DẤU TÍCH TIẾNG KHÁCH GIA TRONG TIẾNG VIỆT VÕ TRUNG ĐỊNH

Khi khảo sát mối tương quan giữa Bách Bộc và Bách Việt, về sự hình thành cư dân Lạc Việt mà được coi là tổ tiên của người Kinh hiện nay, thì một số điểm tương đồng khá thú vị giữa tiếng Việt và tiếng Khách Gia có thể đem đến cho chúng ta cơ sở nhìn nhận mới toàn diện hơn về nguồn gốc tiếng Việt.

I. MỞ ĐẦU Qua gần 200 năm đi xác định nguồn gốc tiếng Việt, với nhiều quan điểm, giả thuyết và tranh luận khác nhau, tạm lấy mốc 1852 khi lần đầu tiên J.R. Logan trong bài nghiên cứu Ethnology of the IndoPacific Islands xếp tiếng Việt vào dòng MonKhmer, họ Nam Á, thì tiếng Việt ngày nay được hầu hết các học giả trong và ngoài nước chứng minh và chấp nhận quan điểm này, và đây hầu như đã trở thành quan điểm chính thống cho các nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Dòng MonKhmer ở Trung Quốc trong các thư tịch từ thời Đường trở đi được gọi là “Bộc” với các cách viết 濮,朴 hoặc 浦. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng, người Bộc sinh sống ở lưu vực sông Trường Giang trước thời Tiên Tần là những cư dân nói thứ tiếng thuộc dòng MonKhmer, thời gian sau đó họ chuyển xuống sinh sống ở vùng Tây Nam (Quảng Tây, Vân Nam), do đó trong kho từ vựng của các dân tộc vùng này còn lưu giữ rất nhiều yếu tố tương đồng với tiếng MonKhmer. [1, 85] Đây là những khu vực tiếp giáp với Việt Nam, cư dân ở những vùng đất rộng lớn này liên tục xảy ra các cuộc di cư và hội tụ của các tộc người, sự tiếp xúc giữa các chi nhóm ngôn ngữ là xảy ra thường xuyên và lâu dài, vì thế khi nghiên cứu các yếu tố cấu thành tiếng Việt trên bình diện so sánhlịch sử thì phải tính tới nhiều nguồn ngôn ngữ khác nhau đã ảnh hưởng và lưu lại dấu tích trong lớp từ vựng cơ bản tiếng Việt ngày nay. II. NỘI DUNG 1. Bách Bộc và Bách Việt Về vấn đề người Bộc và các dân tộc Bộc, tục gọi Bách Bộc 百濮, các học giả Trung Quốc xưa nay cũng từng nghiên cứu và có nhiều tranh luận khác nhau. Tựu trung lại quan điểm tạm thống nhất hiện nay là: người Bộc chưa từng hình thành một dân tộc thống nhất, bởi vì địa bàn cư trú quá rộng, các sắc dân, bộ lạc cũng nhiều, vì thế chỉ có thể gọi là Bách Bộc chứ chưa thể gọi dân tộc Bộc. Người Bộc trong tiến trình phát triển

