Nhục Hận Biển Đông Nam Á: Kiện Hay Không Kiện?
Total Page:16
File Type:pdf, Size:1020Kb
Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ Nhục Hận Biển Đông Nam Á: Kiện Hay Không Kiện? Hợp Lưu 2015 Nội Dung Lời Nhà Xuất Bản Nhục Hận Biển Đông Nam Á: Kiện Hay Không Kiện? Dẫn Nhập: Ngày Đại Thắng Buồn: Biển Đông: Trắc Nghiệm Chiến Lược Mới Chủ quyền Hoàng Sa Liên Minh Xã Hội Chủ Nghĩa Kiện Hay Không Kiện: Phụ Bản I: Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Phụ Bản II: Những Dữ Kiện Đáng Nhớ “Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti” (5/7/1407-3/1/1428) I. Sự Khai Sinh Của Đại Ngu (12/3/1400-17/6/1407): A. Lê /Hồ Nhất Nguyên & Ngu Thuấn: B. Hu Di [Hồ Đại] và Li Cang [Lê Thương] (12/1400-1/1401-17/6/1407): II. Những Vấn Đề Tồn Đọng: A. Trụ Đồng Mã Viện: B. Chiêm Thành [Champa]: III. Những Kẻ Nội Thù: A. “Trần Thiên Bình”: B. Bùi Bá Kỳ [Pei Bo-qi]: IV. Ba, Bảy Cũng Liều: A. Một Cuộc Đánh Lừa Ngoại Giao: B. Cuộc Phục Kích Ở Cần Trạm: V. Diệt Ác, Hưng Trần: A. “Chinh di tướng quân” Chu Năng [Zhu Neng] B. Chinh Di Phó Tướng quân Mộc Thạnh & Trương Phụ: 1. Trương Phụ, 1406-1408: 2. Đa Bang Thất Thủ: 3. Hai đô bỏ ngỏ: 4. Ngày Tàn Của Cha Con Quí Ly: 5. Mặt Trận Phía Nam: VI. “Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti”: Kết Từ: Phụ Bản III: Những Phong Trào Kháng Minh, 1407-1427 Phụ Bản IV: Nhà Trần (10 [20]/1/1226-23/3/1400) Phụ Bản V: Lễ Đầu Hàng Của Mạc Đăng Dung (30/11/1540-29/4/1541) 1 Dẫn Nhập: Viết về liên hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa hiện nay, rất tế nhị và khó khăn, vì không chỉ có liên hệ giữa hai nước láng giềng, mà còn những ràng buộc giữa hai đảng Cộng Sản, ít nhất từ năm 1938, khi Nguyễn Sinh Côn (Linov, tức Hồ Chí Minh, 1892-2/9/1969) được Quốc Tế Cộng Sản [QTCS, Comintern] gửi về Diên An. Chúng tôi nghĩ thuật ngữ “Communism” của Karl Marx—vốn chỉ có nghĩa “công hữu trong xã hội nguyên thủy”—đã bị nhóm Chen Doxu [Trần Độc Tú] và Li Dachao [Lý Đại Chiêu] dịch sai thành “Cộng Sản” [gongshan hay gongchan]. Họ cũng dịch tên Karl Marx thành Mã Khắc Tư, và năm 1919 lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mã Khắc Tư, tiền thân Đảng Cộng Sản Trung Hoa [THCSĐ]. Tháng 11/1945, giữa lúc hiểm họa liên quân Pháp và Bri-tên tài xâm chiếm phía nam vĩ tuyến 16 dưới chiêu bài Đồng Minh, và Pháp đang điều đình với chính phủ Tưởng Giối Thạch (Chang Kai-shek) để tiến ra bắc, “tước vũ khí quân Nhật,” Ban Chấp Ủy trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương [CSĐD] loan tin đã họp ngày 5/11/1945, "nghị quyết tự động giải tán Đảng CSĐD [từ ngày 11/11/1945]. Những tín đồ của Chủ nghĩa CS muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa, theo Cờ Giải Phóng, cơ quan ngôn luận vủa Đảng CSĐD, sẽ gia nhập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư