing vessel in 1837. [Reise auf der Anna Robinson, Opiumkrieg, Shanghai, Hong Kong]. [Manuskript Cambridge University Library]. Alton, John Maurice d' (Liverpool vor 1883) : Inspektor Chinese Maritime Customs Biographie 1883 John Maurice d'Alton kommt in China an und dient in der chinesischen Navy im chinesisch-französischen Krieg. [Who2] 1885-1921 John Maurice d'Alton ist Chef Inspektor des Chinese Maritime Customs Service in Nanjing.
    [Show full text]
  • Heinrich Zimmermann and the Proposed Voyage of the Imperial and Royal Ship Cobenzell to the North West Coast in 1782-17831 Robert J
    Heinrich Zimmermann and the Proposed Voyage of the Imperial and Royal Ship Cobenzell to the North West Coast in 1782-17831 Robert J. King Johann Heinrich Zimmermann (1741-1805) a navigué sur le Discovery lors du troisième voyage de James Cook au Pacifique (1776-1780) et a écrit un compte du voyage, Reise um die Welt mit Capitain Cook (Mannheim, 1781). En 1782 il a été invité par William Bolts à participer à un voyage à la côte nord-ouest de l'Amérique partant de Trieste sous les couleurs autrichiennes impériales. Ce voyage était conçu comme réponse autrichienne aux voyages de Cook, un voyage impérial de découverte autour du monde qui devait comprendre l'exploitation des possibilités commerciales du commerce des fourrures sur la côte nord- ouest et le commerce avec la Chine et le Japon. Zimmermann a été rejoint à Trieste par trois de ses anciens compagnons de bord sous Cook -- George Dixon, George Gilpin et William Walker, chacun destiné à naviguer comme officier sur le navire impérial et royal Cobenzell. Les lettres et le journal de Zimmermann qui ont survécu fournissent une source valable à cette étude des origines du commerce maritime des fourrures sur la côte nord-ouest. On 24 July 1782, George Dixon wrote from Vienna to Heinrich Zimmermann, his former shipmate on the Discovery during James Cook’s 1776-1780 expedition to the North Pacific: Dear Harry, Yours I Rec‘d, and am glad you have Resolution, like the Honest Sailor which I allways have taken you for, and are willing to be doing sum thing both for your self and the Country.
    [Show full text]
  • William Jardine (Merchant) from Wikipedia, the Free Encyclopedia
    William Jardine (merchant) From Wikipedia, the free encyclopedia For other people with the same name see "William Jardine" (disambiguation) William Jardine (24 February 1784 – 27 February 1843) was a Scottish physician and merchant. He co-founded the Hong Kong conglomerate Jardine, Matheson and Company. From 1841 to 1843, he was Member of Parliament for Ashburton as a Whig. Educated in medicine at the University of Edinburgh, Jardine obtained a diploma from the Royal College of Surgeons of Edinburgh in 1802. In the same year, he became a surgeon's mate aboard the Brunswick of the East India Company, bound for India. Captured by the French and shipwrecked in 1805, he was repatriated and returned to the East India Company's service as ship's surgeon. In May 1817, he left medicine for commerce.[1] Jardine was a resident in China from 1820 to 1839. His early success in Engraving by Thomas Goff Lupton Canton as a commercial agent for opium merchants in India led to his admission in 1825 as a partner of Magniac & Co., and by 1826 he was controlling that firm's Canton operations. James Matheson joined him shortly after, and Magniac & Co. was reconstituted as Jardine, Matheson & Co in 1832. After Imperial Commissioner Lin Zexu confiscated 20,000 cases of British-owned opium in 1839, Jardine arrived in London in September, and pressed Foreign Secretary Lord Palmerston for a forceful response.[1] Contents 1 Early life 2 Jardine, Matheson and Co. 3 Departure from China and breakdown of relations 4 War and the Chinese surrender Portrait by George Chinnery, 1820s 5 Death and legacy 6 Notes 7 See also 8 References 9 External links Early life Jardine, one of five children, was born in 1784 on a small farm near Lochmaben, Dumfriesshire, Scotland.[2] His father, Andrew Jardine, died when he was nine, leading the family in some economic difficulty.