1 lịch sử hàng ngàn năm đã dần dần biến mất, một số bộ tộc bị đồng hóa với các dân tộc vùng Trung Nguyên (người Hán), các bộ tộc khác di cư về phía Nam và lần lượt hòa nhập vào các tộc người ở đây, trong đó một phần lớn hòa nhập với các tộc người Việt mà thường gọi là Bách Việt 百越 sau này. [2, 4344] Sách sử Trung Quốc khi ghi chép về người Bộc có nói thêm rằng, khu vực duyên hải Đông Nam Trung Quốc cho đến khu vực phía Bắc Việt Nam ngày nay, thời cổ đại từng phân bố nhóm cư dân Bách Việt, trong đó nhánh phía Tây của Bách Việt là Lạc Việt sinh sống ở vùng bán đảo Đông Dương và khu vực Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên Trung Quốc tương đối phức tạp hơn, bởi vì khu vực này cũng sinh sống các tộc người Bộc, sau này được gọi là “Bách Bộc”. [3, 117 ] Giáo sư Hà Bình còn nhận định thêm rằng, cả hai nhóm người Bộc và Việt có thể đều xuất phát từ chủng người Mongoloid phương Nam (người Việt Nam hiện tại thuộc chủng này), nhưng nhóm người Bộc thuộc dòng MonKhmer cổ xưa hơn nhóm Việt, gần với người tiền Mã Lai (ProtoMalay), còn nhóm Việt muộn hơn gần với người hậu Mã Lai (DeutroMalay). Do người Bộc có nhiều đặc điểm gần người tiền Mã Lai, ngôn ngữ cũng có nhiều điểm tương đồng, vì thế có một số học giả từng gộp dòng MonKhmer vào dòng Nam Đảo, lấy tên mới là ngữ hệ Nam Phương hay ngữ hệ Đông Nam Á (the Austric family of languages). [3, 119 ] Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Paul K. Benedict gọi là ngữ hệ Nam Thái (AustroThai) trong sách Austro and Culture xuất bản năm 1975. Đây là cách phân loại dựa trên quan điểm thống nhất trong đa dạng, đưa tất cả các ngôn ngữ trong một vùng địa lý vào một ngữ hệ duy nhất. Điều này phản ánh đúng thực tế như GS. Trần Trí Dõi chứng minh là vào giai đoạn phát triển đầu tiên trong lịch sử tiếng Việt (cách đây khoảng 1000 năm trước Công nguyên cho đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên), lúc tiếng tiền Việt Mường tách ra khỏi khối MonKhmer để có một lịch sử phát triển riêng, thì tiếng tiền ViệtMường đã có tiếp xúc với các ngôn ngữ thuộc họ Nam Đảo. Chứng cứ của sự tiếp xúc này những vay mượn từ vựng lẫn nhau giữa chúng, bởi vì trong vốn từ tiếng Việt và một vài ngôn ngữ ViệtMường khác chúng ta thấy có những từ thuộc vào lớp rất cổ xưa tương ứng với họ ngôn ngữ này. Và ông có nhận định thêm là “tính chất nhập nhằng khiến người ta khó xác định ngôn ngữ nào vay mượn ngôn ngữ nào. Trong tương lai, khi thuần túy xem xét từ vựng lịch sử tiếng Việt, chắc chắn đây sẽ là một vấn đề thú vị nhưng cũng sẽ đầy rẫy khó khăn”. [4, 162] Nhóm Bách Bộc ngày xưa còn cư trú chủ yếu ở vùng sông Bộc. Đây là con sông bắt nguồn từ cao nguyên tỉnh Sơn Ðông rồi chảy qua các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam (ở đây có thành phố mang tên Bộc Dương 濮阳) rồi đổ vào sông Hoàng Hà. Cư dân chủ yếu sinh sống bằng nghề canh nông và tầm tang (trồng dâu nuôi tằm dệt lụa). Họ có lối sống cổ sơ hồn nhiên trai gái giao du thân mật không bị cấm đoán “nam nữ thụ thụ bất tương thân”

2 như người Hán. Người Hán thấy lối sống thân cận nam nữ của dân Bách Bộc thì chê bai chỉ trích là cảnh dâm loạn, gọi là “trên Bộc trong dâu” (Tang gian Bộc thượng 桑间濮上). Bộc thượng tức là “trên bãi sông Bộc”, “tang gian” nghĩa là “trong chốn ruộng dâu”. Trong một số từ điển tiếng Việt của Đào Duy Anh, Lê Ngọc Trụ… có xuất hiện câu tục ngữ “trên Bộc trong dâu” hay “trên Bộc dưới dâu”. Theo Từ điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam, “trên Bộc trong dâu” chỉ “thói tà dâm của trai gái. Hành động cử chỉ suồng sã, không đứng đắn.” [5, 733] Sách Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam (Quyển 1) còn giải thích thêm, câu này xuất xứ từ sách Lễ Ký “ Tang gian Bộc thượng chi âm, vong quốc chi âm dã” (桑間濮上之音, 亡國之音也), nghĩa là “tiếng nhạc trong bãi dâu trên sông Bộc là tiếng nhạc làm mất nước”. Đất Vệ có bãi dâu bên bờ sông Bộc, trai gái tụ tập đàn hát, gợi chuyện dâm ô, nên gọi tiếng nhạc của nước Trịnh là nhạc mất nước. Truyện Kiều có câu thơ “ Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi ”, hay trong truyện Hoa Tiên có câu thơ “ Thể lòng dãi bến hà châu, Đợi nhau trên Bộc trong dâu ru mà”. [6, 1223] Điều này cho thấy câu tuc ngữ này khá quen thuộc với người Việt, có lẽ người Việt xưa đã tiếp xúc với nhóm người Bộc cổ và cách nói này đã du nhập vào tiếng Việt từ đó. Theo Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam , Bách Việt là tộc danh dùng trong các thư tịch thời Chiến quốc (thế kỉ 4 3 tCn.) ở Trung Quốc để chỉ chung các tộc người không phải Hán ở nam Trường Giang. Trong các nhóm Bách Việt chính, bao gồm Đông Âu ( 東 甌), Mân Việt ( 閩越), Nam Việt ( 南越), Tây Âu ( 西甌,còn gọi là Âu Việt 甌越) và Lạc Việt ( 雒越/駱越/貉越), thì nhóm Lạc Việt (một bộ phận sinh sống ở phía Bắc Việt Nam) xưa nay được coi như là tổ tiên của người Việt Nam (người Kinh) hiện đại. Sau này Thục Phán sát nhập lãnh thổ của Văn Lang và lãnh thổ của bộ tộc mình (Âu Việt) mà hình thành nên một nhà nước mới gọi là Âu Lạc (kết hợp giữa người Âu Việt và người Lạc Việt). Điều muốn nói ở đây là tại sao chữ Lạc (雒/駱/貉) trong Lạc Việt lại có nhiều cách ghi khác nhau như thế? Trước hết chúng ta thấy cả 3 chữ này đều là chữ Hình Thanh, 1 bộ thủ là âm đọc, 1 bộ thủ chỉ ý nghĩa của chữ đó. Ba chữ này đều có chữ “các” 各, đây chính là ký tự biểu âm “lạc” của chữ, phù hợp với cách giải thích trong sách Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận. Chữ Lạc 駱 có bộ “mã” 马 đọc là luò , mang ý nghĩa “ngựa trắng có bờm đen” ( 馬白色黑鬣尾也,从馬各聲). Chữ Lạc 雒 có bộ “chuy” hay “truy” 隹 (chim đuôi ngắn) cũng đọc là luò , có nghĩa là chim Kỵ Kỳ (鵋䳢也, 从隹各聲), tức là chim cú mèo. Riêng chữ Lạc 貉 mang bộ trãi 豸 thì lại có các âm đọc hé, háo, mò , âm Hán Việt là “hạc” hoặc “mạch”, chỉ một ngoại tộc ở phương bắc Trung Quốc thời xưa, xưng là Mạch (北方豸穜,从豸各聲) hoặc chỉ một loài thú giống như con cầy đầu mũi nhọn, ngày ngủ đêm ra ăn các loài sâu, lông rậm, dùng may áo ấm. Chữ thứ ba này