ở Đông Dương." Đặng Xuân Khu (Trường Chinh, 1909-1988), đương kim tổng bí thư, làm Tổng thư ký. (1) Việc giải tán Đảng CSĐD này, theo Nguyễn Sinh Côn, nhằm mục đích "hợp tác tinh thành" với các đảng phái khác, hầu thiết lập một chính phủ liên hiệp kháng chiến đầu năm 1946, và bầu cử Quốc Hội, đặt xuống những nền tảng pháp lý. (2) Thực sự, các phe phái Việt Nam đã bị quan tướng Quốc quân Trung Hoa và đại diện Pháp áp lực, khuyến khích ngồi lại với nhau sau khi Tưởng Giới Thạch quyết định nhường quyền kiểm soát phía bắc vĩ tuyến 16 cho Pháp (Hòa ước Trùng Khánh [Chongqing], 28/2/1946) và phụ bản quân sự tháng 4/1946 để tập trung đánh Cộng. Theo vài nhân chứng, kể cả Võ Nguyên Giáp, tức Võ Giáp (1911-2013), Tư lệnh Hà Nội là Chu Phúc Thành cùng Tiêu Văn, cố vấn chính trị, đã từng tạm giữ Côn trọn một ngày để điều tra về vụ ám sát một Pháp kiều. Cuối cùng, Côn được phóng thích, nhưng tài xế và xe bị giữ lại. Một lãnh tụ Việt Cách, từng cầm đầu một phe Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải ngoại ở Côn Minh nhưng đã bí mật ngả theo Cộng Sản từ thập niên 1930, đang vận động tranh cử ở Thái Bình cũng bị gọi về Hà Nội, giam giữ, tra khảo và mớm cung, trút trách nhiệm cho Linov Côn cùng Võ Giáp. Nhờ vậy, đầu năm 1946, một chính phủ liên hiệp ra đời, rồi đến một Quốc Hội mà các phe phái ngầm thỏa thuận về số dân biểu. Phe Việt Cách của Nguyễn Hải Thần, và Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh (tức liên Minh Đại Việt Quốc Dân Đảng trong nước và Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải Ngoại, từ Trung Hoa về, hay từ ngục tù, Côn Đảo ra) được tặng không 70 ghế đại biểu Quốc Hội, và bốn ghế bộ trưởng. Nguyễn Sinh Côn cùng các lãnh tụ đối lập như Vũ Hồng Khanh cũng ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946 và Phụ bản quân sự 3/4/1946, đồng ý cho Pháp thay thế Quốc quân Trung Hoa, đổi lấy điều kiện mông lung như “một quốc gia tự do trong Liên Hiệp Pháp,” được duy trì một quân đội riêng, và Pháp hứa sẽ rút quân khỏi Việt Nam trong năm [5] năm—những điều kiện mà Linh Mục Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu kết tội là vượt qua quyền ủy thác của Đô Đốc, nhưng vì nhu cầu đổ bộ lên miền bắc trước ngày đệ nhất chu niên chiến dịch Meigo (9-14/3/1945), d’Argenlieu tìm đủ cách xé bỏ tạm ước, và hoàn trả Paris Tướng Philippe M Leclerc de Hautecloqie, Raoul Salan, cùng Ủy viên Cộng Hòa Bắc Kỳ Jean Sainteny (Roger). (3) Tháng 9/1946, Nguyễn Sinh Côn cũng mang việc giải tán Đảng CSĐD ra để “đánh lừa” Đại sứ Mỹ ở Paris rằng mình và chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến của VNDCCH không phải là Cộng 2 Sản. Mặc dù an ninh Mỹ chưa tìm ra những bằng chứng cụ thể về liên hệ giữa Nguyễn Sinh Côn cùng Quốc Tế Cộng Sản trong