HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MẪN HUYỀN SÂM

HO¹T §éNG CñA MéT Sè §¶NG CéNG S¶N KHU VùC NAM ¸ Tõ N¨M 1991 §ÕN n¨M 2011

Chuyên ngành: Lịch sử Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc Mã số: 62 22 0312

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2016 Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Phan Văn Rân 2. PGS.TS Nguyễn Viết Thảo

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi……giờ……..ngày…….tháng …….. năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài Trong số các nước thuộc địa khu vực Á-Phi-Mỹ Latinh, khu vực Nam Á (trước đây gọi là Tiểu lục địa Ấn Độ) là nơi phong trào cộng sản ra đời tương đối sớm, rộng khắp và có truyền thống đấu tranh bất khuất. Từ khi hình thành vào đầu những năm 1920, phong trào cộng sản tại Nam Á đã trở thành bộ phận mật thiết của phong trào cộng sản quốc tế và có nhiều đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước Nam Á cũng như đấu tranh vì lợi ích của người lao động, vì hoà bình, dân sinh, dân chủ và mục tiêu CNXH. Sau khi phong trào cộng sản quốc tế lâm vào khủng hoảng do sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các đảng cộng sản tại Nam Á mặc dù cũng chịu tác động nặng nề nhưng vẫn bền bỉ đấu tranh đồng thời nhanh chóng khắc phục tình trạng hoang mang, lúng túng ban đầu, tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đảng, đã trở thành lực lượng quan trọng trên chính trường các nước. Trong đó, một số đảng tại Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka còn vươn lên nắm quyền hoặc tham gia chính phủ liên minh. Đây là những kinh nghiệm quý cho các đảng cộng sản khác đang hoạt động tại những nước có chế độ chính trị tương đồng. Mặc dù vậy, nghiên cứu về phong trào cộng sản quốc tế tại Việt Nam cũng như trên thế giới vẫn là mảng trống và chưa được nghiên cứu sâu. Đối với Việt Nam cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam, các đảng cộng sản tại Nam Á có tình cảm và mối quan hệ rất đặc biệt thể hiện qua sự ủng hộ to lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc Đổi mới của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên trong phong trào cộng sản quốc tế. Việc nghiên cứu cũng như củng cố, tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, bao gồm cả các đảng cộng sản tại Nam Á cần được quan tâm và coi trọng. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ đó càng trở nên đặc biệt quan trọng, nhằm trả lời các câu hỏi câu hỏi liệu phong trào cộng sản quốc tế còn sức sống và động lực phát triển không? thời đại ngày nay có còn là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH hay không?

2 và có thể rút ra những kinh nghiệm gì từ hoạt động thực tiễn của các đảng để đưa phong trào cộng sản quốc tế thoát khỏi khủng hoảng? Vì những lý do trên, việc nghiên cứu hoạt động của các đảng cộng sản tại khu vực Nam Á từ sau năm 1991 nhằm đánh giá đúng thực trạng của các đảng tại khu vực này, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần lưu ý trong hoạt động của các đảng cộng sản cũng như đưa ra giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản trong khu vực là rất cần thiết hiện nay. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động của một số đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011” làm Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1 Mục đích nghiên cứu của luận án Mục đích chính của Luận án là phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho các đảng cộng sản và kiến nghị một số biện pháp tăng cường phối hợp giữa Đảng CSVN với các đảng này. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Trình bày quan niệm về hoạt động của các đảng cộng sản. - Nêu và phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991. - Phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011. - Rút ra một số kinh nghiệm cho hoạt động của các đảng cộng sản. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ giữa Đảng CSVN với các đảng cộng sản Nam Á. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của Luận án là hoạt động của một số đảng cộng sản tại khu vực Nam Á.

3

Bên cạnh đó, Luận án cũng đề cập và xem xét tình hình thế giới, khu vực Nam Á và phong trào cộng sản quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản tại Nam Á. 3.2 Phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng nghiên cứu: Năm đảng cộng sản tại 4 nước Nam Á: Đảng Cộng sản Ấn Độ, Đảng Cộng sản Ấn Độ Mác-xít, Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất, Đảng Cộng sản Sri Lanka và Đảng Cộng sản Bangladesh. - Về không gian: Khu vực Nam Á, trong đó tập trung chủ yếu vào 4 nước (Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka và Bangladesh) có các đảng cộng sản hoạt động. - Về thời gian: Từ năm 1991-2011. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1 Cơ sở lý luận của Luận án: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các chủ trương, chính sách nêu trong cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết của các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện theo cách tiếp cận chuyên ngành lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc và dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử-logic, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học xã hội và nhân văn như: phương pháp hệ thống, phương pháp tiếp cận thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thu thập xử lý tài liệu, tư liệu... 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án - Về mặt khoa học: Trên cơ sở phân tích toàn diện và có hệ thống những hoạt động chủ yếu của các đảng cộng sản tiêu biểu ở Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011, đặc biệt luận giải những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó, Luận án khẳng định các đảng cộng sản tại Nam Á tuy chưa hoàn toàn thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn còn sức sống và triển vọng phát triển, thể hiện ở việc các đảng đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và đang từng bước phục

4 hồi, thậm chí có những bước tiến mới. Qua đó, kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ đánh giá, nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam rằng sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những bước hồi phục. - Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở những thành công, thất bại trong hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á, Luận án rút ra một số kinh nghiệm cần lưu ý đối với các đảng cộng sản khác trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đồng thời, sau khi phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong quan hệ giữa Đảng CSVN với các đảng cộng sản tại Nam Á đến năm 2011, Luận án đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Đảng CSVN với các đảng cộng sản Nam Á trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về phong trào cộng sản và quan hệ quốc tế liên quan đến khu vực Nam Á tại các cơ quan, trung tâm nghiên cứu, học viện và nhà trường. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục chữ viết tắt, tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án được kết cấu thành 04 chương.