3 thường được sách sử Việt Nam dùng viết cho từ Lạc Việt (Đại Việt sử ký toàn thư dùng chữ này), sách sử Trung Quốc thường dùng hai chữ đầu hơn. Cho dù viết bằng chữ gì đi chăng nữa thì chúng ta thấy chúng đều không mang nghĩa chỉ “lạc điền” (ruộng nước) như trong đoạn văn sau:

Sách Thủy Kinh chú 水经注 dẫn lại sách Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记 là sách cổ nhất viết về sử nước ta có đoạn sau: “ 交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田 從潮水上下,民墾食其田,因名為駱民。設駱王,駱侯,主諸郡縣,縣多為駱將,駱將銅 印青綬……”Nghĩa là: Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cày cấy) theo con nước thủy triều, dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện, ở huyện phần đông có Lạc Tướng, Lạc Tướng có ấn bằng đồng… [7, 694] Như vậy chỉ có thể suy ra rằng, các chữ “Lạc” trong Lạc Việt đều là chữ dịch âm của chữ “nước” trong tiếng Việt. Vậy thì, từ “nước” chuyển sang “lạc” như thế nào? “Nước” trong âm địa phương Bắc Trung Bộ còn đọc là “nác”, mà theo Gs. Trần Trí Dõi, “phương ngữ Bắc Trung Bộ là nguồn cung cấp tư liệu giúp chúng ta có cơ sở chắc chắn để giải thích nhiều hiện tượng có từ thời ViệtMường”. [4, 135] Hơn nữa, việc không phân biệt âm n, l hiện vẫn còn tồn tại ở rất nhiều địa phương phía Bắc. Hiện tượng không thống nhất trong việc dịch âm từ ngoại lai sang tiếng Hán hiện nay vẫn còn tồn tại, ví dụ blog (博客/部落格), Obama (奥巴马/欧巴马)... Gs. Vương Văn Quan trong sách Trung Quốc Nam phương dân tộc sử (1999) còn cho biết thêm, Lạc Việt là nhóm tộc người có số dân đông nhất, phân bố rộng nhất trong nhóm Bách Việt. Các dân tộc dòng ngôn ngữ TrángĐồng (Kam, ở Việt Nam đưa vào nhóm TàyThái) đều có nguồn gốc từ người Lạc Việt. [8, 64] Theo nhận định của nhiều nhà ngôn ngữ học và dân tộc học thì những từ tiếng Việt gốc TàyThái phần nhiều thuộc nền văn minh lúa nước. Tiêu biểu cho quan điểm này là ý kiến của Gs. Phạm Đức Dương, ông cho rằng “một điều hết sức quan trọng cần nhấn mạnh là nếu nhìn vào lớp từ vựng cơ bản ngoài hệ thống từ chỉ các hoạt động tự nhiên, cơ thể và hoạt động của con người, số đếm… thì trong các ngôn ngữ tiền Việt Mường chỉ có từ chỉ văn hóa săn bắt, hái lượm và hệ thống canh tác nương rẫy, còn lớp từ vựng về văn minh nông nghiệp lúa nước hoàn toàn không có. Trong khi đó hệ thống từ này trong ngôn ngữ ViệtMường lại có chung một gốc với các ngôn ngữ TàyThái.” [9, 129] Tuy quan điểm này đang còn nhiều tranh luận, nhưng cũng cho thấy nghề trồng lúa nước ở nước ta xuất hiện rất sớm, từ nền văn hóa Hòa Bình, Việt Nam là một trong những trung tâm lúa nước sớm nhất tại vùng Đông Nam Á, có thể nói là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Hạt gạo gắn liền với sự phát triển dân tộc và việc sản xuất lúa gạo cho