    [Show full text]
  • The Tombstones of the English East India Company Cemetery in Macao: a Linguistic Analysis
    O'Regan, J. P. (2009). The tombstones of the English East India Company cemetery in Macao: a linguistic analysis. Markers XXVI. Journal of the Association of Gravestone Studies. 88-119. THE TOMBSTONES OF THE ENGLISH EAST INDIA COMPANY CEMETERY AT MACAO: A LINGUISTIC ANALYSIS JOHN P. O’REGAN1 It was Macao’s privilege to save their names from oblivion, and looking at these epitaphs you realize that “They, being dead, yet speak”. J. M. Braga (1940)1 Introduction In a quiet corner of the former Catholic Portuguese colony of Macao, China, away from the bustle and hum of the surrounding streets, there is to be found a small nineteenth century burial ground for Protestants – British and American in the main, but also including French, German, Danish, Dutch, Swedish and Armenian graves. The ground is entered via a narrow gate off the Praça Luis de Camões (Camoens Square), above which is a white tablet bearing the legend: ‘Protestant Church and Old Cemetery [East India Company 1814]’. The date is in fact erroneous, as the burial ground did not open until 1821, and the land was only purchased in the same year.2 Here beneath shaded canopies of bauhinia and frangipani lie 164 men, women and children each of whom died in the service of their nation in a foreign land, either as soldiers, merchants, sailors, medics, diplomats, civil servants, entrepreneurs, missionaries, wives, mothers or innocents. The maladies of which the cemetery’s residents died were numerous, and all too typical of life in the tropics. Their death certificates, and in some cases their gravestones, indicate malaria, cholera, typhus, dysentery, falls from aloft, drowning, death in battle, suicide and murder.
    [Show full text]
  • A Transcription with Commentary
    2019] Emory Journal of Asian Studies 1 Manuel de Agote 1795 Noticias Mercantiles: A Transcription with Commentary Krystal Castaneda Emory University Introduction……………….……………………………………………….2 Transcription 1. January………………………………………………………….....5 2. Febuary………………………………………………….………...8 3. March…………………………………………………………….10 4. April……………………………………………………………...12 5. May………………………………………………………………14 6. June………………………………………………………………18 7. July……………………………………………………………….20 8. September………………………………………………………..21 9. October…………………………………………………………...26 10. November………………………………………………………...28 11. December………………………………………………………...33 Bibliography……………………………………………………………..35 2019] Emory Journal of Asian Studies 2 Introduction Although the Spanish were a pivotal player in the Canton trade during the 18th century, Spanish presence in Canton is relatively under-researched and underexplored. This reality emphasizes the academic significance of the transcribed diaries of Manuel de Agote, a Spaniard hired by the Royal Philippine Company as the first Factor of a new factory established by the company in Canton in 1787. As a representative of the Spanish trading empire, De Agote’s diaries provide insight into Spain’s relationship with Chinese merchants and offer his perspectives on other major traders in Canton, such as the British East India Company. De Agote had been writing diaries since 1779, beginning during his employment by the Ustariz Company, tracking voyages and recording information for the Spanish monarchy. De Agote played an important role for the Spanish monarchy by helping the monarchy maintain close contact with the Philippines after a period during which Spain lost Manila to the British in 1762. Prior to the British seizure of Manila, contact with the Philippines was limited to the Manila Galleon trade route running between the Philippines, Spanish colonies in Latin America, such as Acapulco Mexico and Lima Peru, and Spain.
    [Show full text]
  • Report Title 13. Jahrhundert 16. Jahrhundert 17. Jahrhundert
    Report Title - p. 1 Report Title 13. Jahrhundert 1294-1305 Wirtschaft und Handel Pietro da Lucalongo ist Kaufmann in Beijing. [Wik] 16. Jahrhundert 1513 Geschichte : China - Europa : Portugal / Wirtschaft und Handel Giovanni da Empoli kommt im Auftrag von Portugal auf der Insel Lintin, nordöstlich von Macao am Perlflussdelta an. [Wik] 1516-1517 Geschichte : China - Europa : Portugal / Wirtschaft und Handel Rafael Perestrello treibt Handel in Guangzhou (Guangdong). [Wik] 1554 Geschichte : China - Europa : Portugal / Wirtschaft und Handel Leonel de Sousa macht ein chinesisch-portugiesisches Abkommen mit den Behörden von Guangdong, das freien Handel erlaubt. [PorChi1,Pta7] 17. Jahrhundert 1600 Wirtschaft und Handel Gründung der East India Company. [Int] 1602 Wirtschaft und Handel Gründung der Vereenigte Oostindische Compagnie. [Int] 1618 Geschichte : China - Europa : Daenemark / Wirtschaft und Handel Erste Handels-Expedition der Danish East India Company nach Asien. [BroK1] 1639 Wirtschaft und Handel Xu, Guangqi. Nong zheng quan shu. Vol. 1-3. (Beijing : Ping lu tang, 1639). [Abhandlung über Landwirtschaft]. [BBKL,AOI] 1639-1674 Geschichte : China - Russland / Wirtschaft und Handel Handelsroute über Bukhara nach China. Zweite Route von Tobolsk über Jungaria nach Suzhou und Beijing. Handel von Baumwolle, Seidenkleider, Medizin, Tee, Rhabarbern. [ChiRus1:S. 165] 1643-1646 Geschichte : Taiwan / Wirtschaft und Handel François Caron ist Gouverneur von Formosa (Taiwan). Er kontrolliert den Handel und die Produktion von Reis, Zucker, Salz und Indigo. [Wik] 1656 Wirtschaft und Handel Le bureau chinois des rites confirme dans un document officiel de permetter à Hollande de venir à la Cour tous les huit ans. [MarxJ1:S. 752] 1668-1670 Geschichte : China - Europa : Daenemark / Wirtschaft und Handel Zweite Handels-Expedition der Danish East India Company nach Asien [BroK1] Report Title - p.