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài tập trung vào ba nhóm, chiếm đa số là các công trình về nghiên cứu chung về khu vực Nam Á và phong trào cộng sản quốc tế: Thứ nhất, nghiên cứu chung về khu vực Nam Á, bao gồm các đề tài nghiên cứu của các Bộ/Ban, sách tham khảo của Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á và tài liệu tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam... như Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2002), Quan hệ Ấn Độ-Pakistan và tác động đến an ninh khu vực Nam Á; Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003), Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Nam Á từ năm 1945 đến năm 2003; Đề tài cấp Bộ của Ban Đối ngoại Trung ương (2006),

5

Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ trong giai đoạn mới; Bộ Ngoại giao (2011), Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội; Đỗ Đức Định (1999), “50 năm kinh tế Ấn Độ”, Nxb Thế giới, Hà Nội; Ngân hàng Thế giới (2010), Kinh tế Nam Á năm 2010: Tiến lên, Hướng Đông; J.S Uberoi (2011), Ấn Độ mãi mãi huy hoàng, Nxb Media Transasia India Limited (bản dịch của Nhà xuất bản Thế giới); Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ và vấn đề an ninh châu Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 29/6; Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ, cường quốc đang lên”, Tài liệu tham khảo, (3)... Thứ hai, trong nghiên cứu, đánh giá chung về phong trào cộng sản quốc tế của một số nhà nghiên cứu của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh như Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn Ban Đối ngoại Trung ương (2004) “Tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới”, Nguyễn Thị Quế (2005), “Phong trào cộng sản ở một số nước liên minh Châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nxb Lý luận Chính trị, Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên (2006), Sự phối hợp hoạt động của các Đảng cộng sản và cánh tả trên thế giới hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, Đề tài cấp Bộ do Nguyễn Mạnh Hùng chủ nhiệm (2012), “Sự tham gia của Đảng ta tại các diễn đàn đa phương chính đảng: Thực trạng và phương hướng trong thời gian tới” mã số KHBĐ(2011)-27, PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp và PGS.TS Nguyễn Thị Quế (đồng chủ biên) (2014), Phong trào cộng sản quốc tế hiện nay và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Thị Quế (2004), “Phong trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển trước các vấn đề lý luận chính trị đặt ra trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2004; Vũ Văn Hoà (2006), “Diễn đàn Aten: hình thức hoạt động chung của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 108, 2006; Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Thị Quế (2007), “Phong trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 11/2007; Thái Văn Long (2007), “Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Tạp chí Cộng sản, số 10/2007; Nguyễn Mạnh Hùng (2006), “Tình hình

6 phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2006... Thứ ba, hoạt động của một số đảng cộng sản tiêu biểu tại Nam Á như Đảng CPI và CPI-M (Ấn Độ) đăng trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng, đại sử ký và các báo cáo về đại hội các đảng của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng từ năm 1991 đến năm 2011 như Trịnh Thị Hoa (2004), “Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)”, Tạp chí Xây dựng Đảng; Lê Gia Kiên (2009), “Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Ấn Độ - Mác-xít: Quá khứ và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số 795; Nguyễn Trọng Kiên (2013) “Phong trào cộng sản, cánh tả tại Ấn Độ: Tình hình và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số 851... 1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài cũng bao gồm 2 nhóm: Thứ nhất, lịch sử của các đảng như Harkishan Singh Surjeet (1993), An Outline History of the Communist Movement in India, National Book Center, New Delhi, Harkishan Singh Surjeet (1998), March of the Communist Movement in India, National Book Agency Private Limited, Calcutta, India, International Department of the CPSL (1995), History of Communist Party of Sri Lanka, CPN-UML (2000), People’s Multi Party Democracy: Policy Papers, Madan-Ashrit Memorial Foundation, Nepal; International Department of Communist Party of Bangladesh (2003), A brief introduction to the Communist Party of Bangladesh, Party Publication; A.B.Bardhan (2000), 75 years: This is the CPI, CPI Publication, New Delhi; A.B.Bardhan (2005), 80 years of CPI, CPI Publication, New Delhi; (Marxist) (2007), Thirty Years of the Left Front Government in West Bengal 1997-2007, Progressive Printers, West Bengal; Anil Rajimwal (2012), History of Communist Party of India through Congresses, People’s Publishing House PVT.LTD; International Department of the CPN-UML (2009), History of Communist Party of Nepal (Unified Marxist Leninist, Party Publication; D.J.Sagar (2009), Political Parties of the world: 7th Edition, John Harper Publishing...

7

Thứ hai, quan điểm, đường lối và chính sách của các đảng như Communist Party of India (Marxist) (1993), Contemproray world situation and validity of Marxism, CPI(M) Publication; School for Social Scientists (1999), The Emerging mutation in the socialist world, Chitturpu – 521 132, Krishna District, Andhra Pradesh, India; CPN-UML (2000), Proceedings of International Conference on socialism in the 21st century, Madan-Ashit Memorial Foundation, Kathmandu; (2008), Socialism in a changing world, Book House, Andhra Pradesh, India; A.B Bardhan (2002), Crisis of Corporate Capitalism, People’s Publishing House; tham luận của đồng chí Madhav Kumar, nguyên Thủ tướng Nepal, nguyên Tổng Bí thư Đảng CPN-UML tại Hội thảo “Challenges and Opportunities for the Left Movement in South Asia” do Đảng CPSL tổ chức; các bài tham luận của các đảng tại Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản, công nhân (IMCWP) từ năm 1998 đến năm 2011 và thông tin mà các đảng cộng sản Nam Á đưa trên website Solidnet (www.solidnet.org). 1.3 Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết - Đưa ra quan niệm về hoạt động của các đảng cộng sản nhằm tạo cơ sở cho việc phân tích và đánh giá hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á. - Phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến 2011. - Phân tích và đánh giá nội dung hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á, thông qua hoạt động cụ thể của 5 đảng cộng sản tiêu biểu, gồm Đảng Cộng sản Ấn Độ, Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít), Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất, Đảng Cộng sản Sri Lanka và Đảng Cộng sản Bangladesh. - Rút ra một số kinh nghiệm từ hoạt động của các đảng. - Khái quát và đánh giá quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ khi thành lập đến năm 2011 và đề xuất với Đảng CSVN một số giải pháp nhằm tăng cường quan hệ với các đảng.