4

đến nay vẫn là nền kinh tế chủ yếu của đất nước. Người dân Lạc Việt rất tự hào khi mình được gọi là “lạc dân”, tức là “người có ruộng lúa nước”, “người biết làm nghề nông trồng lúa nước”. 2. Lạc Việt và Khách Gia Trong 7 phương ngôn lớn ở Trung Quốc hiện nay, tiếng Khách Gia là một trong những phương ngôn có số người sử dụng đông đảo nhất, địa bàn phân bố chủ yếu ở vùng phía Nam Trung Quốc, trải dài từ Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên ra tận Phúc Kiến, Đài Loan… Người Khách Gia và tiếng Khách Gia hình thành như thế nào? Tên gọi Khách Gia 客家có nghĩa là "những người khách" (từ nơi khác đến). Vậy họ vốn ở đâu và tại sao lại phải đi “làm khách” vùng đất khác? Vấn đề nguồn gốc người Khách Gia, dựa vào các chứng tích ngôn ngữ, phong tục, kiến trúc…, hầu hết các học giả Trung Quốc đều cho rằng người Khách Gia có gốc tích từ vùng Trung Nguyên, trong đó nổi bật nhất là Giáo sư La Hương Lâm ( 罗香林) với công trình nghiên cứu nổi tiếng Khách gia nghiên cứu đảo luận (客家研究导论,1933 )mà trong đó ông đưa ra kết luận rằng người Khách Gia là người Hán vùng Trung Nguyên di cư về phía Nam. Tuy nhiên, một số quan điểm hiện nay có khác với quan điểm của Gs. Lâm, đó là người Khách Gia có phải là người Hán thuần chủng ở vùng Trung Nguyên hay không? Bởi vì vùng Trung Nguyên lúc bấy giờ không chỉ có người Hán cư trú mà còn có các sắc dân khác, trong đó một bộ phận lớn là các dân tộc Bộc (Bách Bộc). Trong quá trình cư trú đan xen với nhau, do chịu ảnh hưởng mạnh của nền văn hóa Hán, một bộ phận người Bộc bị Hán hóa, một bộ phận khác di cư về phía Nam, hòa vào người Bách Việt. Người Khách Gia cũng vậy, có thể có một bộ phận người Khách Gia bị Hán hóa, rồi sau đó lớp người Hán này do nhiều yếu tố biến động trong lịch sử cũng di cư về phía Nam, rồi cùng hòa nhập vào người Bách Việt, trong đó có một bộ phận người Khách Gia hòa nhập vào người Lạc Việt, hình thành nên cư dân Việt có số dân đông đảo nhất trong nhóm Bách Việt thời bấy giờ. Gs. Dương Mai Trung trong bài nghiên cứu mới nhất Bàn về người Khách Gia hình thành thời Minh (2010) cũng đưa ra kết luận rằng, người Khách Gia trong quá trình hòa nhập dân tộc, rất khó bảo toàn huyết thống thuần chủng của người Hán. [10, 24] Như vậy, trên bước đường di cư về Nam, để phân biệt với người dân địa phương, họ đã khiêm xưng hoặc được người bản địa gọi là Khách gia. Ở Việt Nam, người Khách gia không rõ vì sao mà còn có tên gọi “người Hẹ” và tiếng Khách Gia còn được gọi là “tiếng Hẹ”. Có thể là do trong quá trình cư trú với cư dân bản địa ở Việt Nam, những cư dân đầu tiên khi được hỏi về nguồn gốc đã phát âm từ Khách theo giọng Khách Gia là Hak , người Việt đọc trại sang thành Hẹ (như người đến từ Triều Châu thì người Việt gọi là “người Tiều”). Cũng có thể do người Việt nghe không rõ hoặc không hiểu mà tưởng họ