    [Show full text]
  • Record of the Old Protestant Cemetery in Macau
    OLD PROTESTANT CEMETERY IN MACAU Cemetery opened 1821 Cemetery closed in 1858 The Old Protestant Cemetery close to the Casa Garden was established by the British East India Company in 1821 in Macau - in response to a lack of burial sites for Protestants in the Roman Catholic Portuguese Colony Macau was considered by the Portuguese to be sacred Roman Catholic ground and the authorities barred the burial of Protestants within its city walls whilst on the other side of the barrier gate the Chinese were equally as intolerant of the burial of foreigners in its soil This left the Protestant community of British, American and Northern European traders with the only option of a secret night-time burial in the land between the city walls and the barrier gate and the risk of confrontation with Chinese should they be discovered or worse - desecration of the grave once they had gone. The matter was finally resolved in 1821 after the death of Robert Morrison's wife Mary when the local committee of the East India Company voted to purchase a plot of land and resolve its legal status with the Portuguese such that the burial of Protestants would be permitted there Later the East India Company allowed burial of all foreigners and several graves were moved from other locations outside the city walls into the cemetery with people being reinterred from other burial places in the Macao Hillside thus explaining why some graves are dated before the Cemetery founding in 1821 Nationals of Britain, the United States of America, Holland, Denmark, Sweden and Germany
    [Show full text]
  • 1 14Th Annual Conference of the EBHA 2010
    1 14th Annual Conference of the EBHA 2010: "Business beyond the Firm" The Centre for Business History, University of Glasgow Saturday 28 August (09.00-11.00) Session 4B: Business and political action ‘The business of consuls; consuls and businessmen’ Ferry de Goey Erasmus University Rotterdam Faculty of History and Arts PO Box 1738 3000 DR Rotterdam The Netherlands [email protected] © Ferry de Goey Do not use or quote without permission 1 - Introduction The institution of consuls to promote international trade first and foremost developed in maritime trading states and empires. The consular system therefore predates official diplomacy by at least several centuries. The use of consuls was so successful that even non-maritime states later employed consuls. Foreign merchants formed colonies or ‗nations‘ and they elected their own consuls that acted as spokesman in contacts with the local authorities. The local authorities endorsed the consuls, because it facilitated the control of groups of resident foreigners. In case of trouble, the consul was held responsible for the conduct his countrymen. The consular system gained in importance with the rise of European nation-states, the western expansion in Asia and Africa after 1800, and the intensifying competition between the industrialising western countries. Julius I. Puente considers consular representation ‗(...) the most potent agency in the commercial and economic interpenetration of nations‘.1 Nevertheless the history of consuls and their contributions to the business community has thus far not attracted much interest from economic historians or business historians.2 A possible explanation might be the image and reputation of consuls as pictured in novels and movies.3 This paper will focus on western consuls in the nineteenth century.4 What services did consuls provide for entrepreneurs operating in foreign countries? What changes took place in the duties and functions of 1 Julius Irizarry Puente, The foreign consul: his juridical status in the United States (Chicago 1926) 1.