8

Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011 2.1. Quan niệm về hoạt động của đảng cộng sản “Hoạt động” hiểu theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những hành vi, hành động của cơ thể sống, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển. “Hoạt động của đảng cộng sản” là tổng hòa các hành vi, hành động cách mạng của các tổ chức Đảng và đảng viên, tiến hành xây dựng và thực hiện cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng và các nhiệm vụ cách mạng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phấn đấu vì thắng lợi của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử, góp phần vào cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hoạt động của các đảng cộng sản tập trung chủ yếu vào hoạt động xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức; hoạt động thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của đảng; hoạt động đấu tranh tập hợp lực lượng thông qua tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị-xã hội của đảng, phối hợp đấu tranh với các lực lượng chính trị-xã hội khác; và hoạt động đối ngoại, chủ yếu phối hợp trong phong trào cộng sản quốc tế. Tuy vậy, trong từng giai đoạn nhất định, một số hoạt động có thể được chú trọng hơn, tùy thuộc vào bối cảnh thế giới, khu vực, đất nước và tình hình mỗi đảng. Trong giai đoạn chưa nắm quyền, nội dung hoạt động của các đảng tập trung vào công tác lý luận, tập hợp lực lượng và đấu tranh chính trị, kinh tế nhằm mở rộng ảnh hưởng của Đảng. Kể từ sau Chiến tranh lạnh, hầu hết các đảng cộng sản tại các nước tư sản hiện nay đều sử dụng con đường nghị viện kết hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế để tiến tới giành chính quyền. Khi nắm chính quyền, hoạt động của Đảng cộng sản phải chú trọng vào công tác xây dựng Đảng, nhất là về chính trị-tư tưởng và triển khai nhiệm vụ cách mạng trên thực tiễn nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng và từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất.

9

2.2. Một số nhân tố tác động 2.2.1. Kết quả hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á trước năm 1991 Kể từ khi ra đời đầu những năm 1920 cho đến năm 1991, phong trào cộng sản tại Nam Á luôn thể hiện truyền thống đấu tranh lâu đời và tinh thần cách mạng kiên trung. Tuy nhiên, cơ sở chính trị, ảnh hưởng của các đảng còn hạn chế; nội bộ phong trào bị chia rẽ do bị tác động từ mâu thuẫn trong phong trào cộng sản quốc tế những năm 1960-1970 và chịu ảnh hưởng bởi những đặc điểm tiêu cực cố hữu của khu vực Nam Á như cục bộ địa phương, bất đồng tôn giáo, sắc tộc... Những ưu điểm và hạn chế này khiến phong trào cộng sản tại khu vực tuy vẫn duy trì nhưng khó có những bước phát triển đột phá. 2.2.2 Bối cảnh thế giới Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu đã làm thay đổi hoàn toàn trật tự thế giới cũng như cán cân lực lượng quốc tế. Cục diện thế giới đa cực đang định hình ngày càng rõ. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão thúc đẩy toàn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh tế, tăng tính phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế cũng như thúc đẩy chính sách mở cửa, hội nhập để phát triển kinh tế của các quốc gia. Nguy cơ chiến tranh tạm thời bị đẩy lùi do các quốc gia đều cần môi trường hòa bình để phát triển kinh tế nhưng các cuộc xung đột cục bộ, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, các vấn đề an ninh phi truyền thống... có xu hướng gia tăng. Những đặc điểm mới của tình hình thế giới Chiến tranh lạnh tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á theo chiều hướng bất lợi, nhiều thách thức và khó khăn hơn.

2.2.3. Tình hình phong trào cộng sản quốc tế và tương quan lực lượng giữa CNXH với CNTB Liên Xô tan rã và chế độ XHCN ở Đông Âu sụp đổ đã khiến CNXH trên thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cán cân lực lượng trên trường quốc tế nghiêng về phía có lợi cho CNTB. Mặc dù vậy, xu thế quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH vẫn là xu thế lớn, được khẳng định qua sự tiếp tục tồn tại, đổi mới và phát triển của CNXH hiện thực, quá trình phục hồi của phong trào cộng sản quốc tế và sự vận

10

động trong lòng CNTB với những mâu thuẫn cùng những khuyết tật, tệ nạn không thể khắc phục.

Thực trạng phong trào cộng sản quốc tế vừa đặt ra thách thức nhưng cũng tạo không ít cơ hội cho các đảng cộng sản tại Nam Á. Thách thức lớn nhất là các đảng rơi vào khủng hoảng, mất phương hướng, mất chỗ dựa về tinh thần lẫn vật chất, gián đoạn quan hệ với các đảng cộng sản khác, bị các thế lực đế quốc và phản động đẩy mạnh chống cộng điên cuồng nhất. Mặt thuận lợi là buộc các đảng cộng sản phải nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH, tăng tính độc lập, tự chủ trong việc nghiên cứu, tìm tòi con đường xây dựng CNXH phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước mình; đổi mới các hình thức phối hợp hoạt động. Ngoài ra, được sự cổ vũ lớn lao từ các nước XHCN còn lại, đặc biệt, những thành tựu của Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng CNXH.

2.2.4. Tình hình khu vực Nam Á

Về đặc điểm chính trị, văn hóa- xã hội: Hầu hết các quốc gia Nam Á hiện nay nằm trong Tiểu lục địa Ấn Độ, có lịch sử phát triển hàng nghìn năm. Hiện nay, hầu hết các nước đều theo chế độ dân chủ đại nghị, đa nguyên đa đảng và mô hình nhà nước tư sản, trong đó, các đảng tư sản có vai trò và vị thế rất mạnh. Nơi đây cũng là một trong những cái nôi văn minh loài người (nền văn minh sông Ấn, sông Hằng) và có sự đa dạng về sắc tộc và tôn giáo với hơn 2.000 sắc tộc và ba tôn giáo lớn (Ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo). Tuy nhiên, Nam Á là nơi tồn tại hàng loạt vấn đề cố hữu dai dẳng như mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, nạn phân biệt đẳng cấp, chủ nghĩa bè phái, cục bộ địa phương, xu hướng ly khai và tranh chấp giữa các quốc gia.