5 là người thời nhà Hạ nên trong quá trình đọc đã biến Hạ thành Hẹ (như mùa Hạ thành mùa Hè , trà thành chè , xa thành xe, ma thành mè…). Trong Giáo trình Lịch sử Tiếng Việt , Gs. Trần Trí Dõi đã chia tiếng Việt thành bảy giai đoạn phát triển chính. Đối chiếu với những đặc điểm về ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng, có thể tạm đưa giai đoạn tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Khách Gia vào thời kỳ thứ ba, đó là giai đoạn ViệtMường cổ (pré ViệtMường), diễn ra từ thế kỷ I sau Công nguyên cho đến khoảng thế kỷ VIIIIX. Đây là giai đoạn tiếng Việt đã bắt đầu có sự vay mượn từ các ngôn ngữ TháiKađai và tiếng Hán. Các chứng tích về ngôn ngữ có thể chú giải quan điểm này. 3. Sự tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Khách Gia Như đã nói ở trên, do người Khách Gia khi hòa nhập vào cộng đồng Lạc Việt, lúc này tiếng Việt ngoài cội nguồn MonKhmer của mình còn có các yếu tố TàyThái và Hán du nhập, vì thế để làm rõ hơn sự tương đồng giữa Việt và Hẹ, phần này còn so sánh thêm với các ngôn ngữ TàyThái và Hán. 3.1 Tương đồng về thanh điệu So với các thứ tiếng có thanh điệu gần vị trí địa lý với tiếng Việt, thì tiếng Việt và tiếng Khách Gia đều có 6 thanh, trong khi đó tiếng Hán có 4 thanh (tính cả thanh nhẹ là 5), tiếng Mân 闽话 (tiếng Phúc Kiến) có 8 thanh, tiếng Choang (có sách dịch Tráng) 壮话 cũng 8 thanh, trong khi tiếng Quảng Đông 粤语 lên đến 9 thanh. 6 thanh điệu của tiếng Khách Gia là Âm bình 阴平, Dương bình 阳平 (Bình thanh chia làm 2), Thượng thanh 上 声, Khứ thanh 去声, Âm nhập 阴入, Dương nhập 阳入 (Nhập thanh chia làm 2). [11, 164] So sánh với 6 thanh trong tiếng Việt, có thanh Ngang (tương đương với Âm bình 阴平), thanh Huyền (Dương bình 阳平), thanh Hỏi (Âm thượng 阴上), thanh Ngã (Dương thượng 阳上), thanh Sắc (Âm Khứ nhập 阴去入), thanh Nặng (Dương Khứ nhập 阳去入). Tuy âm vực chắc chắn có khác nhau do sinh sống ở các vùng đất khác nhau, nhưng cơ bản thanh điệu tiếng Khách Gia với tiếng Việt xét về bản chất là tương đương nhau. 3.2 Bảo lưu các âm cuối nhập thanh p, t, k Trong khi tiếng Hán bước sang thời Nam Tống các âm cuối nói trên bắt đầu biến mất và trong tiếng Hán hiện đại ngày nay không còn lưu lại dấu vết, thì các âm cuối nhập thanh p, t, k vẫn còn bảo lưu trong tiếng Việt và tiếng Khách Gia cho đến ngày nay. Ngoài ra các thứ tiếng khác ở miền Nam Trung Quốc như tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến… cũng còn bảo lưu khá hoàn chỉnh ba phụ âm cuối nhập thanh này. Ví dụ:

6

Chữ Tiếng Việt Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Hán Khách Quảng Phúc Hán Hán Gia Đông Kiến thượng cổ hiện đại 十 thập /tʰɜ̰ p31 / sip sp sip ʑip shí 合 hợp /hə̰ ːp 31 / hp hp hp ɣɑp hé 八 bát /ɓɐːt 35 / bt b t pt pt bā 佛 phật /fɜ̰ t31 / ft ft hut vɪuət fó 客 khách /xɐːk 35 / hk h k khek kʰɪk kè 易 dịch /zḭk31 / yik yik ek jk yì 3.3 Có cùng phụ âm mũi m Trong khi tiếng Hán chỉ có phụ âm mũi n thì trong tiếng Việt, tiếng Khách Gia và một số tiếng lân cận đều có phụ âm mũi m đứng cuối. Ví dụ:

Chữ Tiếng Việt Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Hán Khách Quảng Hán Hán Hán Gia Đông thượng cổ trung cổ hiện đại 沉 trầm /cɜm21 /, cem 2 cam 2 dium hm chén chìm, đắm 篮 lam /ˈlæm/ lm2 l m42 lm lm lán 尖 tiêm /tiɜm33 / ji m4 jim 1 tsim tsm jiān 贪 tham /tʰɐːm 33 / tm1 t m1 thm thm tān 三 tam /tɐːm 33 / sm1 sm1 sium sm sān 占 chiếm /ciɜm35 / ji m3 jim 3 tim tm zhàn Theo thống kê của nhà nghiên cứu Vĩ Đạt, trong tổng số các vận mẫu kết thúc bằng phụ âm m, tiếng Choang có 9 âm (a:m, am, e:m, i:m, im, o:m, om, u:m, um), tiếng Quảng Đông có 3 âm (a:m, am, i:m), tiếng Khách Gia có 3 âm (am, iam, em), tiếng Phúc Kiến cũng có 3 âm (am, im, iam).[12, 70] Tiếng Việt trong quá trình phát triển do tiếp xúc và vay mượn của nhiều ngôn ngữ khác nhau nên số lượng âm tiết cũng phong phú hơn, số lượng các vần có phụ âm m kết thúc cũng nhiều hơn, tổng cộng có 14 âm (am, ăm, âm, em, êm, iêm, im, om, ôm, ơm, um, uôm, ưm, ươm). 3.4 Vị trí từ tố trong từ phức giống nhau Có một số từ gốc Hán khi sang tiếng Việt thì đã hoán đổi vị trí từ tố, ví dụ: bệnh tật (Việt) – tật bệnh (Hán), nột thất (Việt) – thất nội (Hán), phóng thích (Việt) – thích phóng (Hán), thủy triều (Việt) triều thủy (Hán)… Tuy nhiên khi so sánh với các ngôn ngữ phía Nam Trung Quốc, chúng ta thấy chúng cũng có cách nói như tiếng Việt, ví dụ: Náo nhiệt (Việt): tiếng Khách Gia nau 33 niat 31 , tiếng Choang na:u 33 ji:t 33 , tiếng Quảng Đông nau 31 ni:t 31 , tiếng Phúc Kiến lau liat . Tiếng Hán: nhiệt náo 热闹.