giai đoạn này, (và thực ra Josef Stalin chẳng mấy thiết tha, và tới đầu năm 1950 mới miễn cưỡng cho Mao Trạch Đông [Mao Ze-dong] sử dụng Côn) nhưng ngày 9/9/1946, Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Tổng Lãnh sự Sài Gòn Charles S Reed biết có tin Liên Sô Nga đã chỉ thị Đảng Cộng Sản Pháp gửi cán bộ qua huấn luyện Việt Minh. Ngoài ra, cơ quan tình báo Pháp báo động về sự hiện diện của cán bộ Cộng Sản Trung Hoa tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Hải Phòng, và ngay cả Hà Nội. Trong khi đó, hội nghị Fontainebleau giữa Pháp và VNDCCH ngừng họp từ ngày 9/9/1946. Tình thế căng thẳng đến độ ngay một tuyên cáo chung dự trù công bố ngày 10/9/1946 cũng không đạt được. Bởi vậy, ngày 11/9/1946, Nguyễn Sinh Côn bí mật gặp Đại sứ Mỹ Jefferson Caffery ở Paris để nhờ can thiệp, và ngay tối đó, được Đệ nhất thư ký Tòa Đại sứ là George A Abbott tiếp xúc, tìm hiểu lập trường Côn.(4) Hôm sau, có sự can thiệp của Jefferson hay không, Bộ trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius Moutet quyết định cứu vãn tình hình, tiếp tục đích thân thảo luận bí mật với Nguyễn Sinh Côn (từ tháng 7/1946 theo đề nghị của Côn) rồi đồng ý ký Tạm ước [Modus vivendi] 14/9/1956 cùng Tuyên Cáo Chung. Thực ra, đây chỉ là một phần nước trộn lẫn đất cát cố gắng gạn vét từ một ly nước đổ để lập lại nguyên tắc của Hiệp ước Sơ bộ 6/3/1946, với lời hứa đình chiến tại Nam Bộ từ ngày 30/10/1946, phóng thích tù binh, và sẽ nối lại thương thuyết từ tháng 1/1947. Đáng chú ý là Côn đã nhấn mạnh muốn về nước ngày 14/9, và chiều đó Moutet đã làm phiếu trình chính phủ Georges Bidault về Tạm Ước 14/9/1946. Chẳng hiểu tại sao có tin đồn nửa đêm 14/9 Côn mới chịu chấp nhận điều kiện của Moutet dù Bộ Chính Trị đã yêu cầu Côn đừng nên ký bất cứ thứ gì, và Moutet không muốn đặt lên đĩa bạc ân sủng của nước Pháp, vì chưa thấy cần thiết phải giao trả lại Nam Bộ, và quan tâm đặc biệt đến cái gọi là “bạo lực cách mạng” của Đảng CSĐD. Ngoài ra, một nhóm đại diện các nhà kỹ nghệ và thương gia làm ăn ở Đông Dương cũng bí mật thương thuyết với chuyên viên kinh tế của phái đoàn VNDCCH, nhưng không đạt được kết quả nào. (5) Thái độ ương ngạnh của Linh Mục/Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu, với sự yểm trợ của Tướng Charles de Gaulle, được coi như nỗ lực phá hủy mọi ảo vọng của Nguyễn Sinh Côn. Và, các quan tướng Pháp như Jean Valluy đều hăm hở vén cao tay áo, sửa soạn chiến xa, phi cơ, tàu chiến cùng Nhảy Dù, Lê Dương, Biệt kích chờ đợi đuổi Côn khỏi Bắc Bộ Phủ Hà Nội, lang thang trong rừng núi—giống như Liên quân Bri-tên, Pháp và tù binh Nhật đã đuổi Lâm Ủy Hành Chánh và Kháng Chiến Nam Bộ của nhóm Hoàng Quốc Việt (tức Quận thọt Hà Bá Cang), Trần Văn Giàu, và Phạm Văn Bạch khỏi Sài Gòn trong dịp cuối tuần 22-23/9/1945.