Về tình hình khu vực sau Chiến tranh lạnh: Tình hình khu vực Nam Á cơ bản vẫn giữ được ổn định và phát triển tương đối với việc Ấn Độ nổi lên thành cường quốc khu vực và gia tăng vai trò trên trường quốc tế, xu hướng dân chủ hóa ngày càng được mở rộng, hợp tác nội khối được củng cố và kinh tế dần cải thiện với tốc độ tăng trưởng khá, nhưng tranh giành quyền lực nội bộ, bạo lực, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố có liên quan đến Hồi giáo cực đoan vẫn tiếp tục xảy ra tại

11 nhiều nước, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc rất gay gắt, kinh tế khu vực kém phát triển, tình trạng nghèo đói, mù chữ, tăng dân số... vẫn rất nghiêm trọng.

Những đặc điểm phức tạp của tình hình khu vực Nam Á tác động hai mặt nhưng mặt tiêu cực nhiều hơn đến hoạt động của các đảng cộng sản. Trong số đó đáng chú ý là sự cạnh tranh khốc liệt trên chính trường của các đảng tư sản, ảnh hưởng của những vấn đề cố hữu của khu vực đến tư tưởng, nhận thức của không ít đảng viên và thống nhất trong phong trào và sự cấu kết giữa lực lượng đế quốc phản động với giai cấp tư sản nhằm thu hẹp và xóa bỏ ảnh hưởng của các đảng cộng sản, cánh tả.

Tuy vậy, sự tương đồng về mặt văn hóa, lịch sử, dân tộc, thể chế chính trị… giữa các nước khu vực và đặc biệt, trong bối cảnh xu hướng hợp tác nội khối được đẩy mạnh là điều kiện thuận lợi để các đảng dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm hoạt động; Tiến trình dân chủ hóa diễn ra mạnh mẽ tại nhiều nước giúp các đảng cộng sản hoạt động công khai. Ngoài ra, sự tồn tại của các vấn đề cố hữu của khu vực như nghèo đói, thất nghiệp, mù chữ, các tư tưởng phản động, cực đoan… xét ở một góc cạnh là môi trường rộng lớn cho các đảng để tập hợp lực lượng, từ đó vừa thể hiện vai trò, nâng cao vị thế của mình đồng thời đấu tranh bảo vệ quyền lợi của người dân lao động, nhất là những người nghèo.

Chương 3 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG CỘNG SẢN KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011

3.1. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1999

3.1.1. Nội dung hoạt động của các đảng

Là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản tại Nam Á cũng chịu tác động bất lợi từ sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu. Hầu hết các đảng cộng sản trong khu vực lúng túng và mất định hướng về

12

đường lối, quan điểm, bị tan rã và phân liệt, sụt giảm Đảng viên và thu hẹp cơ sở hoạt động.

Xuất phát từ tình hình trên, trong thập niên 1990, hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á chủ yếu tập trung vào củng cố nội bộ nhằm giữ vững lực lượng và duy trì hoạt động.

Trước hết, các đảng chú trọng phân tích, đánh giá nguyên nhân và rút bài học kinh nghiệm từ những chấn động tại Liên Xô và Đông Âu để tìm ra con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh phê bình, tự phê bình trong nội bộ Đảng.

Thứ hai, các đảng ngày càng quan tâm đoàn kết với các lực lượng cộng sản, cánh tả trong nước nhằm tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh cạnh tranh trên chính trường.

Thứ ba, các đảng cộng sản Nam Á duy trì các hoạt động đấu tranh trong và ngoài nghị trường cũng như giữ mối liên hệ với phong trào cộng sản quốc tế. Trong hoạt động đấu tranh ngoài nghị trường, các đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ nền dân chủ, quyền dân sinh và tiến bộ xã hội. Trong hoạt động đấu tranh nghị trường, dù thế và lực hạn chế nhưng các đảng vẫn nỗ lực tham gia các cuộc bầu cử tại trung ương và địa phương và bước đầu đã đạt được một số kết quả tích cực.

Trong việc duy trì liên hệ với phong trào cộng sản quốc tế, do tình hình các đảng khó khăn và điều kiện tài chính eo hẹp, nên sự phối hợp hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á giai đoạn này còn hạn chế và chưa phong phú, chủ yếu trao đổi đoàn song phương, tổ chức một số hội thảo đa phương và tổ chức các hoạt động bày tỏ tình đoàn kết quốc tế với Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, Palestine…

3.1.2. Đánh giá kết quả hoạt động

3.1.2.1. Thành tựu:

Trước hết, các đảng đã tìm ra nguyên nhân, rút ra các bài học kinh nghiệm từ sự kiện trên, xác định con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước.

13

Trong đó, tiếp tục khẳng định niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lê-nin và con đường đi lên CNXH; cho rằng thời đại ngày nay vẫn trong giai đoạn quá độ lên CNXH, nhưng con đường đi lên CNXH sẽ lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều giai đoạn; thừa nhận mỗi đảng phải vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lê-nin để xây dựng mô hình CNXH phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể tại mỗi nước.

Thứ hai, các đảng nhận thức ngày càng rõ tầm quan trọng của việc xây dựng mặt trận thống nhất của các đảng cộng sản và cánh tả, đồng thời linh hoạt hơn trong tập hợp lực lượng.

Thứ ba, trên cơ sở đó, các đảng đã củng cố lực lượng, tiếp tục các hoạt động đấu tranh nghị trường và ngoài nghị trường, khôi phục quan hệ với các đảng cộng sản trên thế giới đồng thời có những đóng góp nhất định đối với phong trào cộng sản quốc tế.

3.1.2.2. Hạn chế:

Tuy đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng không thể không thừa nhận rằng giai đoạn này là giai đoạn khó khăn, nhiều thử thách nhất đối với các đảng cộng sản tại Nam Á. Hoạt động của các đảng chủ yếu chủ yếu nhằm cầm cự và củng cố lực lượng. Vì vậy, dù đã nỗ lực hết sức nhưng hoạt động của các đảng vẫn còn nhiều hạn chế.

Trước hết, mặc dù các đảng đã nhận thức phải tự xây dựng con đường và mô hình XHCN phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện riêng của mỗi đảng, mỗi nước nhưng mô hình cụ thể và biện pháp, sách lược triển khai vẫn trong quá trình mò mẫm tìm tòi.