7

Hoan hỉ (Việt): tiếng Khách Gia fon hi , tiếng Choang vu:n24 hai 55 , tiếng Quảng Đông fu:n 55 hei 35 , tiếng Phúc Kiến hua hi . Tiếng Hán: hỉ hoan 喜欢. Điều này cho thấy, tiếng Việt chịu ảnh hưởng cách nói của các tiếng địa phương miền Nam Trung Quốc, nơi có vị trí địa lý gần Việt Nam hơn là cách nói của tiếng Hán. 3.5 Không phân biệt hai phụ âm n, l Như đã trình bày ở trên, ý nghĩa của từ lạc trong Lạc Việt nghĩa là “nước” là hoàn toàn có cơ sở, quá trình diễn biến có thể là lạc (lak)nác (nak)nước. Hiện tượng nhiều địa phương miền Bắc hiện nay khi phát âm hay nhầm lẫn giữa 2 âm n, l (trong khi ở miền Nam không có tình trạng này) phản ánh “tàn dư” của hiện tượng “nói ngọng” âm n, l trong tiếng Khách Gia và một số ngôn ngữ lân cận. Theo nghiên cứu của học giả Tạ Đông Nguyên, hiện tượng không phân biệt hai âm n, l trong tiếng Khách Gia không phải xuất hiện từ thời kỳ đầu sản sinh ra tiếng Khách Gia, mà chỉ mới xuất hiện ở giai đoạn Nguyên, Minh, Thanh sau này. ). [13, 34] Cũng không phải toàn bộ người Khách Gia đều nói ngọng như vậy, mà chủ yếu tập trung ở một số từ hay một số địa phương nhất định. Điều này cũng tương tự như trong tiếng Việt, không phải tất cả các địa phương miền Bắc đều nói ngọng 2 âm này mà chủ yếu tập trung vùng đồng bắc Bắc Bộ như Thái Bình, Nam Định, Hải Dương... 3.6 Sự tương ứng về mặt từ vựng Trên bình diện Từ nguyên học (etymology), khi xem xét nguồn gốc và lịch sử của từng từ riêng biệt trong một ngôn ngữ, đòi hỏi chúng ta phải phục nguyên hình thái bên trong của từ, trong đó nắm bắt các quy luật biến đổi ngữ âm và ngữ nghĩa là rất quan trọng, từ đó mới có thể hiểu biết về quan hệ họ hàng giữa các ngôn ngữ. Ngôn ngữ học so sánhlịch sử cũng chứng minh, sự phát triển của ngôn ngữ chỉ có một con đường, đó là từ một ngôn ngữ nguồn không ngừng phân hóa thành nhiều chi, nhánh, họ ngôn ngữ khác nhau, từ đó hình thành nên cây phổ hệ (family tree) của các ngôn ngữ thân thuộc, chứng cứ cơ bản nhất để xác định mối quan hệ thân thuộc hay đồng tộc giữa hai hay nhiều ngôn ngữ là lớp từ vựng cơ bản có ngữ âm tương ứng (sound correspondence) giữa chúng. Tuy nhiên việc xác định cho được đâu là lớp từ vựng cơ bản, đâu là lớp từ vựng vay mượn trong tiếng Việt thật sự không dễ dàng. Bởi vì vị trí địa lý quá gần nhau, và những sự tiếp xúc giữa cư dân các vùng miền xảy ra trong một thời gian dài, thường xuyên và liên tục, do đó rất khó để kết luận ngôn ngữ nào vay mượn ngôn ngữ nào, và cũng khó có thể nói những từ rất cơ bản, rất cổ xưa ấy là những từ vay mượn chứ không phải là từ cơ bản. Đây chính là điều gây nhiều tranh cãi nhất khi xác định nguồn gốc tiếng Việt, vì thế khi xem xét sự tương đồng giữa từ vựng tiếng Việt và tiếng Khách Gia, rất khó để nói tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khách Gia, hay tiếng Khách Gia và tiếng Việt đều vay mượn từ tiếng Thái, tiếng Hán… Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu có sự tương ứng về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa giữa tiếng Việt và tiếng Khách Gia: 3.6.1 “Tôi” và “Mất” Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít “Tôi” trong tiếng Việt có những cách nói “ tôi, ta, tau, tớ.. .”. Trong đó “ Tôi ” (đọc trại “ tui ”) tương ứng với 儓 [tai 2][dai 4] và “ tớ” tương