    [Show full text]
  • James Hanna and John Henry Gox: the First Maritime Fur Trader and His Sponsor
    James Hanna and John Henry Gox: The First Maritime Fur Trader and His Sponsor W. KAYE LAMB and TOMÂS BARTROLI The clocks, watches, jewellery, and mechanical novelties that delighted the mandarins in Canton and Peking in the late eighteenth century have a modest place in the history of the maritime fur trade. For it was these "singsongs," as they were known locally, that brought to China the man who not only sponsored the pioneer expedition of James Hanna to Nootka in 1785 but also was involved in Hanna's second venture and in the better- known voyages of John Meares, Charles Barkley, James Colnett, and others in the crucial years that followed. The man in question was John Henry Cox, son of James Cox, a cele­ brated watchmaker and jeweller of Shoe Lane, London, who had been the major supplier of "singsongs." In 1766, "by order of the East India Com­ pany," James Cox had made two huge and bejewelled clocks of great complexity that the company had presented to the Emperor of China.1 Memory of this transaction may have benefited John Henry when he asked the East India Company for permission to go to Canton. Permission was granted, and he was in China by 1781. The Chronicles of the company * For assistance in gaining access to sources we are much indebted to Anne Yandle and George Brandak, of the Special Collections Division of the UBC Library; to Basil Stuart-Stubbs of the UBG School of Librarianship; to Dr. John Bovey and Frances Gundry, of the Provincial Archives; to Bob Tharalson, of the Vancouver Public Library; and to Norman Hacking, who checked a source in London.
    [Show full text]
  • Preußen – Deutschland – China
    Preußen – Deutschland – China Ein Inventar zu Akten des Geheimen Staatsarchivs Preußischer Kulturbesitz und des Bundesarchivs, Abteilung Reich Zur korrekten Zitierweise der Archivalien vgl. die Angabe im Vorwort. I Inhaltsverzeichnis 01 Akten im Geheimen Staatsarchiv Preußischer Kulturbesitz ................................ 1 01.01 I. HA Rep. 69 Seeneutralitäts- bzw. Schifffahrtssachen .................................. 1 01.02 I. HA Rep. 76 Kultusministerium ...................................................................... 2 01.03 I. HA Rep. 77 Innenministerium ........................................................................ 7 01.04 I. HA Rep. 81 Gesandtschaften ........................................................................ 11 01.05 I. HA Rep. 87 Ministerium für Landwirtschaft, Domänen und Forsten ..... 15 01.06 I. HA Rep. 89 Geheimes Zivilkabinett ............................................................. 16 01.07 I. HA Rep. 90 A Staatsministerium, jüngere Registratur .............................. 19 01.08 I. HA Rep. 93 B Ministerium der öffentlichen Arbeiten ................................ 20 01.09 I. HA Rep. 109 Seehandlung (Preußische Staatsbank) .................................. 21 01.10 I. HA Rep. 120 Ministerium für Handel und Gewerbe .................................. 23 01.11 I. HA Rep. 137 Generaldirektion der Staatlichen Museen ............................ 32 01.12 I. HA Rep. 151 Finanzministerium .................................................................. 33 01.13 I. HA Rep. 169 Preußische
    [Show full text]
  • Great Powers and Responsibility – the Genealogy of China As a Responsible Great Power in Managing Africa's Development
    Great Powers and Responsibility – The Genealogy of China as a Responsible Great Power in Managing Africa's Development By Viktor Friedmann Submitted to Central European University Department of International Relations and European Studies In partial fulfilment of the requirements for the degree of Doctor of Philosophy Supervisor: Alexander Astrov Budapest, Hungary 2014 Copyright Notice Copyright © 2014 Viktor Friedmann All Rights Reserved ii Abstract The dissertation investigates the relationship between great powers and responsibility through an analysis of the direct equation of greatness with responsibility in the concepts of ʻresponsible power’ and ʻresponsible stakeholder’ in both the discourse of the practitioners of international politics, and in theoretical literature. Preponderant power is thought to come with corresponding responsibilities set by the international social order, and it is meeting these responsibilities that secures the state the status of a great power, hence transforming the fact of great power into a right. The equivalence between greatness and responsibility, however, is paradoxical if the latter stands for accountability for the fulfilment of obligations. Such an understanding of responsibility is fully internal to a pre-given structure of order with its norms, social and functional roles, and criteria of legitimacy. The assertion of greatness, on the other hand, requires an actor to reveal itself outside any pre-given standard, and to have its own standards recognised as equal – hence the historical centrality of war to claiming great powerhood. Asserting one's greatness by fulfilling the required responsibilities therefore seems paradoxical. Still, the ʻresponsible power’ discourse also provided the rationale for the European Union's invitation to a rising China to jointly take on the responsibility of managing Africa's development despite the fact that China was not perceived to be a responsible power iii according to the EU's norms pertaining to development.
    [Show full text]