Thứ hai, vấn đề mở rộng ảnh hưởng của của các đảng, nhất là trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX rất khó khăn; cán cân lực lượng vẫn bất lợi so với các chính đảng khác trên chính trường và vị thế trong Quốc hội các nước thấp do số ghế ít.

Thứ ba, nội bộ phong trào cộng sản mỗi nước vẫn bất đồng, chia rẽ.

14

Thứ tư, cũng giống như nhiều đảng cộng sản khác trên thế giới, do tình hình khó khăn và phải tập trung vào nội bộ, sự phối hợp hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á với phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn khiêm tốn.

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên là tác động nặng nề từ sự khủng hoảng phong trào cộng sản quốc tế, nghiêm trọng nhất làm mất định hướng và niềm tin, tiếp theo đó là mất chỗ dựa về vật chất của những đảng này; kết hợp với những yếu kém mang tính kinh niên, chưa thể khắc phục được của bản thân các đảng cộng sản Nam Á như sự chia rẽ trong nội bộ phong trào, chủ nghĩa cục bộ, địa phương và những tồn tại, yếu kém trong công tác xây dựng đảng...

3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011

3.2.1. Nội dung hoạt động của các đảng

Thứ nhất, nhờ những kết quả tích cực từ giai đoạn những năm 1990, cũng như trong bối cảnh phục hồi chung của phong trào cộng sản quốc tế, trong thập niên đầu thế kỷ XXI, các đảng đặc biệt chú trọng hoạt động đấu tranh nghị trường, đồng thời kết hợp đấu tranh ngoài nghị trường nhằm tạo ra sự thay thế chính quyền tư sản, bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động vì hòa bình, dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội.

Hai đảng cộng sản Ấn Độ (CPI và CPI-M) điều chỉnh sách lược trong vấn đề liên minh với Đảng Quốc Đại, phối hợp chặt chẽ và hợp tác thực chất với nhau, tiến hành nhiều chiến dịch và các cuộc vận động quần chúng. Đảng CPN-UML tại Nepal tái thống nhất, lãnh đạo phong trào quần chúng lật đổ chế độ quân chủ lập hiến, thúc đẩy soạn thảo hiến pháp. Đảng CPSL tại Sri Lanka tiếp tục tăng cường thống nhất các đảng cộng sản, cánh tả, thực hiện sách lược liên minh với Đảng Tự do Sri Lanka nhằm lật đổ Đảng Dân tộc Thống nhất khỏi vị trí cầm quyền, đồng thời tham gia tìm giải pháp cho vấn đề người Tamil nhằm chấm dứt nội chiến. Đảng Cộng sản Bangladesh dùng đấu tranh ngoài nghị trường nhằm tạo ra sự chuyển hoá dân chủ về xã hội.

15

Thứ hai, các đảng cộng sản mở rộng quan hệ và tăng cường phối hợp hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, nhất là tham gia ngày càng nhiều vào các cơ chế đa phương của các đảng cộng sản, cánh tả và chính đảng khác trên thế giới như Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân, Hội nghị các chính đảng châu Á (ICAPP), tổ chức hội thảo quốc tế ("Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI" của Đảng CPN-UML), cử/đón đoàn dự đại hội...

Thứ ba, các đảng tiếp tục các hoạt động củng cố, xây dựng Đảng mạnh về chính trị-tư tưởng, tổ chức và vận động quần chúng.

3.2.2. Đánh giá kết quả hoạt động

3.2.2.1. Thành tựu

Thứ nhất, hoạt động của các đảng cộng sản tại Nam Á trong thập niên đầu thế kỷ XXI đã đạt được những kết quả to lớn, thậm chí mang tính lịch sử trong việc giành phiếu bầu của cử tri, thu hút sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân trong các chiến dịch và gia tăng lực lượng. Đặc biệt, Mặt trận cánh tả tại Ấn Độ giành nhiều số ghế Quốc hội và nắm quyền tại nhiều bang nhất trong lịch sử; Đảng CPN-UML là đảng cộng sản duy nhất tại khu vực Nam Á nhiều lần lên nắm quyền.

Thứ hai, nội bộ phong trào cộng sản các nước, nhất là Ấn Độ và Nepal trở nên đoàn kết và phối hợp hiệu quả.

Thứ ba, đóng góp trong việc phục hồi hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế thông qua những thành quả trong hoạt động đấu tranh của mỗi đảng và sự ủng hộ và tích cực tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương của phong trào cộng sản khu vực và quốc tế.

Nguyên nhân của những thành tựu trên:

Về khách quan: do cùng chung xu hướng phục hồi hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế và được truyền cảm hứng từ thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của các nước XHCN, nhất là Trung Quốc, Việt Nam.

16

Về chủ quan, nền tảng chính trị vững vàng hơn từ kết quả hoạt động của giai đoạn trước; sách lược đúng đắn trong một số giai đoạn; sự đoàn kết trong nội bộ phong trào; và đóng góp tích cực của cá nhân lãnh đạo một số đảng.

3.2.2.2. Hạn chế

Thứ nhất, dù đã có những bước phục hồi mạnh mẽ, nhưng kết quả hoạt động của các đảng vẫn bấp bênh và thiếu vững chắc.

Thứ hai, sự phối hợp hoạt động giữa các đảng cộng sản và cánh tả tuy chặt chẽ hơn nhưng chưa ổn định. Trong nước, việc thiết lập một mặt trận thống nhất tại mỗi nước khó triển khai do không giải quyết được những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ phong trào cộng sản, cánh tả. Ở cấp độ khu vực, các đảng vẫn chưa thành lập được một cơ chế phối hợp ổn định, chủ yếu thông qua cơ chế trao đổi thông tin và gặp gỡ song phương.

Nguyên nhân: Về khách quan: Tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, trong đó sự can dự mạnh mẽ của Mỹ tại khu vực góp phần tăng cường sự cấu kết giữa lực lượng đế quốc phản động với giai cấp tư sản và các lực lượng tôn giáo cực đoan nhằm thu hẹp và xóa bỏ ảnh hưởng của các đảng cộng sản, cánh tả.