8

ứng với 卒[zu 2], hai đại từ nhân xưng cổ tiếng Khách Gia. Ý nghĩa của hai từ này cũng tương đồng với ý nghĩa gốc của từ “tôi tớ” trong tiếng Việt. Địa bàn cư trú của những tộc người này cũng gần Việt Nam, nằm trong mối tương quan Bách Việt ngày xưa. Có rất nhiều từ biểu thị ý nghĩa “chết” trong tiếng Việt, trong đó có “mất” /mɜt35 / là từ rất thường dùng. So sánh từ mất và một số ngôn ngữ khác trong khu vực: tiếng Chăm matai ; tiếng Indonesia, Java mati ; tiếng tiền MalayTagalog mataj ; tiếng tiền Kam Tai *mlar, *mlat ; tiếng Khách Gia mok , có thể thấy rằng, từ “mất” trong tiếng Việt và cả tiếng Thái có xuất xứ từ gốc Nam Đảo, còn tiếng Khách Gia thì sao? Theo kết luận của Đặng Hiểu Hoa, tiếng Khách Gia không hoàn toàn xuất phát tiếng Hán, bởi vì do người Khách Gia là tập hợp của nhiều sắc dân, là một cộng đồng đa sắc tộc, do đó tiếng Khách Gia cũng có xuất xứ từ nhiều nguồn, trong đó một bộ phận có nguồn gốc Đồng Đài (KamTai), tức là hậu duệ của người Việt cổ (Bách Việt). [14, 146] Như vậy có thể suy đoán rằng từ mất trong tiếng Khách Gia có nguồn gốc Thái vay mượn từ tiếng Nam Đảo. Xét về mặt ngữ nghĩa, từ “mất” trong tiếng Việt và tiếng Khách Gia đều mang hai nghĩa: chết và đánh mất, trong khi các thứ tiếng lân cận khác thì phải dùng hai từ để biểu đạt hai ý nghĩa này, đây là điểm tương đồng khá thú vị cần nghiên cứu thêm. 3.6.3 Nhóm từ HánViệt cổ Như đã nói ở cuối phần 2, tiếng Khách Gia có thể du nhập vào tiếng Việt ở thời kỳ ViệtMường cổ, mà ở giai đoạn này tiếng Việt đã bắt đầu vay mượn từ vựng tiếng Hán. Tuy nhiên lớp từ vựng gốc Hán này có cách đọc khác với lớp từ vựng du nhập vào tiếng Việt từ thời nhà Đường (hay còn gọi là từ HánViệt), để phân biệt các nhà ngôn ngữ học Việt Nam hay gọi nhóm từ này là từ HánViệt cổ [4, 172] hoặc từ Tiền Hán Việt. [15, 142] So sánh với âm đọc tiếng Khách Gia chúng ta thấy chúng cũng có cách đọc tương đương âm HánViệt cổ. Ví dụ: Từ HánViệt Tiếng Tiếng Tiếng Hán Tiếng Hán Từ cổ Khách Gia Quảng Đông trung cổ hiện đại HánViệt bùa /ɓuɜ21 / pu 2 fu 3 bhu fú 符 phù búa /ɓuɜ35 / pu 3 fu 2 pu fǔ 斧 phủ gả /ɣɐː313 / ga 3 ga 4 ka jià 嫁 giá gan /ɣɐː313 / gon 1 gon 1 kn gān 肝 can mùi /muj 21 / mi 4 mei 6 mwi wèi 味 vị mong /mɔŋ33 / mong 4 mong 6 mwa wàng 望 vọng Qua bảng đối chiếu trên có thể thấy rằng các thứ tiếng Việt, Khách Gia và Quảng Đông đều bảo lưu cách đọc của tiếng Hán thời trung cổ, trong đó cách đọc của tiếng Việt và tiếng Khách Gia là gần nhau nhất, từ phụ âm, nguyên âm cho đến thanh điệu. Điều cần lưu ý là tuy lớp từ vựng vay mượn thời kỳ này có niên đại muộn hơn lớp từ vựng cơ bản gốc MonKhmer ở thời kỳ đầu, nhưng chúng đều là những từ rất cơ bản trong tiếng Việt, vì vậy khi đối chiếu với Bảng 100 từ vựng cơ bản của Swadesh , chúng ta thấy xuất hiện

9 khoảng10 từ có nguồn gốc từ tiếng Hán thượng cổ, ví dụ như tim, gan , ông (đàn ông), bà (đàn bà), hạt, khô/cạn, bạc (trắng)… Điều này cho thấy khi xem xét lớp từ vựng cơ bản của một ngôn ngữ để xác định nguồn gốc của ngôn ngữ đó phải xem xét trên nhiều yếu tố và mọi kết luận vội vàng sẽ thường không chính xác. III. KẾT LUẬN Do khuôn khổ bài báo có hạn nên chưa thể liệt kê ra thêm nhiều hiện tượng tương đồng khá thú vị giữa tiếng Việt và tiếng Khách Gia, nhưng nếu càng đi sâu vào so sánh giữa hai ngôn ngữ trên các bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp thì chúng ta không khó bắt gặp sự tương ứng khá rõ nét giữa hai thứ tiếng có vị trí địa lý gần nhau này. Mở rộng ra đối chiếu với các thứ tiếng khác trong vùng như tiếng Choang, tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến… thì chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về sự ảnh hưởng qua lại của các ngôn ngữ, cũng như sự vay mượn của các ngôn ngữ đó với tiếng Hán và cả chiều ngược lại. Ngoài ra, chúng ta có thể áp dụng Bảng 100 từ vựng cơ bản của Swadesh (1955), được coi là Bảng từ vựng cơ bản thông dụng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay khi sử dụng phương pháp so sánhlịch sử để phát hiện ra sự thân thuộc giữa các ngôn ngữ về mặt cội nguồn. Ở đây không bàn đến phương pháp Ngữ thời học (Glottochronology, môn học xác định tuổi của ngôn ngữ) của Swadesh, mà chúng ta có thể dựa vào Bảng 100 từ vựng cơ bản mà Swadesh đã chứng minh là lớp từ vựng ổn định nhất trong mọi ngôn ngữ để truy nguyên gốc tích tiếng Việt. Điều cần lưu ý là do Swadesh chỉ khảo sát các ngôn ngữ Ấn Âu, vì vậy khi áp dụng vào các ngôn ngữ vùng châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, nơi các tộc người thường xuyên di cư và hội tụ với nhau, các thứ tiếng cũng liên tục tiếp xúc, hòa nhập và ảnh hưởng lẫn nhau, thì khi áp dụng phương pháp này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu trên quan điểm so sánh đa ngữ thì mới có cái nhìn khoa học hơn về nguồn gốc tiếng Việt, trong đó tiếng Khách Gia (tiếng Hẹ) là một thực thể cần phải nhắc đến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] 李炳泽, 从苗瑶语和孟高棉语的关系词说仆人南迁, 云南民族学院学报, 1996 年第 1 期 . [2] 龚荫, 关于濮人的问题, 西南民族学院学报, 1987 年第 3 期. [3] 何平, 孟高棉语民族的起源及其与古代濮人的关系, 贵州民族研究, 2007 年第 1 期. [4] TRẦN TRÍ DÕI, Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.

10

[5] VŨ DUNG, VŨ THÚY ANH, VŨ QUANG HÀO, Từ điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2000. [6] NGUYỄN THẠCH GIANG, Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam (Quyển 1), NXB Khoa học Xã hội, 2003. [7] 赵永复、赵燕敏, 《水经注《《《水经注》选》》》选评选选评评评, 上海古籍出版社, 1990. [8] 王文光, 中国南方民族史, 北京民族出版社, 1999. [9] PHẠM NGỌC, PHẠM ĐỨC DƯƠNG, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á , Viện Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội, 1983. [10] 杨海中,试论客家人形成于明代,黄河科技大学学报, 第 12 卷第 5 期, 2010 年 9 月. [11] 侯精(主编), 现代汉语方言概论, 上海教育出版社, 2002. [12] 韦 达, 壮话与白话、客家话、、、客家话、闽话的共同特征、、、闽话的共同特征, 广西民族学院学报, 第 24 卷 第 5 期, 2002 年 9 月. [13] 谢栋元, 客家话形成的三个阶段, 广东外语外贸大学学报, 第 14 卷第 3 期, 2003 年 9 月. [14] 邓晓华, 论客家话的来源, 云南民族大学学报, 第 23 卷第 4 期 , 2006 年 7 月. [15] NGUYỄN NGỌC SAN, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB ĐHSP, HN, 2003. [16] 欧阳觉亚等,广州话、客家话、潮汕话与普通话对照词典,广东人民出版 社,2005. [17] Hán Việt từ điển trích dẫn 漢越辭典摘引: http://hanviet.org/ [18] Trang web tra cứu âm đọc tiếng Hán thượng cổ và trung cổ: http://www.eastling.org/oc/oldage.aspx http://www.eastling.org/tdfweb/midage.aspx

THE VESTIGES OF HAKKA LANGUAGE IN VIETNAMESE Vo Trung Dinh

SUMMARY

In studying of correlations between the Bach Boc (Baipu) and Bach Viet (Baiyue) as well as the formation of Lac Viet community who is known as the earliest ancestors of Vietnamese (Kinh), we will discover there are a lot of interesting similarities between Vietnamese and Hakka language, therefore it will bring us a base in order to have a more overall vision about the original.

11

Tác giả: Võ Trung Định, nam, 1976, Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Tiếng Trung trường Đại học Ngoại ngữ, ĐH Huế. Nghiên cứu sinh chuyên ngành Ngôn ngữ học và Ngôn ngữ học ứng dụng trường ĐH Khoa học Công nghệ Hoa Trung ( Huazhong University of Science and Technology , HUST), Wuhan, China.

12