Về chủ quan: Nhiều đảng còn lại vẫn lúng túng trong việc lựa chọn biện pháp đấu tranh phù hợp, thiếu thống nhất trong đánh giá về một số vấn đề quan trọng, nhất là về tình hình nội trị, bản chất, xu hướng chính trị của các lực lượng chính trị trong nước. Ngoài ra, một số yếu kém, khuyết điểm kinh niên vẫn tiếp tục tồn tại.

Nhận xét, đánh giá chung:

Trong 2 thập niên hoạt động từ sau hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, xét về tổng thể, các đảng tuy chưa hoàn toàn ra khỏi khủng hoảng sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông Âu nhưng đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và đang trong quá trình phục hồi.

Một số thành tựu cơ bản mà các đảng đạt được là:

17

Thứ nhất, đã rút ra những kinh nghiệm từ sự sụp đổ hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, điều chỉnh chiến lược và tích cực tìm con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước;

Thứ hai, củng cố lực lượng và từng bước phục hồi hoạt động trong đấu tranh nghị trường lẫn ngoài nghị trường;

Thứ ba, nỗ lực hạn chế bất đồng, tăng cường phối hợp hoạt động giữa các đảng cộng sản, công nhân và cánh tả trong nước nhằm tạo mặt trận dân tộc thống nhất;

Thứ tư, luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ công cuộc bảo vệ độc lập.

Nguyên nhân: i) tinh thần cách mạng đầy nhiệt huyết, kiên cường và trung thành với lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê nin; ii) sự tôi luyện qua nhiều giai đoạn khó khăn, gian khổ; iii) sự lựa chọn sách lược và biện pháp đấu tranh đúng đắn và phù hợp trong một số giai đoạn nhất định.

Tuy vậy, quá trình phục hồi của các đảng gập ghềnh và không đồng đều cũng như còn nhiều thách thức ở phía trước. Nổi bật trong số đó là:

Thứ nhất, vẫn lúng túng trong việc tìm ra hình thức, phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn mới;

Thứ hai, công tác xây dựng Đảng trên các lĩnh vực còn yếu kém, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, tổ chức;

Thứ ba, sự phối hợp hoạt động giữa các đảng trong phong trào cộng sản trong nước còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả và vẫn bị chia rẽ, bất đồng;

Thứ tư, trong đấu tranh nghị trường, thế và lực của hầu hết các đảng tuy đã được cải thiện nhưng còn yếu;

Thứ năm, quan hệ đối ngoại chưa đa dạng cả về nội dung và hình thức.

Nguyên nhân: Về khách quan: i) Tác động bất lợi từ sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; ii) yêu cầu và thách thức mới từ đặc điểm, xu thế mới của tình hình thế giới; iii) sự phức tạp của tình hình chính trị-an ninh khu vực Nam

18

Á; iv) sự chống phá của các thế lực tư sản phản động, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, cộng đồng; v) sự phân tán, yếu kém của giai cấp công nhân ở hầu hết các nước Nam Á.

Về chủ quan: i) chưa thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới; ii) chưa khắc phục được những yếu kém, khuyết điểm trong hoạt động từ giai đoạn trước; iii) thiếu ngọn cờ lãnh đạo trong bản thân phong trào cộng sản mỗi nước cũng như ở cả khu vực; iv) phải tập trung đối phó với tình hình ở nước mình kết hợp với khó khăn về điều kiện tài chính, cơ sở vật chất. Triển vọng của các đảng phụ thuộc vào quá trình đổi mới cả về lý luận, đường lối chính trị, tổ chức lẫn nội dung, hình thức đấu tranh và phối hợp hoạt động phong trào cộng sản, công nhân, cánh tả trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Chương 4

MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN NAM Á VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN NAM Á

4.1. Một số kinh nghiệm

4.1.1. Củng cố đoàn kết, thống nhất trong đảng và trong phong trào cộng sản mỗi nước

4.1.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

4.1.3. Đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; đổi mới nội dung và kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức đấu tranh

4.1.4. Phát huy sức mạnh tổng hợp từ quần chúng nhân dân và các lực lượng chính trị-xã hội

4.1.5. Tăng cường phối hợp hoạt động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các chính đảng tiến bộ, có ảnh hưởng và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng trong khu vực và trên thế giới.

19

4.2. Một số giải pháp tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản Nam Á thời gian tới

4.2.1. Thực trạng quan hệ

Giai đoạn trước năm 1991: Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng CSVN) và các đảng cộng sản Nam Á có mối quan hệ truyền thống, lâu đời. Người đặt nền móng và vun đắp mối quan hệ giữa Đảng CSVN với phong trào cộng sản Nam Á là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi có các cuộc gặp trực tiếp đầu tiên với lãnh đạo Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Sri Lanka vào năm 1946. Trong các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các đảng cộng sản Nam Á có nhiều hành động thiết thực thể hiện sự ủng hộ, đoàn kết mạnh mẽ đối với cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của nhân dân và Đảng CSVN. Khi Việt Nam gặp khó khăn do vừa bị bao vây, cấm vận lại vừa phải tiến hành hai cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc ở biên giới phía Bắc và Tây Nam, các đảng cộng sản Nam Á vẫn là những người bạn luôn sát cánh ủng hộ Việt Nam. Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980, Đảng CSVN lần lượt thiết lập quan hệ chính thức với các đảng cộng sản Nam Á và trao đổi đoàn song phương.

Giai đoạn từ 1991 đến năm 1999: Trong bối cảnh phong trào cộng sản quốc tế lâm vào khủng hoảng sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, các đảng cộng sản Nam Á tập trung củng cố nội bộ và Đảng CSVN đang nỗ lực phá thế bao vây cấm vận, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động hợp tác giữa hai bên chưa phong phú, chủ yếu nhằm duy trì và giữ cầu quan hệ.

Giai đoạn thập niên đầu thế kỷ XXI: Trong bối cảnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam đạt được những kết quả tích cực, giúp nâng cao thế, lực cũng như uy tín trên trường quốc tế; về phía các đảng cộng sản tại Nam Á vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, từng bước hồi phục hoạt động, quan hệ giữa hai bên bước sang một thời kỳ mới cả về hình thức cũng như nội dung của mối quan hệ. Các hình thức hợp tác chính: mời/cử đoàn và gửi điện mừng đại hội và các sự kiện quan trọng của mỗi Đảng; trao đổi đoàn song phương; phối hợp tại các diễn đàn đa phương chính đảng. Nội dung trao đổi phong phú hơn, từ việc trao đổi đánh giá về

20 thực trạng phong trào cộng sản, tình hình mỗi nước, khu vực, thế giới đến các vấn đề xây dựng đảng, những vấn đề lý luận về con đường đi lên CNXH.

4.2.2. Đánh giá kết quả hợp tác

Hai bên luôn duy trì tình đoàn kết, hữu nghị, thắm tình đồng chí anh em, qua đó không chỉ góp phần củng cố phong trào cộng sản quốc tế mà còn đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Tuy nhiên, quan hệ còn mang tính hình thức, chưa thực chất và nhận thức chưa đầy đủ về công cuộc cách mạng của mỗi bên.

Nguyên nhân của những hạn chế này trước hết cũng là hạn chế, khó khăn chung trong quan hệ giữa các đảng cộng sản trên thế giới do phong trào cộng sản quốc tế vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng, thiếu ngọn cờ lãnh đạo để tập hợp, hỗ trợ và đề ra đường lối đấu tranh thống nhất. Thứ hai, do khó khăn tài chính. Thứ ba, sự khác biệt về vị thế trên chính trường và chế độ chính trị của mỗi nước thu hẹp không gian cho nội dung trao đổi.

4.2.3. Một số giải pháp tăng cường quan hệ

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tính cấp thiết của việc tăng cường quan hệ, đó là nhằm: đảm bảo lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ lợi ích giai cấp; đảm bảo lợi ích chung của nhân loại; giữ gìn truyền thống thủy chung, “uống nước nhớ nguồn” của Đảng CSVN trong quan hệ với anh em, bạn bè quốc tế.

Thứ hai, nắm vững mục đích và yêu cầu trong tăng cường quan hệ: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với CNXH, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân và dựa trên các nguyên tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng nhau thúc đẩy hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội.

Thứ ba, đa dạng các hình thức quan hệ và phối hợp như trao đổi đoàn, có các hình thức hỗ trợ thích hợp, thường xuyên tiếp xúc và phối hợp quan điểm, hoạt động...

21

Thứ tư, làm phong phú hơn nội dung hợp tác: Tập trung trao đổi thông tin về tình hình Đảng và tình hình mỗi nước; chia sẻ kinh nghiệm xây dựng đảng; trao đổi lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH cũng như những vấn đề mới nổi lên trong đời sống chính trị khu vực và quốc tế; thảo luận các biện pháp thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các nước Nam Á...

Thứ năm, phát huy tính đặc thù trong quan hệ với từng đảng

KẾT LUẬN

Sau Chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có những chuyển biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, đan xen lẫn nhau và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, đáng chú ý là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa; cục diện thế giới ngày càng định hình theo hướng đa cực; hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng bố... còn xảy ra ở nhiều nơi, với tính chất phức tạp ngày càng tăng; các vấn đề toàn cầu trở nên nghiêm trọng và cấp bách, ảnh hưởng đến vận mệnh loài người, đòi hỏi sự hợp tác để giải quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc. Chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, tuy nhiên thời đại ngày nay vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tại Nam Á, tình hình tuy về cơ bản vẫn giữ được ổn định và phát triển tương đối nhưng tranh giành quyền lực nội bộ, bạo lực, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố có liên quan đến Hồi giáo cực đoan vẫn tiếp tục xảy ra tại nhiều nước, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc rất gay gắt, kinh tế khu vực kém phát triển, tình trạng nghèo đói, mù chữ, tăng dân số... vẫn rất nghiêm trọng.

Những đặc điểm mới của tình hình thế giới, khu vực và phong trào cộng sản quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến các đảng cộng sản Nam Á theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, nhưng trong đó mặt tiêu cực, thách thức nổi trội hơn. Điều này thể

22 hiện qua sự lúng túng và mất định hướng về đường lối, quan điểm, bị tan rã và phân liệt, sụt giảm Đảng viên và thu hẹp cơ sở hoạt động. Sau khi đánh giá về biến động này và tìm cách hạn chế những chấn động do sự kiện này gây ra, củng cố nội bộ như tiến hành đại hội, đẩy mạnh đấu tranh nội bộ, tự phê bình, xác định nguyên nhân tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu, rút ra bài học kinh nghiệm, xác định con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước, đến những năm đầu thế kỷ XXI, các đảng đã khắc phục tình trạng hoang mang, lúng túng ban đầu, dần phục hồi và bắt đầu tập trung vào củng cố, xây dựng Đảng mạnh về chính trị-tư tưởng, tổ chức và vận động quần chúng; chú trọng vào các cuộc bầu cử thông qua các hoạt động cụ thể như nghiên cứu soạn thảo cương lĩnh tranh cử phù hợp, phân tích các lực lượng chính trị để lập liên minh tranh cử, và vận động tranh cử nhằm giành lá phiếu của cử tri; đẩy mạnh các cuộc đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động vì hòa bình, dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội; tăng cường phối hợp với các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả, dân chủ tiến bộ trong nước nhằm xây dựng một mặt trận thống nhất, tạo ra sự thay thế chính quyền tư sản; mở rộng hoạt động đối ngoại, tăng cường phối hợp hoạt động, thể hiện tình đoàn kết và chủ nghĩa quốc tế vô sản với các đảng anh em trong khu vực và trên thế giới; đồng thời đấu tranh, tố cáo âm mưu và hoạt động của đế quốc Mỹ và tư bản tài chính quốc tế. Qua quá trình hoạt động, các đảng cộng sản tại Nam Á đã đạt được một số kết quả tích cực trong hoạt động, đó là từ bài học sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, các đảng đã tự xác định con đường đấu tranh mới phù hợp với thực tiễn của đất nước; từng bước củng cố lực lượng và mở rộng ảnh hưởng; tích cực đấu tranh bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ, chống chính sách phản dân chủ và nhân dân của các chính quyền tư sản; bước đầu phối hợp lực lượng, đoàn kết các đảng cộng sản, cánh tả trong nước nhằm tạo mặt trận thống nhất trong đấu tranh và tranh cử. Tuy nhiên, mặc dù đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất sau sự sụp đổ của Liên Xô và tiếp tục phục hồi và có những bước phát triển mới, nhưng các đảng cộng sản tại Nam Á vẫn chưa hoàn toàn ra khỏi khủng hoảng. Hoạt động của các Đảng cũng còn nhiều hạn chế, bất cập; ảnh hưởng và vị trí của các đảng trên chính trường nhỏ yếu và tương quan so sánh lực lượng còn bất lợi với các chính đảng tư sản

23 khác; công tác lý luận chính trị còn hạn chế; nội bộ một số đảng xảy ra tình trạng mất đoàn kết, bè phái, cục bộ; sự phối hợp hành động giữa các đảng cộng sản còn lỏng lẻo và chưa hiệu quả.

Từ những thành tựu và hạn chế trong hoạt động của các đảng có thể thấy trong vấn đề xây dựng đảng và tổ chức hoạt động của các đảng cộng sản cần chú ý đoàn kết, thống nhất trong đảng và trong phong trào cộng sản mỗi nước; xây dựng Đảng cộng sản trong sạch, vững mạnh; đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; đổi mới nội dung và kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức đấu tranh; phát huy sức mạnh tổng hợp từ quần chúng nhân dân và các lực lượng chính trị-xã hội; tăng cường phối hợp hoạt động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các chính đảng tiến bộ, có ảnh hưởng và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng trong khu vực và trên thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản Nam Á luôn duy trì quan hệ hợp tác truyền thống, đoàn kết và hữu nghị. Điều này dựa trên tinh thần đoàn kết quốc tế tốt đẹp của những người cộng sản cũng như sự chia sẻ, cảm thông của những người cùng chung hoàn cảnh. Mặc dù trong phong trào cộng sản quốc tế lâm vào thoái trào, quan hệ giữa các đảng cộng sản trên thế giới và khu vực có nhiều biến đổi về hình thức, nội dung, nhưng Đảng CSVN củng cố và không ngừng tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản tại Nam Á. Hai bên thường xuyên cử đoàn, gửi điện mừng đại hội và các sự kiện quan trọng của mỗi Đảng, trao đổi đoàn thăm song phương, tiếp xúc, gặp gỡ, trao tài liệu, ấn phẩm và phối hợp tốt tại các diễn đàn khu vực và quốc tế. Qua các cuộc tiếp xúc, trao đổi, mỗi bên đã mở rộng nhận thức về tình hình mỗi đảng, mỗi nước, về thời đại, tình hình thế giới, khu vực; hiểu sâu và làm rõ những vấn đề lý luận mới đặt ra trên con đường đi lên CNXH; tích lũy kinh nghiệm trong xây dựng Đảng, phát triển lực lượng, quản lý xã hội, phát triển kinh tế, từ đó củng cố thêm niềm tin vào CN Mác-Lênin, CNXH và góp phần tích cực vào việc từng bước phục hồi phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.

24

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế trở nên sâu rộng như hiện nay và góp phần thúc đẩy sự phục hồi của phong trào cộng sản quốc tế, việc mở rộng, tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản tại Nam Á càng trở nên cấp thiết. Theo đó, cần đa dạng hóa các hình thức quan hệ cũng như nội dung trao đổi. Bên cạnh các hoạt động trao đổi đoàn như hiện nay có thể mở rộng sang các hình thức hội thảo chuyên đề, hội thảo lý luận. Nội dung trao đổi cần chú trọng trao đổi kinh nghiệm xây dựng đảng, các vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH cũng như những vấn đề mới nổi lên trong đời sống chính trị khu vực và quốc tế./.

25

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Mẫn Huyền Sâm (2011), “Quan hệ giữa Đảng ta với một số đảng cầm quyền khu vực Đông Nam Á: Thực trạng và triển vọng”, Tạp chí Đối ngoại, số 7(22), (7/2011), tr.46-50. 2. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Thực hiện chủ trương của Đảng ta về mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền”, Tạp chí Cộng sản, số 833 (3/2012), tr.95-100. 3. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Đảng Tổ chức Thống nhất Dân tộc Mã-lai”, Tạp chí Đối ngoại, số 28 (1+2/2012), tr.91-95. 4. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Đảng Hành động Nhân dân Xinh-ga-po”, Tạp chí Đối ngoại, số 29 (3/2012), tr.48-51. 5. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Đảng Đoàn kết và Phát triển Liên bang Mi-an-ma với tiến trình dân chủ”, Tạp chí Đối ngoại, số 30 (4/2012), tr.46-49. 6. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Đảng Vì người Thái”, Tạp chí Đối ngoại, số 31 (5/2012), tr.46-49. 7. Mẫn Huyền Sâm (2012), “Đảng Tự do Phi-líp-pin”, Tạp chí Đối ngoại (số 33 (7/2012), 38-41. 8. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Đảng Cộng sản Nê-pan Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất”, Tạp chí Đối ngoại, số 5/2015 (67), tr.50-54. 9. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Vài nét về Đảng Cộng sản Băng-la-đét”, Tạp chí Đối ngoại, số 6/2015 (68), tr.50-54. 10. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Vài nét về Đảng Cộng sản Xri Lan-ca”, Tạp chí Đối ngoại, số 7/2015 (69), tr.52-55. 11. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Phong trào cộng sản Nam Á từ sau Chiến tranh lạnh đến nay”, Tạp chí Cộng sản, số 873 (7/2015), tr.107-111. 12. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tại khu vực Nam Á”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8/2015, tr.100-104. 13. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Vài nét về Đảng Cộng sản Ấn Độ”, Tạp chí Đối ngoại, số 8/2015 (70), tr.51-55. 14. Mẫn Huyền Sâm (2015), “Vài nét về Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)”, Tạp chí Đối ngoại, số 9/2015 (71), tr.52-55.